Bữa tiệc tại một ngôi nhà ở nông thôn sẽ chưa phải là một bữa tiệc cho đến khi Vere nhầm phòng mình với phòng người khác. Anh có rất nhiều lựa chọn. Cô Melbourne sẽ gào to nhất, cô Beauchamp sẽ cười to nhất và Conrad sẽ càu nhàu nhiều nhất.
Vì thế tất nhiên anh chọn phòng của cô Edgerton.
Anh đã ở trong phòng cô. Sau bữa tối, khi các quý cô đi đến phòng khách, anh đã giả vờ phải đi lấy điếu xì gà Colombia đặc biệt ở trong phòng mình để rời khỏi những quý ông khác.
Anh tranh thủ cơ hội lên sơ đồ những căn phòng và người ở trong phòng. Nhưng điều anh thực sự cần là một chút cho riêng mình. Và anh dành khoảng thời gian trống có trong hành lang, lưng tựa vào cửa phòng ngủ của mình, tay che mặt.
Anh đã không mất gì cả: Làm sao anh có thể mất thứ gì khi mà ngay từ đầu nó đã chưa bao giờ tồn tại? Tuy nhiên anh đã mất mọi thứ. Anh không thể nghĩ về người bầu bạn chung thủy như trước đây - ấm áp, khích lệ và thấu hiểu. Bây giờ anh chỉ nhìn thấy vẻ xinh đẹp săn mồi của cô Edgerton, vẻ xu nịnh lấp lánh trong mắt cô như mặt trời tỏa sáng trên răng của một con cá sấu.
Cuối cùng anh đã hiểu tại sao thỉnh thoảng những cậu bé ném đá những cô bé xinh đẹp. Đó là vì cơn oán giận không lời này, là nỗi đau của hy vọng tan vỡ này.
Anh ở đây để ném đá cô Edgerton.
Cô đang ngồi trước bàn trang điểm, lơ đãng, chậm rãi chải tóc, dáng người nghiêng nghiêng xoay về phía anh. Khi cô đưa cánh tay với lên đỉnh đầu, tay áo ngắn, rộng của chiếc váy ngủ trượt xuống để lộ cẳng tay, cả đường cong ở ngực, và trong một giây chớp nhoáng làm trái tim anh ngừng đập.
“Cô Edgerton, cô đang làm gì trong phòng tôi thế?” anh nói từ cánh cửa anh đã lặng lẽ mở ra.
Cô nhìn lên, há hốc miệng và nhảy khỏi ghế. Cô vội vã túm lấy áo choàng ngủ và buộc dây lưng chặt quanh người. “Thưa ngài, ngài đã nhầm rồi. Đây là phòng tôi”.
Anh nghiêng đầu và cười điệu. “Đó là điều họ đều nói. Nhưng cô Edgerton thân mến, cô chưa kết hôn. Những trò bịp bợm như thế không dành cho cô đâu. Bây giờ chạy đi”.
Cô há hốc miệng nhìn anh. À, ít nhất cô không mỉm cười.
Cả phần còn lại của buổi tối cô không lại gần anh mà đổi lại chơi bài với Freddie, Wessex và cô Beauchamp, vẫn mỉm cười quá thường xuyên, điều đó cũng không làm anh hạnh phúc hơn. Cái phần ngu ngốc, phi lý trong anh vẫn muốn nụ cười của cô; còn tệ hại hơn, anh cảm thấy quyền sở hữu rành rành đối với cô.
Anh thong thả vào phòng và ngồi xuống cuối giường, đối diện với bức tranh treo trên bức tường trước mặt. Nó là một bức tranh hình chữ nhật kích thước khoảng một mét và một mét hai, một bông hoa hồng đỏ máu duy nhất mọc lên cùng với những cái gai sắc như dao cạo. Ở lề bức tranh là vai và cánh tay của một người đàn ông nằm úp mặt xuống tuyết, một chiếc lông đen dài nằm cạnh bàn tay không sức sống của anh ta - bức tranh này chắc chắn có liên quan đến bức trong phòng ăn.
Vere nới lỏng cà vạt và kéo nó ra.
“Thưa ngài!” bàn tay cô siết chặt trên thắt lưng của chiếc áo choàng ngủ. “Ngài không thể, ngài không thể cởi đổ ở đây”.
“Tất nhiên tôi sẽ không thực sự cởi đồ, trong khi cô vẫn ở đây, cô Edgerton. Và nhân tiện, tại sao cô vẫn ở đây?”
“Tôi đã nói với ngài rồi, thưa ngài. Đây là phòng tôi.”
Anh thở dài. “Nếu cô cứ khăng khăng, tôi sẽ hôn cô. Nhưng tôi sẽ không làm gì khác”.
“Tôi không muốn được hôn”.
Anh mỉm cười với cô. “Cô chắc không?”
Trước sự ngạc nhiên của anh, cô đỏ mặt. Phản ứng của chính anh là một hơi nóng gay gắt chớp nhoáng.
Anh nhìn cô chằm chằm.
“Làm ơn đi đi”, cô run rẩy nói.
“Penny! Penny, anh nhầm phòng rồi”, Freddie, Freddie tốt bụng yêu quý gọi từ cánh cửa đang mở.
