Mê Hành Ký

Chương 13: Chương 13: Nắng chiếu núi không




Khe suối róc rách.

Trong thôn chài nhỏ này có mấy cây cổ thụ.

Dưới cây cổ thụ là một gian nhà nhỏ thoáng ánh đèn.

Mở cánh cửa nho nhỏ có thể thấy một dòng suối.

Trên dòng suối là một cây cầu gỗ be bé.

Cầu gỗ đã cũ lắm, gánh nước đi bên trên là lại kẽo cà kẽo kẹt.

Mùng Mười tháng Mười một. Đêm về, vầng trăng tĩnh lặng ngự giữa tầng không.

Nàng choàng mở mắt, nhìn thấy hai khuôn mặt, hai khuôn mặt rất già nua.

Là một bà lão và một ông lão.

Nàng cứ ngơ ngác nhìn bọn họ.

Trong tay ông lão là một bát canh cá nóng hôi hổi, lão cũng đang hiếu kỳ nhìn nàng.

“Cô nương, cuối cùng cô cũng tỉnh lại rồi!”

Ông lão mặt đỏ bừng, cười tít bưng bát canh đưa cho nàng.

Nàng rụt người trên giường, nhỏ giọng hỏi: “Đây…đây là đâu?”.

“Thôn này gọi là Thạch Khê thôn.”

“Ôi!”, nàng mơ mơ hồ hồ.

“Cô nương, cô tên là gì?”, bà lão run giọng hỏi.

Nàng cố gắng nghĩ, trong đầu là một khoảng trống rỗng, nhưng vẫn không muốn người khác biết nàng đang ngơ ngẩn. Đảo mắt một cái, trông thấy trên chiếc bàn nhỏ có thờ Quan Âm, lại nhìn vầng trăng ngoài song, liền nói: “Cháu họ Quan, tên Quan Nguyệt”.

Nói xong câu này nàng không nhịn được hổn hển thở dốc, dáng vẻ tựa như vô cùng kiệt quệ.

Ông lão vội vàng nói: “Cô húp bát canh này trước rồi hẵng nói tiếp”.

Nàng đang rất đói, bưng lấy bát canh là húp sạch, lại ăn thêm hai cái bánh mới cảm thấy có chút khí lực.

“Cô… đã gặp chuyện gì vậy? Lúc giặt đồ không cẩn thận bị cuốn xuống sông? Hay là ngồi thuyền rồi bị ngã?”

“Cháu không biết… A, cháu ngồi thuyền… rồi lật một cái, cháu liền ngã xuống sông.”

“Đứa nhỏ đáng thương”, bà lão than một tiếng: “Đợi cháu khỏe hơn một chút, bọn ta sẽ đưa cháu về nhà. Người nhà cháu không biết là đang lo lắng tới thế nào”.

“Cháu… cháu không có nhà… cũng chẳng quen ai cả”, nàng vừa nghe vậy vội vàng nói: “Cháu không có nơi nào để đi cả. Cầu xin hai người cho cháu ở lại đây”.

Bà lão cười hiền hòa nói: “Bọn ta đều là kẻ bần cùng, sống rất khổ cực. Cô nương cháu… không sợ phải chịu khổ sao?”.

“Cháu không sợ.”

“Bọn ta là ngư dân vùng này, đánh cá kiếm ăn”, ông lão nói: “Bọn ta không có con cái, cho nên già thế này rồi vẫn phải đánh cá. Nếu cháu không chê, vậy thì giúp bà ở nhà làm chút việc may vá kiếm sống đi. Chúng ta có miếng cơm ăn tuyệt nhiên sẽ không thiếu phần chúa”.

Nàng nhảy xuống giường, quỳ xuống trước mặt hai lão nhân.

“Đa tạ gia gia, bà bà hảo tâm thu nhận con. Con… con tạm thời chưa nhớ ra mình có thể làm được việc gì… Có điều con sẽ từ từ nhớ lại”, nàng khẽ nói.

“Đứa nhỏ đáng thương, nhất định là bị sóng lớn đánh cho mất hồn rồi”, bà lão kéo nàng dậy, đỡ nàng nằm lên giường, đắp chăn cho nàng.

Nàng trông thấy căn phòng rất nhỏ, chỉ có một cái giường chợt hỏi: “Con ngủ ở đây, vậy hai người… hai người ngủ ở chỗ nào?”.

“Không cần lo, con không cần lo. Nhà củi dọn dẹp lại một chút là có thể ngủ được. Gối lên rơm mà ngủ rất thơm đấy!”

Nàng trở mình bò dậy, nói: “Sao có thể để hai người ngủ trong kho củi được? Để con ngủ ở đấy”.

Giường rơm trong kho củi sớm đã được trải đâu vào đấy, nàng lăn mình vào chăn, cười tít mắt nói: “Rơm đúng là rất thơm!”.

