“Pedicapo ego vos et irrumabo’ có nghĩa là gì?” Elissande hỏi, khi họ leo lên con dốc dẫn đến đỉnh vách đá Người treo cổ.
Bình minh ngày hôm nay đầy nắng và xinh đẹp. Bờ biển phơi bày những mũi đất nguyên sơ và một bãi biển hoang dã. Cô bị cuốn hút ngay lập tức.
Sau bữa sáng, họ thuê một cỗ xe và đánh xe đến Combe Martin, ngôi làng gần vách đá Người treo cổ nhất, và từ đó họ đi bộ, lang thang qua những đồng cỏ xanh rờn lác đác vài con dê trắng đáng kinh ngạc trên lối đi.
Chồng cô đang uống nước từ bi đông nước mang theo. Trước câu hỏi của cô, anh sặc giống em trai mình vào cái buổi tối anh tuyên bố cụm từ đó là khẩu hiệu gia đình của nhà Edgerton ở Abingdon. Elissande phải đập mạnh vào lưng để giúp anh thoát khỏi cơn sặc.
Anh vừa rên rỉ vừa cười. “Chúa tôi, em vẫn còn nhớ à?”
“Tất nhiên em nhớ. Nó không phải khẩu hiệu của một gia đình nào đó, đúng không?”
“Không!” Anh gập đôi người lại để cười. “Hay ít nhất, anh hy vọng là không”.
Cô yêu tiếng cười của anh. Càng yêu nó nhiều hơn vì anh đã lê bước trên con đường dài, cô đơn để đến được với ngày này, ngày họ có thể tay trong tay thưởng lãm bờ biển của miền Tây đất nước. Cô nhặt chiếc mũ bị rơi xuống đường của anh lên.
“Thế nó có nghĩa là gì?” Cô vuốt tóc và đặt lại chiếc mũ trên đầu anh, điều chỉnh góc độ cho đúng – cô vẫn còn chưa quen với những đồ dùng của đàn ông.
“Nó được trích từ một bài thơ của Catullus, có lẽ là bài thơ bậy bạ nhất em không mong được đọc trong đời đâu”, anh hạ giọng xuống với vẻ bỡn cợt, “Bậy đến mức anh không nghĩ có bản dịch nào được xuất bản ở Anh”.
“Ồ?” Cô phải nghe cái này. “Nói đi”.
“Một quý bà trẻ tử tế giống như em không nên hỏi”, anh trêu.
“Một quý ông trẻ tử tế như anh không nên giữ kín, hoặc là quý bà trẻ tử tế sẽ bị xúi giục đi hỏi em trai anh”.
“Oái, đe dọa à. Anh thích đấy. Chà, nếu em phải biết, động từ đầu tiên liên quan đến thói thủ dâm”. Anh phá lên cười lần nữa, lần này là vì biểu hiện của cô. “Đừng sốc thế. Anh đã nói với em là bậy bạ mà”.
“Rõ ràng em có một cuộc đời được bao bọc. Khái niệm về bậy bạ của em là gọi người khác là xấu xí và ngu ngốc. Có động từ thứ hai không?”
“Đúng là có. Nó cũng liên quan đến một hành động tình dục, phần nào ít thô thiển hơn, nhưng vẫn khiến một phòng các quý cô kêu the thé đòi thuốc muối nếu nó được nhắc đến”.
Cô há hốc miệng. “Em nghĩ em biết nó là gì rồi”.
Anh lùi lại ngạc nhiên. “Không, em chắc chắn không biết nó là gì”.
“Có, em biết”, cô tự mãn nói. “Cái đêm anh uống say bí tỉ, anh đã nhắc đến rút lui. Và anh nói nếu anh trong một tâm trạng đặc biệt tồi tệ, anh sẽ bắt em nuốt tinh trùng của anh”.
Cằm anh trễ xuống. “Anh lấy lại lời nói đó. Thế là em biết nó là gì rồi. Lạy Chúa, đó là tất cả những gì anh nói với em rồi chứ?”
Một người chăn cừu trẻ xuất hiện trên đường, ôm một đống lông đi về phía họ.
“Nghĩ lại rồi”, chồng cô nói, “Hãy đợi đến tối nay. Anh có dự cảm rằng nếu nhắc chính xác đến những lời nói và hành động của anh đêm đó có thể dẫn dắt chúng ta đến những hành động khiến chúng ta bị bắt”.
Cô cười khúc khích. Anh trao cho cô một cái lườm chế giễu. “Nghiêm túc nào. Anh lo lắng cho danh tiếng của em đấy”.