Cô chạy ào đến chỗ Freddie. “Ôi, cám ơn, ngài Frederick. Tôi không thể giải thích với ngài Vere rằng ngài ấy đã phạm một sai lầm khủng khiếp”.
“Không, không, tôi sẽ chứng minh cho cả hai người”, Vere tuyên bố ầm ĩ. “Nhìn này, tôi luôn để một điếu xì gà dưới chăn, để tôi có thể hút lần cuối trước khi đi ngủ”.
Anh tiến về giường của cô và, trước tiếng hét tắc nghẹn của cô, lật tung chăn lên. Tất nhiên, không có gì ở đó.
Anh trợn mắt. “Cô hút thuốc của tôi à, cô Edgerton?”
“Penny! Đây thực sự không phải phòng anh”.
“À, được rồi”, Vere vung tay lên nói. “Chán thật. Anh thích phòng này”.
“Đi nào”, Freddie giục anh. “Muộn rồi. Em sẽ đưa anh về phòng”.
Anh đã sẵn sàng để đi, nhưng mới đến cửa Fredddie đã nắm cánh tay anh. “Penny, không phải anh nên nói gì với cô Edgerton sao?”
“Đúng rồi, tất nhiên”.
Anh quay lại. “Cô Edgerton, phòng cô rất đáng yêu”.
Freddie thúc anh.
“Và tôi thành thật xin lỗi”, Vere nói thêm.
Với một chút nỗ lực, cô giật ánh mắt ra khỏi Freddie. “Đó là một sai lầm có thể hiểu được, thưa ngài. Phòng chúng ta gần nhau”.
Đúng là phòng họ gần nhau. Phòng anh chéo phòng cô qua lối đi. Những vị khách gần nhất là Freddie và quý bà Kingsley ở cách hai cánh cửa. Một dấu hiệu khác trong kế hoạch chu đáo của cô, để dễ dàng đâm sầm vào vị hầu tước cô định gài bẫy.
Như thể để chứng tỏ rằng cô không hề khó chịu trước sự nhầm lẫn của anh, cô tặng anh một nụ cười tươi rói và duyên dáng, giống tất cả nụ cười cô đã phân phát cả ngày hôm nay. “Chúc ngủ ngon, thưa ngài”.
Bây giờ anh đã biết rất rõ rằng những nụ cười của cô chẳng có ý nghĩa gì. Anh biết cô sản xuất nó theo cách một người thợ sản xuất ra những tờ giấy hai mươi bảng cứng. Và anh vẫn không thể ngăn lại làn sóng khao khát cũ ấy.
“Ngủ ngon, cô Edgerton”. Anh cúi đầu. “Tôi xin lỗi lần nữa”.
Ban đầu, độ cao khiến Elissande phấn khích. Một ngọn núi thực sự, thật cao phía trên những cánh đồng xa tắp mang đến cảm giác giống như cô đang đứng trên ban công của thần Zeus. Không khí loãng. Ánh mặt trời rực rỡ, gay gắt. Một chấm đen di chuyển vòng vòng trên bầu trời xa xa. Cô đưa tay lên để che mắt trước ánh nắng mặt trời chói chang.
Nhưng bàn tay cô chỉ di chuyển được vài centinmet. Cô kinh hoàng nhìn nó và chớp mắt. Một chiếc còng tay màu đen giữ chặt cổ tay cô. Một sợi dây xích, mỗi móc xích to bằng nắm đấm thò ra từ chiếc còng tay này. Đầu kia của sợi dây xích đóng vào chính ngọn núi.
Cô nhìn vào cổ tay kia. Cũng như thế. Bị trói giống như Prometheus [1]. Cô giật cổ tay. Đau. Cô giật mạnh hơn. Nó chỉ đau hơn.
[1] Vị thần khổng lồ đã ăn cắp lửa từ đỉnh Olympia cho loài người và bị thần Zeus trừng phạt bằng cách trói vào một hòm đá để cho đại bàng ăn sống cho đến khi được Hercules giải cứu.
Sợ hãi, dâng lên nhanh như nước lũ trong tầng hầm. Trái tim cô đập dồn dập. Hơi thở của cô trở nên ngắn lại, biến thành những tiếng thở hổn hển đứt quãng. Làm ơn, đừng. Bất cứ chuyện gì trừ chuyện này.
Bất cứ chuyện gì trừ chuyện này.
Một tiếng rít xuyên qua không trung. Chấm đen to lên, lao nhanh về phía cô. Nó là một con chim, một con đại bàng, cái mỏ của nó sắc như dao, và nó đã đến gần chỗ cô. Cô khiếp đảm vật lộn. Máu rỉ ra từ cổ tay cô. Nhưng cô không thể giải thoát cho mình.
Con đại bàng rít một tiếng khác, cái mỏ của nó đâm thẳng vào bụng cô. Trong cơn đau đớn, cô thậm chí không thể gào thét, mà chỉ điên cuồng vẫy vùng.
Cô thức dậy trong lúc vẫn vùng vẫy.
Phải mất vài phút để nỗi hoảng sợ khủng khiếp đó qua đi. Với những ngón tay vẫn còn run rẩy, cô thắp sáng một cây nến và lục tìm cuốn sách hướng dẫn đến miền Nam nước Ý từ ngăn kéo để đổ lót.