“Đứa bé ngốc, xem con vui vẻ chưa kìa”, bà lão cười rất hiền từ: “Mau ngủ đi, con dầm trong nước rất lâu, không khỏi choáng váng kiệt sức, đến ngày mai sẽ ổn thôi”.

“Vâng”, nàng ngoan ngoãn nhắm mắt lại, trong lòng thầm nhủ: “Đến ngày mai thật sự sẽ ổn sao?”.

Nàng không thích nghĩ nhiều, rất mau đã thiếp đi.

***

“Cốc chủ muốn gặp ngươi”, Tạ Đình Vân tâm tình nặng nề vỗ vai Cố Thập Tam, “Người vẫn một mực đợi ngươi”.

Ba vị tổng quản lặng lẽ dứng hầu ngoài hành lang, Sái Tuyên đứng bên cạnh.

Tất cả mọi người đều lo buồn nhìn Cố Thập Tam. Hắn vừa mới từ Đường môn chạy về, toàn thân đầy thương tích.

“Cốc chủ vẫn muốn biết.”

“Đương nhiên. Cố trì hoãn một chút hẵng nói… người… chỉ sợ không chịu nổi.”

“Hiểu rồi.”

Hắn đanh mặt tiến vào phòng, trông thấy Mộ Dung Vô Phong ngồi lặng lẽ tại một góc thư án.

Mặt chàng tái nhợt tới đáng sợ, ánh mắt đóng chặt trên mặt Cố Thập Tam.

Dáng vẻ chàng trông có chút tuyệt vọng, hiễn nhiên đã đoán ra gì đó.

“Xin lỗi, ta không thể đưa muội ấy trở về”, Cố Thập Tam dứt khoát nói luôn. Cả đời hắn lận đận, vùng vẫy nơi phố phường mà vươn lên, vốn chẳng hề úy kỵ gì việc được mất. Nói xong câu này, không biết do đâu, hắn chợt cảm thấy tay chân lạnh toát như lâm đại địch, cực kỳ căng thẳng nhìn người trước mặt.

Người trước mặt hoang mang gật đầu, cũng không nói gì. Thân thể chợt run lên, tựa như đang gắng sức che đậy một nỗi thống khổ không sao chịu nổi.

Một hồi sau, chàng lắp bắp nói: “Huynh muốn nói… huynh muốn nói…”

Cố Thập Tam đem sự tình vừa trải qua kể lại ngắn gọn, cố hết sức lược bớt đi những tình tiết khiến người ta thương tâm.

Mộ Dung Vô Phong cúi đầu, lặng lẽ lắng nghe.

Cố Thập Tam áy náy nhìn chàng, hiểu rõ lời của mình như một quả chùy nặng nề đập lên con tim hư nhược của chàng.

Chàng cắn răng không để nước mắt của mình nhỏ xuống, sau cùng, giọng nói vẫn không kìm được có chút run rẩy: “Nàng.. lúc ra đi… không… không phải chịu đau đớn gì chứ?”.

“Không hề, mọi thứ diễn ra rất nhanh”, Cố Thập Tam nhẹ giọng nói.

“Lời sau cùng nàng… nàng nói những gì…”

“Muội ấy nói, muội ấy không muốn thấy đệ đau khổ như thế, mội ngày đệ sống đối với muội ấy mà nói… đều rất quý giá.”

Thân thể chàng chấn động mạnh, tựa như bị sét đánh trúng, lẩm bẩm nói: “Đệ sai rồi! Đệ không nên để nàng quá lo lắng… Nàng trước sau vẫn không chịu tin…”, chàng đột nhiên ngẩng đầu, bi thương nhìn Cố Thập Tam, “Đệ chỉ là một kẻ tàn phế vô dụng. Mỗi ngày nàng sống so với đệ còn quý báu hơn cả ngàn lần, là đệ làm lãng phí tính mệnh của nàng, là đệ đã hại nàng!”.

“Đệ không nên nghĩ như thế”, Cố Thập Tam thở dài một tiếng, không biết phải nói sao cho tốt.

Tâm tình chàng không sao bình tĩnh lại, nhưng vẫn như lúc thường không lên tiếng nữa. Cố Thập Tam chỉ biết lo lắng nhìn chàng mặt mày nhợt nhạt, hít thở khó khăn, mồ hôi ướt đẫm, cảm thấy sự bi thương của chàng như tảng đá lớn nện lên tim mình, nhất thời trong ngực nôn nao khó chịu, gần như không thở nổi nữa.

“Huynh đi nghỉ ngơi đi, đệ muốn ở một mình trong chốc lát”, Mộ Dung Vô Phong buồn nản nói.

“Đây là sách muội ấy nhờ ta đem về cho đệ”, Cố Thập Tam đặt cuốn sách trên bìa toàn máu lên bàn.