Cô hắng giọng và điều chỉnh vẻ mặt. “Đó có phải là kiểu bài thơ La-tinh anh đang tìm để ru mình ngủ lúc ở Highgate Court không?”
“Tất nhiên là không. Đó là kiểu bài thơ La-tinh anh đọc khi muốn sặc nước, rõ ràng là thế”.
Cô cười giòn tan. “Nói đến việc tìm thơ La-tinh, anh đang làm gì trong phòng làm việc của chú em đêm đó”.
Biểu hiện của anh trở nên bẽn lẽn. “Nó ở ngay bên cạnh phòng khách màu xanh. Anh đang hy vọng đến nhìn em sau khi quý bà Avery đã bắt quả tang em ở một mình. Anh nghĩ nó sẽ hài hước lắm”. Anh thở dài. “Thấy chưa, sự trả thù đưa anh đến thất bại”.
Cô vỗ vào cánh tay anh. “Anh vẫn là một người đàn ông tốt?”
“Em nghĩ thế sao?”
Có thể ý định của anh là đặt câu hỏi một cách hờ hững, nhưng nó đã thốt ra với đầy hy vọng và hoài nghi.
Cô hiểu anh. Cô chưa bao giờ nghĩ mình tốt – làm sao người ta có thể tốt mà lại nói dối và lừa lọc thành thạo như thế? Nhưng cô không nghi ngờ những điểm tốt của anh: Cô chỉ cần nhìn vào cách anh chăm sóc mẹ cô.
Và anh có quá ít lòng tin vào bản thân.
Để nhận ra sự thay đổi anh cần phải nhìn thấu mọi chuyện; và để thú nhận sự thật với Freddie sau ngần ấy năm, anh cần đến lòng dũng cảm thực sự.
“Em biết thế”, cô nói.
Anh im lặng. Con đường ngoặt sang một bên. Anh đưa tay ra để giúp cô đi qua một hòn đá trên mặt đất. Cô ngước nhìn anh, rồi cảm thấy một bản năng che chở mạnh mẽ với người đàn ông đẹp trai, cao to, đang vừa hạnh phúc và vừa trầm ngâm của cô.
Họ đi được gần năm phút trước khi anh chạm vào vai cô và nói, “Cảm ơn em. Anh sẽ sống xứng đáng với nó”.
Cô không hề nghi ngờ lời nói của anh.
Đỉnh vách đá Người treo cổ mang đến một tầm nhìn hấp dẫn: mũi đất dài nhiều dặm xanh ngát cao hàng trăm mét, mặt trời chiếu xuống mặt biển xanh sẫm lấp lánh như lưới bạc, và ở xa xa, một con thuyền xinh đẹp, tất cả những cánh buồm đã giương lên, lướt trên mặt nước với vẻ duyên dáng nhàn hạ như một con thiên nga.
Cô không thể rời mắt khỏi cảnh đẹp này. Và anh không thể rời mắt khỏi cô. Mặt cô đỏ ửng, hơi thở cô vẫn còn hơi hổn hển sau một lúc hăm hở leo trèo, và nụ cười của cô, nụ cười của cô – anh sẽ bò trên kính vỡ vì nó.
“Ở đây thậm chí còn đẹp hơn khi hoa thạch nam nở rộ”, anh nói. “Lúc đó những sườn dốc chuyển thành một màu tím rực rỡ”.
“Vậy chúng ta phải quay lại nhé, khi hoa thạch nam nở rộ”.
Váy cô bay trong làn gió trong lành mang theo vị mằn mặn. Một cơn gió nghịch ngợm suýt nữa thổi bay mũ cô. Cô cười khanh khách khi dùng một tay giữ đỉnh mũ. Bàn tay kia trượt vào bàn tay anh, cái nắm tay của cô ấm áp và nhẹ nhàng.
Trái tim anh chao đảo: Đó là cô. Cô luôn là người anh chờ đợi trong suốt những năm qua.
“Anh thường nghĩ đến một người đồng hành hoàn hảo”, anh nói.
Cô liếc nhìn anh, đôi mắt ánh lên vẻ tinh quái. “Em cá rằng cô ấy không hề giống em”.
“Thực ra, cô ấy không hề giống anh. Anh tạo ra cô ấy đối lập với mình về mọi mặt. Cô ấy đơn giản, bằng lòng với cuộc sống, không lừa dối, không cay độc, và không có quá khứ”.
Cô quay hẳn về phía anh, lúc này khuôn mặt cô biểu hiện sự tò mò nghiêm túc. “Cô ấy có phải là Capri của anh không?”