“‘Những bức tường đá vôi dựng đứng mọc lên ở phía tây của ngôi làng ngăn cách vùng cao nguyên rộng lớn của Anacapri với phía đông của Capri’”, cô khe khẽ đọc cho chính mình nghe. “Trước kia, con đường duy nhất để đến Anacapri là leo lên tám trăm bậc đá gồ ghề từ bãi biển, được đục vào mặt đá và có thể đã được xây dựng từ trước thời trị vì của đế chế La Mã. Hiện tại một con đường đẹp dành cho xe ngựa dẫn đến Anacapri đã được xây dựng. Phong cảnh trên con đường này là đẹp nhất”.
Vere đã tham dự vụ điều tra Douglas theo yêu cầu của quý bà Kingsley. Anh cũng khá sẵn lòng, anh nợ cô một ân huệ vì sự giúp đỡ của cô trong vụ Hayleigh, nhưng anh vẫn chưa hoàn toàn bị thuyết phục về phần tội lỗi của Douglas. Hai lần tìm theo dấu vết của kim cương bị tống tiền đều dẫn đến khách sạn Brown, và cả hai lần Douglas đều đang ở đó. Mỗi lần ông ta đều đi từ London đến Antwerp, nơi một số lớn những nhà buôn bán kim cương bị biến thành mục tiêu của những mưu đồ tống tiền.
Nhưng Douglas có những lý do chính đáng để đến những trung tâm buôn bán kim cương tầm cỡ như London và Antwerp. Và ngay cả khi quý bà Kingsley chắc chắn rằng họ đã xác định đúng người, cô ấy cũng không thể giải thích tại sao một người bơi trong kim cương vẫn muốn có thêm kim cương nữa.
“Một lý do là ông ta không có nhiều như chúng ta nghĩ. Ông ta hẳn đã phóng đại về mức độ giàu có của mỏ kim cương mà mình tìm thấy”, quý bà Kingsley thì thầm với Vere, sau ba tiếng đồng hồ kiểm tra giấy tờ trong thư viện của Douglas. “Lời đồn đại nói rằng mạch kim cương đó rất dồi dào, bất kỳ một thùng bùn nhão nào cũng chứa lượng tài sản của cả một đời người. Nhưng thực tế không hẳn là thế”.
Vere đẩy một hộp giấy tờ trở lại ngăn kéo đúng của nó. “Có lẽ tay quản lý đã ăn trộm”.
“Có khả năng. Nhưng nếu ông ta nghĩ thế, ông ta lại không hề trở lại để kiểm tra. Ít nhất tay đốc công và kế toán chưa bao giờ nhắc đến một chuyến kiểm tra nào”. Quý bà Kingsley giơ cao chiếc đèn lồng để Vere có thể nhìn rõ hơn chiếc hộp tiếp theo nên để ở đâu. “Còn sổ sách chi tiêu trong nhà thì sao?”
Quý bà Kingsley có tài năng đặc biệt trong việc xem xét những giấy tờ làm ăn; tối nay Vere đã làm việc như người hầu phòng của cô, công việc chính của anh là đứng gác và khuân vật nặng. Nhưng cô vẫn cần nghỉ ngơi sau khi đọc trong thứ ánh sáng ít ỏi mà họ dám để, Vere đã tranh thủ cơ hội để kiểm tra sổ sách chi tiêu trong nhà.
“Điền trang này không có nhiều đất. Rất ít thu nhập và rất nhiều chi phí”, anh thuật lại. “Nhưng vẫn là những chi phí thông thường. Không có những yếu tố gây ra động cơ của những hoạt động phạm pháp”.
“Vài người làm chỉ vì thích làm”.
“Và hầu hết thì không”. Vere điều chỉnh những chiếc hộp cho ngay ngắn, theo đúng kiểu anh đã tìm thấy chúng. “Cô có tìm thấy thứ gì đề cập đến kim cương nhân tạo không?”
“Không, không có gì”.
Vụ điều tra Edmund Douglas đã bắt đầu khá tình cờ: một tay cảnh sát Bỉ tình nghi bị bắt vì một tội danh khác đã khoác lác về việc thay mặt một quý ông người Anh lừa đảo những người buôn kim cương của Antwerp. Sự việc đã không được cảnh sát Bỉ xếp vào một trong nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để điều tra, họ cho rằng đây là một trường hợp khoác lác nhạt nhẽo, nhưng Vere ngờ rằng sự thiếu quan tâm của họ phần nào liên quan đến một thực tế là những người buôn bán kim cương ở Antwerp là một cộng đồng người Do Thái.
Bất kể sự thờ ơ của cảnh sát Bỉ, sự dửng dưng y hệt của Sở chỉ huy cảnh sát London và sự im lặng tuyệt đối của những người được cho là nạn nhân của Douglas, bằng cách nào đó vụ án đã lôi kéo được sự chú ý của Holbrook và rồi sau đó chiến thắng được quý bà Kingsley, cha cô đã tự tử khi ông không thể duy trì hạnh phúc cho kẻ tống tiền mình.