Trên cuốn sách đó có máu của Hà Y, cũng có máu của hắn.

Không dám tiếp tục nhìn dáng vẻ bi thương của Mộ Dung Vô Phong, Cố Thập Tam quay đầu, vén rèm đi ra khỏi cửa.

Những người ngoài cửa lòng nóng như lửa đốt nhìn Cố Thập Tam, thấy hắn ra ngoài, nhỏ giọng hỏi: “Cốc chủ người…”.

“Đệ ấy rất đau buồn”, Cố Thập Tam đành trả lời.

Vừa dứt lời trong phòng truyền ra tiếng nôn mửa.

Mấy người lập tức xông vào phòng.

Người của Vân Mộng cốc ai ai cũng vô cùng lo lắng đợi chờ bệnh tình của Mộ Dung Vô Phong có chuyển biến tốt, trong Trúc Ngô viện lại luôn tĩnh mịch đến ghê người.

Mùa đông đến, từ Đường môn bỗng truyền ra tin Đường Hoài trọng thương không chữa nổi. Trận chiến hôm ấy hắn cũng có mặt, trên người từng lãnh một đao của Tiểu Phó. Cứ theo tuần tự kế thừa chức vị chưởng môn, người tiếp theo giữ vị trí ấy đáng nhẽ là Đường Trừng. Nhưng người này vốn nhát gan ngại việc, chỉ mới tới chỗ tổng quản nhìn thấy một tờ giấy ghi nợ của Đường môn là lập tức biểu thị tình nguyện “nhường cho người hiền”, chức chưởng môn lại do lão cửu Đường Tầm đảm nhiệm.

Ngày thư hai sau khi nhậm chức, Đường Tầm liền đi du thuyết bảy vị trưởng lão, ý đồ muốn thả Đường Tiềm, để hắn tạm thời được khôi phục chức vụ đường chủ “để xem biểu hiện về sau”. Vận dụng hết mồm mép, các trưởng lão mới miễn cưỡng đồng ý giảm thời gian giam giữ xuống một năm, nghe nói đó còn là nể uy danh Đường Ẩn Tung đã qua đời rồi. Đường Tầm vẫn không chịu thôi, sống chết đeo bám tới cùng, các trưởng lão cuối cùng quyết định lại giảm kỳ hạn xuống còn năm tháng.

Một tháng sau, Đường môn phái người đưa tới quan tài của Sơn Thủy và Biểu Đệ.

Mộ Dung Vô Phong không nói lời nào xuất hiện trong tang lễ, có người dìu đỡ, tự mình lặng lẽ đốt tiền giấy cho người đã khuất một canh giờ.

Thân hình chàng gầy guộc, ngồi trên thảm trông tiều tụy vô cùng, mỏng manh giống như bóng người dưới trăng.

Tuy hư nhược cực độ nhưng lưng chàng vẫn thẳng tắp như xưa.

Đốt xong tiền giấy, chàng chẳng nói chẳng rằng, lẳng lặng về phòng mình.

Triệu Khiêm Hòa đuổi theo, khẽ thưa: “Người của Đường môn nói, di thể của phu nhân bị vùi quá sâu trong núi, khó có thể tìm thấy. Hỏi… cốc chủ có muốn tự mình tới Đường môn bái tế không? Bọn họ có thể an bài mọi thứ, lại sửa sang một trang viện. Nếu cốc chủ.. nếu cốc chủ muốn tới thăm… có thể ở tại trang viện đó”.

Chàng lạnh lùng nhìn ông ta một cái, không nói gì.

Triệu Khiêm Hòa sợ hãi không dám nhắc lại nữa.

Bệnh phong thấp của chàng bắt đầu phát tác liên tục, nhưng chàng vẫn đuổi hết những người tới chăm sóc mình ra khỏi phòng.

Không biết phải làm sao, Tạ Đình Vân đành cưỡi ngựa chạy tới Giang Lăng tìm lão gia nhân đã chăm sóc chàng từ nhỏ là Hồng thúc về.

“Thúc ở mấy ngày rồi về đi, cả nhà đều ở Giang Lăng, tới thăm ta làm gì?”, Mộ Dung Vô Phong nói với ông lão.

“Bộ dạng thiếu gia như thế này lão Hồng tôi dù có chết cũng không biết phải ăn nói với cố cốc chủ như thế nào. Đợi sau này chết đi lại bị lão gia mắng mỏ, chẳng bằng bây giờ ở đây hầu hạ thiếu gia thêm mấy ngày… Nếu thiếu gia chịu nể cái mặt già của lão bộc mà ăn thêm một bát cơm, lão bộc có chết cũng không oán thán gì rồi”, Hồng thúc nước mắt nước mũi giàn giụa đứng trước giường chàng, Mộ Dung Vô Phong thở dài một tiếng, trầm mặc không nói gì nữa.