Tất nhiên cô sẽ hiểu, nhưng trái tim anh vẫn trào dâng niềm cảm kích. “Phải, cô ấy là Capri của anh. Nhưng trong khi Capri của em là một khát vọng, Capri của anh đã trở thành một điểm nương tựa. Thậm chí sau khi anh yêu em, anh vẫn cố gắng bám níu lấy cô ấy. Đáng lẽ anh phải thừa nhận Capri của anh có vòng đời giới hạn và thời điểm kết thúc của nó đã đến thay vì đẩy em ra xa và đánh mất tương lai cùng với em”.
Tay cô siết chặt tay anh. “Anh có chắc là anh đã sẵn sàng từ bỏ nó chưa?”
“Rồi”. Sau cùng. “Và anh sẽ từ bỏ nhiều hơn thế. Anh nghĩ đã đến lúc anh gặp một ‘tai nạn’ khác”.
Cô há hốc miệng. “Anh từ bỏ công việc làm đặc vụ cho Hoàng gia?”
“Anh luôn muốn có một ghế trong Hạ nghị viện cho đến ngày anh phải thế chỗ của cha mình trong Thượng nghị viện. Và sau đó anh biết được sự thật về cái chết của mẹ mình. Kế hoạch của anh không còn thích hợp nữa. Thay vào đó, anh cống hiến hết mình cho một cuộc trả thù mà không bao giờ là của anh. Nhưng với một ‘tai nạn’ khác, anh có thể tuyên bố rằng anh đã hồi phục và bắt đầu từ đó”.
Cô chỉ nhìn anh chằm chằm, mắt mở lớn.
Bỗng nhiên sự nghi ngờ tấn công anh. “Em nghĩ rằng ý nghĩ tham gia vào Thượng nghị viện là quá ngông cuồng?”
“Không, hoàn toàn không. Em chỉ kinh ngạc trước tất cả thay đổi đã và sẽ xảy ra trong cuộc đời anh”. Cô chạm tay vào lông mày anh. “Anh sẽ vui vẻ khi làm ở Thượng nghị viện chứ?”
“Không. Nó là một tập hợp những kẻ phản động tự cao tự đại. Anh chưa từng nổi điên đến mức như thế khi bọn hắn phủ quyết thông qua đạo luật Tự trị cho Ai-len vào năm ’93”. Anh mỉm cười với cô. “Nhưng nên có người ở đó để nói với bọn hắn rằng bọn hắn chẳng qua chỉ là một tập hợp những kẻ phản động tự cao tự đại khố rách áo ôm”.
“Trong trường hợp đó, đầu tiên em sẽ phải diễn vẻ hoang mang sao cho phù hợp, vì người chồng ngốc nghếch của mình đột nhiên biến thành một người đàn ông có trí tuệ và kiến thức vượt quá sức tưởng tượng. Và sau đó, dưới sự dìu dắt nhiệt tình, kiên nhẫn của anh ấy, em sẽ phát hiện ra những năng lực trí óc bị ẩn giấu của chính mình”. Cô gật đầu. “Phải đó, em nghĩ như thế là được. Khi nào ‘tai nạn’ mới này của anh diễn ra?”
Anh bị giằng xé giữa việc phá lên cười và ngưỡng mộ trước cách giải quyết những đòi hỏi này của cô, vai diễn lớn cuối cùng của cô.
“Chúng ta sẽ quyết định thời gian và cách thức chính xác sau. Anh phải giải quyết những vấn đề khẩn cấp hơn rất nhiều. Thực ra là ngay bây giờ”.
Cô ngẩng mặt lên. “Chuyện gì thế?”
Những vết bầm vẫn còn hơi mờ mờ, nhưng chúng không làm xấu đi vẻ đẹp của cô: Anh chỉ yêu cô nhiều hơn vì lòng dũng cảm của cô.
“Cho dù anh cố gắng chối bỏ nhiều như thế nào thì anh cũng đã yêu em từ giây phút đầu tiên anh gặp em. Quý bà Vere, em sẽ dành cho anh vinh dự lớn lao là ở lại làm vợ anh chứ?”
Cô khẽ há miệng, sau đó cười khúc khích. “Đậy là lời cầu hôn phải không ngài Vere?”
“Đúng thế”. Anh đã không đoán trước, nhưng trái tim anh đang đập nhanh hơn. “Làm ơn nói đồng ý đi”.
“Đồng ý”, cô nói. “Vâng, em đồng ý. Không có gì có thể làm em hạnh phúc hơn”.