Cô đã kiên trì theo đuổi vụ này trong nhiều tháng, thu thập một lượng tài liệu khổng lồ. Và một trong số tài liệu đó đã làm Vere bối rối ngay từ đầu là lý do tên tội phạm người Bỉ dùng để tống tiền những người buôn bán kim cương: họ đã lấy kim cương nhân tạo thay cho kim cương tự nhiên.
Theo như Vere biết, sau khi nhà hóa học người pháp Henri Moissan công bố sự thành công trong quá trình tổng hợp kim cương sử dụng lò luyện điện hồ quang, không ai có thể lặp lại thành tựu này. Kim cương tổng hợp vẫn còn chưa có thực. Và ngay cả nếu chúng có thật, thế giới cũng không hề nằm trong nguy cơ cạn kiệt kim cương thật. Các nhà buôn bán kim cương của Antwerp và London không có lý do gì để buôn bán kim cương nhân tạo.
Quý bà Kingsley rời khỏi phòng làm việc trước. Vere đợi thêm vài phút trước khi đi lên theo cầu thang dành cho người làm. Từ chiếu nghỉ cầu thang đi theo hướng đông đến cuối ngôi nhà, là nơi bố trí phòng sinh hoạt của chủ nhân và nữ chủ nhân.
Anh dừng lại trước cửa phòng chủ nhân lắng nghe rồi lẻn vào trong. Phòng ngủ của một người đàn ông là nơi thường diễn ra một loạt các công việc của người hầu như dọn giường, lau lò sưởi, là quần áo và phủi bụi đồ đạc. Không có vẻ gì là Douglas cất giữ những thứ đặc biệt quan trọng ở đây, nhưng Vere hy vọng tìm hiểu thêm về tính cách của Douglas.
Anh lấy chiếc bút mực từ trong túi ra và cẩn thận vặn ở giữa. Chiếc bút chứa một lượng mực nhỏ và có thể viết vài đoạn văn, nhưng mục đích thực sự của nó nằm ở một cục pin khô và một bóng đèn nhỏ nằm ở vị trí lẽ ra là ngăn chứa mực.
Anh lia nhanh chiếc đèn pin nhỏ quanh phòng, chiếc đèn này gọn gàng hơn một cây nến hay một chiếc đèn lồng, mặc dù ánh sáng của nó không được lâu và pin luôn cần được tạm nghỉ. Chiếc đèn dừng lại ở một bức ảnh đóng khung trên chiếc bàn đầu giường của Douglas, bức ảnh duy nhất Vere đã gặp trong nhà này cho đến nay. Anh khom người xuống để nhìn rõ hơn.
Đó là một bức ảnh cưới của một cặp đôi đẹp khác thường. Cô dâu sở hữu một sắc đẹp thoát trần, huyền ảo, chú rể có chiều cao trung bình và dáng người thanh mảnh, diện mạo cũng đẹp như cô dâu. Trên khung ảnh khắc dòng chữ Anh yêu em nhiều như thế nào; hãy để anh chứng tỏ.
Khuôn mặt người phụ nữ có nét hơi quen thuộc. Anh đã nhìn thấy ở đâu đó, và khá gần đây. Nhưng ở đâu? Và khi nào? Anh có tài nhớ mặt và tên. Nhưng cho dù anh không có biệt tài đó, anh cũng không thể quên một phụ nữ với khuôn mặt như thế.
Và anh nhớ ra: bức tranh lạ lùng trong phòng ăn. Khuôn mặt của thiên thần.
Cô dâu có phải bà Douglas không? Nếu như thế, có nghĩa rằng chú rể là Edmund Douglas. Tất nhiên, để ảnh cưới của một người khác trên bàn đầu giường của mình là một việc kỳ quặc. Nhưng Vere cảm thấy khó khăn khi gán người đàn ông đẹp trai bóng mượt và gần như tinh tế trong bức ảnh với những gì anh biết về Edmund Douglas.
Chẳng phải khổ người ông ta lực lưỡng hơn hay sao? Nếu Vere không nhầm, Douglas đã từng là một võ sĩ nhỏ con. Và ngay cả nếu ông ta là một võ sĩ nhỏ con, những vết sẹo và cái mũi gẫy của ông ta đâu?
Phòng của bà Douglas nồng nặc mùi cồn thuốc phiện. Bà Douglas đang ngủ, hơi thở của bà chậm chạp và người mỏng như tờ giấy.
Anh chiếu chiếc đèn nhỏ cạnh mặt bà. Sắc đẹp là một thứ hàng hóa nổi tiếng có sức bền không đáng tin cậy. Nhưng, vẻ ngoài của bà Douglas vẫn làm anh chấn động. Bà là một hình ảnh khô héo nhại lại của con người cũ, mái tóc thưa thớt, mắt trũng sâu, miệng hé mở trong trạng thái mê mệt do cồn thuốc phiện gây ra – một khuôn mặt làm trẻ con hoảng sợ khi chúng vô tình đến gần bà.
Nhưng đây là bản chất của cuộc sống. Tất cả kim cương của Châu Phi không đảm bảo cho vợ của một người đàn ông giàu có khỏi bị biến thành bù nhìn vào lúc này.