Hai tháng kế tiếp, chẳng những chàng không thể dậy nổi, mà đơn giản là đến cử động cũng không được. Dần dần, chàng ăn ngày càng ít, càng ngày càng miễn cưỡng.

Mọi người bắt đầu lo lắng chàng không qua nổi mùa đông này.

Mùa đông năm đó dài dằng dặc, y vụ của Vân Mộng cốc vẫn bận bịu như ngày thường, thiếu đi Mộ Dung Vô Phong và Trần Sách, bọn họ không thể không điều mười đại phu từ bên ngoài về cốc. Tất cả mọi người đều tâm sự trùng trùng, thấp thỏm lo sợ.

Đến trung tuần tháng Hai, Mộ Dung Vô Phong đã bệnh tới mức thần trí mơ hồ, sinh mệnh hoàn toàn dựa vào thuốc để kéo dài.

Không kể là lúc tỉnh táo hay hôn mê, ánh mắt chàng đều ngơ ngác, thần sắc tán lạc, trầm mặc tựa như một ngôi mộ. Đến cả Hồng thúc là người mỗi ngày tắm rửa cho chàng cũng không dám tin con người hao gầy mỏng manh như lông vũ này vẫn còn sống.

Cuối cùng đến một ngày, tình hình có sự biến hóa.

Đêm nọ, Phượng tẩu bỗng bế Tử Duyệt chạy vào phòng chàng.

Chàng đang mở mắt, vẫn chưa ngủ, Phượng tẩu hoang mang lớn tiếng gọi chàng: “Cốc chủ, dù thế nào người cũng phải xem cho Tử Duyệt… Nó đã sốt hai ngày rồi, uống thuốc cũng không đỡ, vừa rồi còn gào khóc cả nửa ngày, Ngô đại phu ra ngoài khám bệnh rồi, Sái đại phu cũng không tìm thấy đâu cả”.

Chàng nghe thế đôi mắt mở to, tựa như phát cuồng vùng ngồi dậy, ôm lấy con gái đã sốt tới mồm miệng khô nứt vào lòng, gắng sức nhấc cánh tay đã sưng tới biến dạng, nén đau châm cho cô bé hai châm, rồi lại cầm bút xiêu xiêu vẹo vẹo viết một đơn thuốc.

Không sao viết chữ cho nhỏ lại nổi, có hai mươi mấy chữ mà chàng phải dùng tới bốn tờ giấy mới viết xong.

“Phụ thân… con không muốn…”, vị thuốc quá đắng, Tử Duyệt uống mà nhăn mặt.

Trong lòng chấn động, chàng ôm chặt con vào lòng, thều thào nói: “Nghe lời nào… Tử Duyệt”.

“Mẹ ơi… mẹ ơi…”, cô bé lại gọi mấy tiếng, tay khua chân đạp, giãy lên trong lòng chàng.

Trong lòng chua xót, vỗ về mái tóc non tơ của cô bé, ngập ngừng một lúc chàng nói: “Mẹ không có nhà”.

Mấy ngày tiếp đó, chàng bắt đầu tự ép bản thân ăn cơm, một ngày uống tới mấy loại thuốc, thân thể cứ thế bắt đầu có chuyển biến tốt. Đến tháng Ba, mùa đông đã qua, chàng dần dần có thể dậy khỏi giường.

Đầu tháng Tư, Đường Tầm nhận được một tấm thiệp bái phỏng lời lẽ hàm súc, khẩn thiết muốn tự mình tới Đường môn tế lễ vong thê.

Hai trang thư, dấu mực hơi khô, đầu ngón tay Đường Tiềm lần theo nét chữ, lầm rầm đọc:

… Tiểu đệ là kẻ tính mệnh chỉ như phù du, chẳng biết được mấy ngày; duy chỉ có người vợ này là nguyện kết duyên đầu bạc. Ngờ đâu nửa đường đứt gánh, bỏ đệ mà ra ngoài nơi thanh sơn hoàng thổ, rời đệ mà tới chốn bến nước tịch liêu. Đêm dài đằng đẵng, một bóng cô đơn, chốn Bồng Lai cách vợi, chắp cánh chim cũng chẳng tới nơi. Mắt thấy lòng đau, thường gắng gượng chường mặt với đời. Mưa chợt gió lùa, biết trời đất cũng chẳng được bao lâu nữa. Đầu đông năm ngoái, những định tới tây Thục, chẳng ngờ bệnh thế trở nặng, tiếc không đi nổi. Nay bệnh đã đỡ, xin được tới đất của huynh, phúng viếng một ngày, thỏa nỗi nhung nhớ, thông với chốn u linh. Việc xong sẽ lập tức ra về, không dám phiền nhiễu thêm nữa, nếu được thỏa nguyện, hàm ơn không thôi…

Đường Tiềm đọc xong thở dài: “Thì ra Mộ Dung Vô Phong cũng là người có tình…”.