Anh bỏ mũ của cô xuống, sau đó của anh, và hôn cô, người đàn bà anh yêu nhất, ở một nơi yêu thích nhất của anh trên thế giới này.
Khi họ trở về nhà, họ nhận thấy không chỉ bà Douglas đã trở về từ London - tự hào đưa số châu báu của chị gái mình cho Elissande làm của hồi môn – mà còn có Freddie và Angelica đích thân đến để tuyên bố lễ đính hôn của họ.
Angelica trông thật rạng rỡ, đấm chiếu lệ vào ngực Vere để trừng phạt vì anh đã nói dối cô trong suốt từng ấy năm.
“Đấm anh nữa đi”, anh nói. Anh đã nói với Freddie rằng em trai anh có thể chia sẻ mọi thứ với Angelica, hiểu rằng Freddie cần làm như thế.
“Em nên đấm anh nữa”, Angelica nói, “Nhưng em đã quyết định tha thứ cho anh”.
Anh bước đến ôm cô. “Cảm ơn em”.
Anh chưa bao giờ thôi ngạc nhiên, sự rộng lượng của những người yêu anh – và những người anh yêu nhất.
Họ cùng nói chuyện phiếm một lúc với bà Douglas. Sau khi bà Douglas đi nghỉ, bốn người họ quây quần trong phòng làm việc và vui vẻ lấy Vere làm trò cười khi họ hiến mưu kế cho sự hồi phục của anh.
“Chúng ta có thể nói anh gặp một con gấu ở trong rừng”, Angelica nói, “và con gấu tát vào đầu anh như cách lẽ ra em sẽ làm!”
“Gấu hoang dã đã tuyệt chủng ở Anh kể từ thế kỷ thứ mười”, Vere chỉ ra. “Chúng ta sẽ gặp vấn đề với câu chuyện đó”.
“Thế còn một tai nạn trong lúc chơi crikê thì sao?” Freddie nói. “Em có thể đánh anh rất nhẹ”.
“Sau khi bị em thụi tơi bời, Freddie, anh nghĩ em đã đánh giá thấp sức mạnh của chính mình. Một cú đánh nhẹ của em có thể làm vỡ đầu anh”.
“Em có thể đập anh bằng một cái chảo rán”, vợ anh tham gia trò đùa, “Những xung đột trong gia đình luôn luôn dễ tin”.
“Ý tưởng tuyệt vời!” Angelica thốt lên.
“Nhưng em là một nữ hầu tước, không phải vợ của một nông dân”. Vere lắc đầu. “Những quý bà ở địa vị của em mất năm phút chạy từ phòng khách đến bếp để lấy một cái chảo làm gì? Sẽ đáng tin hơn nếu em dùng một cái bình thời nhà Minh”.
“Hoặc cây ba-toong của anh ấy”, Freddie nói, với một cái nháy mắt với Elissande.
Họ đều phá lên cười trước câu nói đó.
Freddie và Angelica ở lại ăn tối. Họ đã nâng cốc chúc tụng rất nhiều trong bữa tối: nâng cốc vì hạnh phúc tương lai của cặp đôi mới đính hôn, vì sức khỏe của bà Douglas, và sự hồi phục ‘kỳ diệu’ sắp tới của Vere, và vì lòng kiên nhẫn như thánh của vợ anh với một người đàn ông mô phạm đến mức không chịu nổi mà Vere chắc chắn sẽ trở thành, khi mà bây giờ anh đã tự do bộc lộ sự thông thái
Vere mời em trai và em dâu tương lai ở lại qua đêm, nhưng họ từ chối. Anh không nài ép nhiều vì biết rằng cặp tình nhân mới háo hức được về chốn riêng tư. Bốn người họ lên kế hoạch sẽ sớm gặp lại, sau đó Vere và Elissande đứng trước nhà, vẫy tay tạm biệt với Freddie và Angelica khi hai người đi ra ga tàu.
Khi cỗ xe biến mất khỏi tầm nhìn, Vere khoác tay lên vai vợ. Cô dựa vào người anh.
“Anh yêu em”, anh nói, hôn lên tóc cô.
“Em cũng yêu anh”. Cô nâng bàn tay ở vai lên và hôn vào lòng bàn tay. “Và em muốn đi bộ cùng anh, rất, rất nhiều lần”.
Anh mỉm cười. “Mong muốn của em là mệnh lệnh đối với anh, thưa quý bà”.
“Tốt”, cô nói. “Bây giờ hãy lên tầng trên và nói thật lâu, về những bài thơ La-tinh, anh hiểu ý em chứ?”
Họ vẫn còn cười khi khép cánh cửa phòng ngủ.