Trên bàn đầu giường của bà cũng là một bức ảnh. Ảnh của một đứa bé còn rất bé đang nằm trong chiếc quan tài nhỏ xíu, bao quanh bởi hoa và ren màu nhạt: một bức ảnh tưởng nhớ người đã chết, ở cuối ảnh ghi Christabel Eugenie Douglas yêu quý.
Vere đặt bức ảnh xuống và nâng đèn lên. Thứ tiếp theo anh nhìn thấy khiến anh dừng lại một lúc lâu. Nó là bức thứ ba của chủ đề Sự phản bội của thiên thần, được vẽ vào thời điểm giữa hai bức kia. Người đàn ông nằm trơ trên tuyết chiếm gần hết bức tranh; bên cạnh anh ta, nơi máu đã chảy thành vũng, bông hồng đen nở bung đầy vẻ hung hăng. Phần của thiên thần chỉ còn một bên cánh đen và mũi của lưỡi kiếm dính máu ở góc trên bên phải.
Vere sờ trên và dưới gờ bức tranh bằng đầu ngón tay đi găng. Có một cái chốt ở đó. Bức tranh bật về phía trước để lộ một ngăn chứa trong tường. Hoàn toàn có lý: sức khỏe ốm yếu của bà Douglas mang đến một lý do chính đáng để ngăn những người hầu vào phòng này, và vì thế phòng bà là nơi cất giấu không thể tốt hơn.
Anh lấy ra một cây kim phá khóa từ bên trong túi áo gi-lê. Giữ chiếc đèn giữa hai hàm răng, anh bắt đầu làm việc, di di cây kim. Sau vài phút, ổ khóa kêu tách một cái và anh mở cánh cửa của ngăn bí mật, chỉ để thấy một cánh cửa thứ hai khóa bằng mã số của Mỹ ở bên trong.
Có tiếng bước chân khẽ vang lên từ lối đi bên ngoài. Vere đóng ngăn chứa, đẩy bức tranh lại cho đến khi nó đóng chốt, rồi ẩn mình sau tấm rèm giường, đồng thời nhét chiếc bút vào túi.
Cánh cửa mở. Tiếng bước chân tiến thẳng đến giường. Anh nép sát người vào tường, sau chiếc màn đã kéo ra một nửa, hy vọng người phụ nữ, tiếng bước chân nhẹ như thế chắc chắn là của một phụ nữ, không đến gần hơn.
Cô dừng lại ở mép giường bên kia, đứng ở đó một lúc lâu. Anh cảm thấy khó mà thở được nhẹ nhàng. Sự hiện diện của cô làm anh tức tối.
“Cháu sẽ không từ bỏ, dì biết mà”, cô nói, giọng yếu ớt đến kỳ lạ.
Anh lỡ một nhịp tim mới nhận ra rằng cô không nói với mình, mà là với người dì gần như đang hôn mê.
“Điều đó là có thể, đúng không?” cô hỏi bà Douglas bất động.
Điều đó là cái gì? Cô muốn gì?
Cô cúi xuống, hôn bà Douglas, và bỏ đi.
Vào buổi sáng, Elissande ra lệnh cho bữa sáng được đưa đến phòng mọi người ngoại trừ ngài Frederick. Sau đó cô yên vị trong phòng ăn sáng để đợi anh đến, để họ có thể thư thái hưởng thụ một thời gian bên nhau.
Cô sẽ yêu cầu anh kể thêm với cô về nghệ thuật, và có lẽ vài điều về London. Cô lắng nghe chăm chú, gật đầu và thỉnh thoảng uống một ngụm trà, thật duyên dáng. Và sau đó - gì nhỉ? Cô thích ngài Frederick. Rất nhiều. Nhưng cô không có kiến thức cơ bản nào để tán tỉnh anh thành công, không như...
Chối bỏ cũng chẳng có ích gì. Với ngài Vere, cô không cần phải lo lắng đến những chi tiết tán tỉnh. Điều quan trọng duy nhất là khi giảm khoảng cách giữa họ, cả người cô đã vươn tới gần anh ta hơn.
Cho đến khi cả ngực cô bị anh ta đẩy lùi.
Dẫu vậy, khi anh ta hào hiệp tuyên bố rằng anh ta sẽ hôn cô...
Không, cô không hề có cảm giác gì trước sự tán tỉnh không đứng đắn của anh ta, không có gì ngoại trừ tức giận và chán ghét.
Ngài Frederick xuất hiện ở cửa. Tuyệt vời, kế hoạch đã có tác dụng. Cô mỉm cười với anh. Trong giây phút tiếp theo nụ cười của cô đông cứng lại. Ngài Vere đi theo anh vào phòng ăn sáng, ngài Vere, với vết bùn to trên giày và những cọng rơm trên tóc.
“Ô, này, cô Edgerton”, ngài Vere hào hứng. “Tôi vừa ra ngoài đi dạo. Quay lại và gặp Freddie đi xuống cầu thang. Vì thế chúng tôi ở đây, chúng tôi mang cơn đói và sự bầu bạn quyến rũ của chúng tôi đến cho cô”.