Đường Tầm cười khổ: “Hy vọng lần này cừu oán hai nhà có thể tới hồi kết. Nếu không oan oan tương báo, còn phải chết bao nhiêu mạng người đây”.

Đường Tiềm hỏi: “Bao giờ hắn tới?”.

“Năm ngày trước đã tới, chỉ là lại bệnh rồi. Trước mắt đang ở Tùng Hạc đường. Ta đã đi thăm một lần, lúc ra về gặp phải ngũ tẩu, bị tẩu ấy ấy lôi vào nhà mắng nhiếc một trận.”

“Đã biết chức chưởng môn khó làm chưa?”

“Hà hà. Vừa hay đệ về rồi, cho nên chuyến này của Mộ Dung Vô Phong sẽ do chúng ta tháp tùng.”

“Chúng ta? Huynh với đệ?”

“Không sai.”

“Huynh tha cho đệ đi.”

“Rốt cuộc đệ có giúp ta không?”

“Giúp.”

“Một canh giờ nữa Mộ Dung Vô Phong mới tới, đệ đi chuẩn bị một chút, đổi sang mặc đồ trắng.”

“Tuân chỉ.”

“Tạ Đình Vân cũng đi theo hắn, chúng ta chỉ cần dẫn đường cho bọn họ là được. Những việc khác ta đã chuẩn bị ổn thỏa hết rồi.”

“Ngoài Tạ Đình Vân ra, còn ai theo nữa không?”

“Chỉ có hai người họ.”

“Ừm”, hắn thất vọng ừm một tiếng.

Đúng giờ Tỵ, xe ngựa của Mộ Dung Vô Phong dừng trước cổng lớn của Đường gia bảo. Lúc người hầu dìu chàng từ xe ngựa xuống, ánh dương chói mắt vừa vặn chiếu thẳng vào mặt chàng. Đã hơn nửa năm nay chàng không tắm ánh mặt trời, chỉ cảm thấy ánh dương nặng nề như sắt đá, khiến cho người ta chóng mặt.

Nghênh tiếp chàng là Đường Tầm và Đường Tiềm. Vì biểu thị kính ý, hai người họ đều mặc áo trắng. Chàng khẽ gật đầu xem như chào hỏi.

Kế đó, tựa như vẫn muốn hàn huyên với chàng thêm vài câu, Đường Tầm hỏi Mộ Dung Vô Phong vài việc, người trả lời toàn là Tạ Đình Vân.

Nhìn là biết, thân thể Mộ Dung Vô Phong hư nhược cực độ, cơ hồ không cách nào nói chuyện được.

Huống chi lúc này tâm tình chàng càng thêm xấu.

Đường Tầm thầm than không thôi. Để sắp xếp việc này, hắn đã ra sức dẹp đi dị nghị của mọi người, bỏ qua không biết bao nhiêu lời kêu ca kiện cáo, suýt chút nữa là bị một bầy cô nhi quả phụ Đường môn mắng chết.

Đến tận bây giờ vẫn còn vài vị đại tẩu thấy mặt hắn là mặt lạnh tanh không thèm để mắt.

… Hắn biết bọn họ nghĩ thế nào. Hắn cũng là người Đường môn.

Nhưng bọn họ tuyệt không biết, nếu như Mộ Dung Vô Phong không chịu buông tay, Đường môn tuyệt đối không trụ nổi qua năm nay. Việc làm ăn của bọn họ đã hoàn toàn bị Vân Mộng ốc thao túng chèn ép.

Có thể Mộ Dung Vô Phong không đánh nổi Đường môn nhưng lại có cách để tất thảy trên dưới Đường môn phải chết đói.

Nếu hắn không làm như thế, chỉ sợ tới một chút hy vọng khôi phục cuối cùng của Đường môn cũng tan tành.

Đi qua một hành lang dài, trước mặt đã không còn đường nữa.

Nơi đây là một sườn dốc nhỏ toàn đá vụn, mấy ngày trước Đường Tầm đã phái người tạm thời dùng đá vụn lát thành một con đường nhỏ, vừa đủ cho xe lăn của Mộ Dung Vô Phong có thể đi.

Ánh nắng gắt gao, chàng ngẩng đầu lên, trong đầu mê loạn, không thể không nhắm mắt lại.

Môi chàng trắng bệch không chút máu.

Tạ Đình Vân vội vàng mở cái ô cầm trong tay.

Một ngọn núi lớn sừng sững trước mắt.

Trong cảnh sông dài miên man trời đất bao bọc, ngọn núi một mình cô độc, tựa như từ viễn cổ tới nay đã không chịu hòa cùng cảnh sắc mỹ lệ thanh tú mây mù mênh mông, suối khe đây đó ở phía đằng sau.

Trên núi mây khói biến ảo, cây cối lay động. Khắp núi nở rộ từng bụi từng bụi hoa nhỏ sắc tím nhạt.

Một sinh mệnh mất đi, cứ thế hóa thành bữa tiệc thịnh soạn cho một vài sinh mệnh khác.

Dấu vết phảng phất như sương khói tan vào không trung… bị gió cuốn đi, không còn chút gì lưu lại để mà hoài niệm.

Chàng ngước mắt buồn trông, bất tri bất giác trong mắt đã đẫm lệ.

Chỉ có mấy tảng đá lớn chắn ngang đường là dấu vết duy nhất còn lại của trận sụp đổ có thể thấy được, đây rõ ràng là khi thân núi chấn động mạnh từ trên cao rơi xuống.

“Động đó có tên là Lăng Hư động, rất sâu nhưng không có đường thông ra bên ngoài. Vốn là nơi chúng tôi cất giữ băng đá vào mùa hè”, Đường Tầm giải thích.

“Cửa động ở đâu?”, Mộ Dung Vô Phong hỏi.

“Đã bị chôn vùi rất sâu, căn bản không tìm nổi nữa. Có điều, chắc là chỗ này. Bậc thềm này vốn nối liền với cửa động”, Đường Tầm chỉ xuống dưới chân.

Mộ Dung Vô Phong cúi xuống, dọc theo đôi chân đã bại liệt của mình nhìn mấy bậc thềm đá sáng như bạch ngọc ẩn ẩn hiện hiện. Thềm đá đã bị hoàng thổ vùi lấp, bên trên cỏ xanh mọc khắp, chỉ có dấu vết mấy đường trắng trắng lộ diện.

Thân thể chàng lung lay muốn đổ.

“Cốc chủ! Người không sao chứ?”

Tạ Đình Vân vội vàng đỡ lấy chàng.

“Tôi với Tạ tổng quản có thể ở riêng tại đây một lúc không?”, chàng ngước mắt hỏi Đường Tầm.

Mặt chàng trắng bệch như tờ giấy, ánh mắt thì lại lạnh ngắt.

“Đương nhiên, xin cứ tự nhiên. Nếu có cần gì xin cứ việc phân phó”, Đường Tầm cung kính giữ lễ gật đầu.

“Đa tạ”, giọng chàng rất bình tĩnh.

Nói cho cùng bốn tháng trời cũng đã trôi qua, mọi sự nên lắng dịu rồi chứ?

Nhìn trước mặt đã không còn đường nữa. Chàng chống nạng, dưới sự dìu đỡ của Tạ Đình Vân, lập cập đứng dậy.

“Một đao ấy của tam thúc cũng thật là độc”, Đường Tầm nhìn bộ dạng bước đi khó khăn của Mộ Dung Vô Phong, không nhịn được thở dài một tiếng.

“Dáng vẻ hắn rất thống khổ sao?”, Đường Tiềm hỏi.

“May là đệ không nhìn thấy, nếu không chỉ sợ đệ cũng khó chịu.”

“Hắn ta đi tới trước cửa động, Tạ Đình Vân tìm được một chỗ đất bằng rồi đỡ hắn ngồi lại xe lăn”, giống như bình thường, Đường Tầm miêu tả lại cho Đường Tiềm.

“Còn sau đó?”

“Tạ Đình Vân đưa cho hắn một cái hộp gỗ đen.”

“A.”

“Sau đó Tạ Đình Vân quay lại, đang đi về phía chúng ta.”

“Huynh tin chắc hắn ở đấy một mình an toàn chứ?”, Đường Tiềm đột nhiên hỏi.

“Hắn là phải an toàn thôi, ngọn núi này sẽ không dưng đổ sụp chứ?”

“Ý đệ muốn nói là mấy người bọn ngũ tẩu.”

“Bọn họ vốn không biết chuyện này.”

Đường Tiềm lại hỏi: “Trong chiếc hộp gỗ ấy liệu có phải chứa thuốc nổ không?”.

“Đệ thật biết đoán mò, lão đệ.”

“Hắn sẽ không vì tới tuẫn tình, định cho chúng ta nổ tan xác ở núi này chứ?”

“Không đâu”, Đường Tầm lườm hắn.

Tạ Đình Vân đi tới trước mặt hai người chào hỏi, Đường Tầm, Đường Tiềm đều đáp.

“Phải chăng Tạ tổng quản có gì sai bảo?”

“Không có, tôi chỉ ở đây đợi cốc chủ. Cốc chủ muốn một mình ở đó một lát.”

“Có cần đem trà tới cho Mộ Dung cốc chủ không?”, Đường Tiềm hỏi.