Cô nên thương hại anh ta. Anh ta không thể ngăn mình trở thành một tên ngốc. Nhưng thứ duy nhất cô cảm thấy lúc này là lòng căm phẫn bùng cháy. Sự hiện diện của anh ta phá hỏng kế hoạch được sắp xếp cẩn thận của cô.
“Ngài thật tử tế”, cô buộc mình nói. “Và tôi đã lấy cho mình rồi. Xin mời lấy đồ ăn và ngồi xuống”.
Nhưng làm thế nào để cứu vớt bữa sáng? Cô cần hỏi ngài Frederick dồn dập về nghệ thuật ngay khi anh ngồi xuống - đặc biệt là nghệ thuật của anh.
Nhưng ngài Vere lại ngáng trở cô lần nữa bằng cách bắt đầu bài độc thoại khi vẫn còn đứng trước tủ để đồ ăn, cho trứng rán, cá trích nướng và bánh xốp bơ vào đĩa. Chủ đề nghị sự của anh ta lần này là nghề chăn nuôi động vật. Rõ ràng là anh ta đã đến một hoặc hai hội chợ nông nghiệp và coi mình là một chuyên gia.
Anh ta diễn giải chi tiết với độ dài đáng kể về loại cừu lấy thịt ở Shropshire, giá trị và nhược điểm của nó, và sau đó so sánh với cừu ở Southdown, Oxford Down và Hampshire, theo ý kiến của anh ta, những con cừu đực này có được cái mõm của cừu La Mã.
Mặc dù lớn lên ở nông thôn, Elissande không biết gì về cừu.
Nhưng cô có thể hình dung được những sai lầm khủng khiếp của anh ta. Cô vẫn còn muốn lắc vai anh ta và hỏi xem làm thế nào cô có thể có bức tranh Sự giải cứu Thánh Peter của Raphael trong phòng ăn tối khi nó là bức tranh vẽ trên tường của Tòa thánh Vatican – một phần kiến trúc trong phòng của giáo hoàng.
Không rõ từ lúc nào ngài Vere chuyển chủ điểm từ cừu sang gia súc. Anh ta muốn Elissande biết rằng mình không chỉ tham gia những hội chợ nông nghiệp, mà còn nhìn thấy những bảng xếp hạng thực sự. “Ôi trời, những con vật xinh xắn đó phải trải qua một cuộc đánh giá nghiêm khắc về đầu, cơ thể, thân trước, thân sau. Cô có biết yếu tố quan trọng nhất để đánh giá một con bò sữa là gì không?”
“Không, tôi chắc chắn là tôi không biết, thưa ngài”, cô nói, chọc con dao vào chiếc bánh xốp trên đĩa.
“Sự phát triển của vú, cô Edgerton, chiếm ba mươi lăm phần trăm trong tổng số điểm. Bầu vú phải to và dễ nắn bóp. Núm vú có kích thước vừa phải và sắp xếp đều nhau. Mạch sữa phải rất nhiều, tia sữa phải lớn”.
Anh ta không nhìn mặt mà đang nhìn vào ngực cô. “Không thể tin rằng kể từ đó tôi không còn nhìn bò sữa theo kiểu trước đây. Bây giờ, khi tôi nhìn thấy một con bò cái, thay vì chỉ nói với mình, ‘Ô, nhìn kìa, bò sữa kìa’, tôi nghiên cứu bầu vú và núm vú của chúng để xem có phù hợp với nguyên tắc của nghề chăn nuôi gia súc hay không. Và tất nhiên, đó là niềm vui đơn thuần của việc nghiên cứu bầu vú và núm vú”.
Elissande không thể tin vào tai mình. Cô mở mắt lớn hơn một chút và gật đầu mạnh hơn một chút. Sau đó cô liếc nhìn về phía ngài Frederick, chắc chắn là người này phải đang cau mày với ngài Vere, cố gắng cảnh báo anh trai mình rằng bài phát biểu của anh ta đã ở ngoài phạm vi có thể chấp nhận được.
Nhưng ngài Frederick không chú ý gì. Anh ăn chậm rãi, mắt gắn vào đĩa, đầu óc rõ ràng đang ở chỗ khác.
Ngài Vere tiếp tục về bầu vú và núm vú, ánh mắt anh ta dán vào phần thân trên của cô. Trong sự hào hứng anh ta làm rơi hai cái nĩa và một cái thìa, làm đổ một tách trà và cuối cùng khi một lát trứng rán rơi bịch xuống lòng, anh ta nhảy dựng lên, hất đổ chiếc ghế một cách ầm ĩ. Lát trứng trên quần rơi bộp xuống sàn nhà, sau khi để lại một vòng tròn hoàn hảo của lòng trứng vàng dinh dính đúng nơi không nên nhìn.
Cuối cùng cuộc náo loạn đã mang ngài Frederick ra khỏi trạng thái mơ mộng của mình. “Penny, chuyện gì...”
“Ôi, trời”, Elissande nói. “Tốt nhất ngài đi thay đồ nhanh đi, thưa ngài, nếu ngài không muốn làm hỏng quần áo đẹp của mình”.
Ít nhất một lần, ngài Vere làm điều có lý và đi khỏi. Elissande từ từ thả lỏng bàn tay siết chặt dưới bàn. Tuy nhiên, đó là vài giây trước khi cô có thể làm chủ mình đủ để mỉm cười với ngài Prederick.