“Không cần. Tâm tình người đang rất xấu, không muốn có người quấy rầy.”

“Trông ngày ấy có vẻ bệnh tình không nhẹ…”, Đường Tầm cẩn thận bày tỏ sự cảm thông.

“Đấy đều nhờ ơn Đường môn ban cho”, Tạ Đình Vân không khách khí mỉa mai.

Có Tạ Đình Vân ở bên, Đường Tầm không tiện tiếp tục miêu tả tình hình của Mộ Dung Vô Phong cho Đường Tiềm nữa.

Ba người đứng một bên đã đợi hơn một canh giờ, Mộ Dung Vô Phong cứ ngồi yên nơi đó, không hề động đậy.

Trong lùm cỏ truyền tới một tiếng động cực nhẹ gần như không thể nghe ra, cùng lúc đó Đường Tiềm và Tạ Đình Vân đồng thời phi thân tới!

“Vút” một tiếng, ám khí xé gió phóng đi, ba viên tam tinh chùy bắn về phía Mộ Dung Vô Phong.

“Keng! Keng! Keng!” ba tiếng, không biết từ đâu một hòn đá bay tới, đi sau mà đến trước, không sai không lệch, nghiêng nghiêng đánh trúng viên chùy ở giữa, góc độ kỳ dị, vừa khéo đánh bật hai viên còn lại.

Tạ Đình Vân quay người nhìn Đường Tiềm, trong mắt lộ ra vẻ tôn kính, nói: “Bội phục”.

“Không dám”, Đường Tiềm cười nhẹ. Mỗi một người tập võ ở Đường môn, từ khi biết bò cho tới lúc biết đi đã bắt đầu luyện tập ám khí. Rất tự nhiên hắn ít nhiều gì cũng biết một chút.

“Là ai?”

“Cô ta đã chạy rồi. Không cần lo, từ giờ đến cuối sẽ do tôi hộ vệ bên cạnh cốc chủ của các vị. Người Đường môn để người Đường môn đối phó sẽ hữu hiệu hơn”, hắn nhạt giọng nói.

“Vậy phải nhờ vả rồi”, Tạ Đình Vân chắp tay, thân hình nhoáng cái đã quay vào trong hành lang.

Đường Tiềm chuẩn xác tìm tới chỗ Mộ Dung Vô Phong đang ngồi. Trên y phục Mộ Dung Vô Phong có một mùi hương nhàn nhạt lan tỏa, khiến hắn cảm thấy như từng quen biết nhưng lại không nhớ ra nổi bản thân rốt cuộc đã ngửi thấy mùi hương này ở đâu.

Hắn không thể không thừa nhận bản thân không hề có ấn tượng gì về Mộ Dung Vô Phong.

Là một người mù, hắn thường có ấn tượng sâu sắc về người nói nhiều một chút. Mà kể từ ngày đầu tiên gặp Mộ Dung Vô Phong, chàng rất ít nói, cho dù có nói, tiếng cũng rất nhỏ. Tất cả hiểu biết của hắn về người này đều chỉ giới hạn trong các loại truyền thuyết.

Vách núi trước mặt, bóng người đổ dài.

Mộ Dung Vô Phong hơi sững người, không quay đầu lại mà nói thẳng: “Ta muốn ở lại đây một mình một lúc”.

“Tôi sẽ không làm phiền ngài”, Đường Tiềm nói, “Ngài cứ coi tôi là một tảng đá là xong”.

Chàng phẫn nộ nhìn hắn, muốn nổi nóng nhưng lại phát hiện trong lòng đã bị bi thương lấp đầy.

Qua một hồi, Đường Tiềm nghe thấy có tiếng nạng, tiếng bánh xe lăn lạch cạch, dường như Mộ Dung Vô Phong đang tìm cách đứng dậy.

Hắn đang nghĩ bản thân có nên đỡ chàng không.

Cuối cùng, hắn do dự vươn tay ra nhưng rồi bị gạt đi, một giọng nói lạnh lùng vang lên: “Chớ có động vào ta!”.

Hắn nhã nhặn nghiêng đầu, giọng điệu có ý châm biếm: “Tuân lệnh”.

Rõ ràng Mộ Dung Vô Phong không đứng vững nổi, thân thể đổ sang một bên.

Đường Tiềm kịp thời túm lấy thân thể lảo đảo kia, giúp chàng đứng thẳng lại. Mộ Dung Vô Phong không sao tự mình đứng vững, tỏ ra cực kỳ chật vật, mấy lần trán chàng đã vập vào sống mũi hắn. Đường Tiềm khẽ động trong lòng, dứt khoát đỡ chàng ngồi xuống, nói: “Nếu ngài đã muốn một mình ngồi lại đây, tôi sẽ xuống dưới đợi vậy”.