“Và buổi sáng hôm nay của ngài như thế nào, thưa ngài?”
Khay đồ ăn sáng có trong phòng anh và không có trong phòng Freddie nói với Vere mọi điều anh cần biết: cô Edgerton đã định ăn sáng với Preddie, chỉ hai người.
Anh không thể đổ lỗi cho thẩm mỹ của cô: Freddie là người đàn ông tốt nhất. Tuy nhiên, với những nụ cười thừa mứa và mưu mẹo của mình, cô không xứng đáng với Freddie. Nhưng hãy để cô thử. Anh sẽ cản trở, đánh lui và phá hỏng từng kế hoạch một của cô.
Nhưng bây giờ anh cần nói chuyện với quý bà Kingsley. Anh nhét một lời nhắn dưới cửa phòng cô. Năm phút sau cô gặp anh ở chiếu nghỉ của cầu thang lớn, nơi không ai có thể tiếp cận họ mà không bị họ nhìn thấy.
“Tôi đã bảo Holbrook tìm Nye”, Vere nói.
Nye là một người chuyên phá khóa những ngăn bí mật. Sau khi Vere rời phòng bà Douglas, anh thay đồ, viết một lời nhắn có vẻ như lộn xộn theo cách mã hóa mà Holbrook biết đọc, và đi bộ đến bưu điện đúng lúc phòng điện tín mở. Trên đường về anh đã đi nhờ một chiếc xe bò chở thóc và ngả đầu xuống ngủ một giấc ngon lành sau một đêm không ngủ. Anh về đến Highgate Court khi Freddie xuông lầu để ăn sáng.
“Ngăn bí mật ở đâu? Và anh vẫn còn rơm trên tóc”.
“Trong phòng bà Douglas, sau bức tranh người đàn ông chết”, Vere nói, luồn tay vào tóc. “Cô có biết gì về hoạt động của người làm không?”
“Họ không vào phòng bà Douglas trừ phi được gọi. Cô Edgerton đưa bà ta ngồi vào xe lăn và đẩy bà ta lên xuống lối đi hai lần một tuần. Đó là lúc người làm vào lau dọn, thay ga gối... vân vân. Nếu không thì, chỉ có cô Edgerton, và tôi nghĩ là cả Douglas nữa, vào phòng ấy”.
“Trong tình huống đó, Nye có thể bắt đầu làm việc ngay khi cô Edgerton xuống ăn tối”.
Quý bà Kingsley nhìn lên và vẫy tay với cháu gái mình, người đáp lại cái vẫy tay của cô trước khi biến mất ở cuối hành lang, có thể là đến chỗ một trong những người bạn. “Anh ta sẽ cần bao lâu?”
“Anh ta đã mở một ngăn khóa bằng mã số trong chưa đầy nửa giờ. Nhưng đó là khi anh ta có thể khoan. Anh ta không thể khoan ở đây”.
Quý bà Kingsley cau mày. “Tối qua khi các quý cô đi nghỉ, cô Edgerton đã đến phòng bà Douglas trước khi cô ấy về phòng mình”.
“Chúng ta phải chắc chắn cô ấy không đi ngủ quá sớm tối nay”.
“Chúng ta sẽ làm thế”, quý bà Kingsley nói. “Và tôi có thể bịa ra một vài lý do để giữ cô ấy với tôi một lúc sau khi các quý cô đã đi ngủ, nhưng không quá lâu được đâu”.
Cô Kingsley lại xuất hiện ở đầu cầu thang. “Ngài Vere, tôi có thể mượn dì tôi một lúc không? Chỉ là hôm nay cô Melbourne không thể quyết định sẽ mặc gì”.
“Cô làm việc cô có thể làm và tôi sẽ lo phần còn lại”, Vere nói với âm lượng vừa đủ cho quý bà Kingsley nghe thấy. Sau đó anh nói cao giọng. “Tất nhiên cô có thể có cô ấy, cô Kingsley. Đây, cô ấy hoàn toàn là của cô, cùng với lời chúc mừng của tôi”.
Thật là một cuộc nói chuyện dễ chịu: về những đại điểm của London và những miền quê lân cận mà ngài Frederick thích vẽ. Nhưng nó không phải là một cuộc nói chuyện thú vị. Không phải Elissande quá quen thuộc với những cuộc hội thoại thú vị, nhưng cô vẫn cảm thấy những tia sáng bị thiếu.
Ngài Frederick không nhìn vào cô như thể anh là một con cừu đói và cô là một bó cỏ tươi, thơm ngát. Và Chúa tôi, tại sao cô lại đang nghĩ về việc chăn nuôi gia súc trong khi cô chưa bao giờ nghĩ như thế trước đây? Ngài Frederick lịch sự và nhiệt tình, nhưng anh không biểu lộ thái độ thích thú gì hơn với Elissande.
Cô đổ lỗi tất cả cho ngài Vere, đặc biệt khi anh ta quay lại quá sớm, vẫn còn mặc cái quần dính trứng. Bài thuyết trình về cừu lấy thịt đã rút cạn sức sống và lòng nhiệt tình của ngài Frederick, người đã lắng nghe anh ta hàng nghìn nghìn lần trong nhiều giờ đồng hồ của cả một đời người, chỉ có Chúa mới biết.
“Penny, anh quên thay quần rồi”, ngài Frederick chỉ ra.
“Thì ra là thế!” Ngài Vere la lên. “Anh lên đến phòng và chẳng tài nào nhớ ra tại sao anh lên trên đó. Bực cả mình”.
Đồ ngốc!
“Có lẽ ngài nên thử lại?” Elissande gợi ý, cong môi lên và mong rằng những nụ cười đó sẽ là những mũi tên. Ngài Vere sẽ dễ bị xuyên qua hơn Thánh Sebastian [2].
[2] Một vị thánh và người tử vì đạo của đạo Cơ đốc giáo, bị giết trong cuộc thanh trừng người Cơ đốc giáo của hoàng đế La Mã Diocletian. Trong nghệ thuật và văn học, ông được miêu tả trong trạng thái bị trói vào một cột và bị những mũi tên xuyên qua.
“Ồ, không có ích gì đâu. Tôi sẽ chỉ lại quên nữa thôi”, ngài Vere gạt đi ý kiến hớn hở của cô. “Có lẽ tôi nên đợi cho đến khi tôi thay quần áo đi săn. Nhân tiện, trò săn bắn ở đây như thế nào, cô Edgerton?”
Có phải anh ta lại đang nhìn vào ngực cô nữa không? Mắt anh ta chắc chắn không nhìn vào mắt cô. “Tôi e rằng chúng tôi không tổ chức trò chơi ngoài trời, thưa ngài”.
Mắt anh ta vẫn ở chính xác nơi chúng đang ở “Không? Hừm, tôi cho rằng chúng ta sẽ phải chơi quần vợt”.
“Tôi xin lỗi, nhưng chúng tôi cũng không có sân quần vợt”.
“Còn bắn cung thì sao? Tôi không phải là một người bắn cung quá tệ”.
Ngài Frederick vặn vẹo bên cạnh anh ta.
“Vì sức khỏe của dì tôi và sự chu đáo của chú tôi chúng tôi không làm gì để gây tiếng ồn hoặc sự kích động. Đổi lại, có lẽ ngài sẽ thích đi bộ, thưa ngài?”
“Tôi đã đi bộ trước bữa sáng, cô không nhớ sao, cô Edgerton? Tôi cho rằng tôi có thể hài lòng với trò bóng vồ cũng được”,
Làm sao anh ta có thể làm thế? Làm sao anh ta có thể duy trì một cuộc hội thoại với cô trong khi nhãn cầu mắt anh ta nằm gọn lỏn giữa ngực cô?
“Tôi xin lỗi. Chúng tôi không có dụng cụ cần thiết cho trò bóng vồ”.
“Chà,” ngài Vere nói, cuối cùng đã đủ tức tối để chuyển ánh mắt lên mặt cô. “Thế cô làm gì ở đây, thưa cô Edgerton?”
Cô gửi cho anh một nụ cười lẽ ra phải phá hủy được ảo tưởng của anh. “Tôi chăm sóc dì tôi, thưa ngài”.
“Việc đó cực kỳ đáng ngưỡng mộ, nhưng cũng chán không chịu nổi, đúng không, không có bất kỳ trò giải trí nào?”
Cô xoay sở để duy trì nụ cười mà không quá gắng sức. Sao anh ta làm cô khó chịu đến thế, cứ như có một viên đá trong giày.
“Chán nản không xuất hiện...”
Cô dừng lại. Âm thanh đáng sợ: một cỗ xe đang đến. “Thứ lỗi cho tôi”, cô nói và đứng lên.
“Cô đang đợi ai à?” Ngài Vere theo cô đến cửa sổ.
Cô không nói gì, nhẹ nhõm đến mức không nói nên lời. Không phải là chú cô. Cô không nhận ra cỗ xe. Cô cũng không nhận ra người phụ nữ trung niên có khuôn mặt sắc sảo trong bộ trang phục du hành màu xanh lơ đang ra khỏi cỗ xe.
“Đó không phải là quý bà Avery sao?” ngài Vere nói.
Ngài Frederick đi nhanh đến cửa sổ. Ngài Vere nhường lại vị trí của mình.
“Bà ấy làm gì ở đây?” ngài Frederick rên lên. Anh chửi thề khe khẽ, sau đó chợt nhận ra và quay sang Elissande. “Tôi xin lỗi, cô Edgerton. Tôi không định nói năng thô lỗ như thế về khách của cô”.
Anh là một quý ông hoàn hảo. “Ngài có thể nói thô lỗ về bà ấy như ngài muốn, thưa ngài. Tôi đảm bảo với ngài rằng tôi chưa bao giờ gặp người khách đặc biệt này”.
“Ôi, nhìn kìa. Bà ấy mang theo cả hành lý”, ngài Vere nói mà không hề lo sợ. “Có khi nào bà ấy đến và ở lại không?”
Ngài Frederick đập tay vào ngưỡng cửa sổ, sau đó lại xin lỗi Elissande.
“Không sao đâu”, Elissande nói. “Nhưng bà ấy là ai?”