“Hộp của ta rơi mất rồi”, vẫn là giọng nói lạnh lùng kia.

“Ở đâu?”, hắn đưa gậy trúc, lần dò dưới đất.

“Sang trái”, chàng thở dài.

Đường Tiềm dò được cái hộp, khẽ khều một cái, chiếc hộp bay vào tay.

Nó trống không.

“Có phải đồ bên trong rơi ra ngoài rồi không?”, hắn tiếp tục dò gậy trúc.

“Không phải, nó vốn trống rỗng như thế.”

“Ngài muốn làm gì?”, sau cùng hắn cũng hỏi.

“Ta muốn đem một ít đất trong động về”, giọng chàng có chút khàn khàn, bình tĩnh nhưng hơi run rẩy.

Ngồi trên xe lăn không tiện gắng sức cho nên chàng muốn đứng dậy.

“Để tôi giúp.”

Chàng lại chống nạng, Đường Tiềm đỡ lấy tay chàng.

Lần này chàng không cự tuyệt.

Đường Tiềm nghe thấy tiếng ngón tay Mộ Dung Vô Phong đào trên triền núi, tiếng đất rơi xuống, chẳng mấy chốc có vẻ như chiếc hộp đó đã đầy.

Mộ Dung Vô Phong ngồi xuống, lạnh nhạt nói: “Đa tạ”.

“Đao đó là do phụ thân tôi tự mình chém”, hắn chợt nó, “Người đã qua đời. Lúc ấy người không hề muốn làm như thế”.

“Ta không hề hận phụ thân ngươi”, chàng bình tĩnh nói.

Đường Tiềm kinh ngạc ngẩng đầu lên.

“Ta chỉ hận lúc đó sao ông ta không một đao chém chết ta luôn. Nếu ta chết đi sớm một chút, rất nhiều chuyện sẽ không xảy ra.”

Lời than đã biến thành thổn thức.

“Xin lỗi”, Đường Tiềm khẽ nói.

Đây là lần đầu tiên hắn nói xin lỗi thay cho phụ thân.

“Hà Y đã ở đây rồi, ta nên quay về thôi”, Mộ Dung Vô Phong thu dọn đồ dưới chân.

“Hà Y?”, Đường Tiềm nhíu mày, không hiểu ý chàng.

“Hà Y ở trong nắm đất này”, chàng lạnh nhạt tiếp một câu.

***

Cuối cùng, chàng chọn lúc đêm trăng để tới thăm nàng.

Dưới ánh trăng, mộ nàng hiện ra rất hiền hòa.

Mỗi một cảnh vật trước mắt đều có thể khiến chàng đau đớn.

Chàng ngồi bên mộ phần, cúi người xuống, đôi tay ra sức bới một hố sâu rồi đặt cái hộp gỗ đầy đất vào đó.

Sương đêm thấm xuyên qua áo chàng, đất đá cào rách ngón tay chàng, móng tay bật đứt, toàn thân lạnh toát, chàng lại hoàn toàn không cảm thấy mấy thứ ấy.

Trong cơn mê muội, một bóng người như ẩn như hiện đi tới chỗ chàng.

Đêm Sương, trông nàng nhợt nhạt biết bao.

“Hà Y… nàng đã về”, chàng lẩm bẩm.

Chàng đăm đăm nhìn phía trước, sợ hãi mắt mình mà động, bóng hình kia sẽ tan biến mất.

“Chàng khỏe không?”, giọng nói kia nhẹ nhàng vang lên.

Một bàn tay dịu dàng vuốt ve mặt chàng, giọng nói mang nỗi thở than: “Chàng gầy đi rồi”.

“Nàng về rồi sao?”, chàng đưa tay kéo nàng nhưng chỉ chụp vào hư vô.

Vậy là, đây không phải thật. Chàng thở dài một tiếng.

“Hà Y, nàng biết không?”, chàng nghẹn ngào nói, “Ta không thể tới tìm nàng, bây giờ chưa được… Tử Duyệt còn nhỏ quá”.

“… Thiếp hiểu.”

“Nhưng nàng nhất định phải đợi ta. Ta biết nàng sẽ không quên ta, đến bên kia rồi cũng không quên, đúng không?”, lòng chàng nguội lạnh, thương tâm chẳng muốn sống.

“Đương nhiên là không rồi”, nàng dịu dàng nhìn chàng.

Đêm ấy, chàng không sao ngủ được, chỉ có thể uống rượu.

Rất nhiều đêm sau ngày hôm ấy, chàng chỉ có thể uống rượu vào mới thiếp đi được.

***

“Điều mấu chốt nhất lúc đâm cá chính là phải nhắm cái xoa chuẩn phía trước cách cá một thước rồi đâm mạnh xuống”, người ngu phu trung niên ngồi ở đuôi thuyền, vừa mồi tẩu thuốc, vừa nói với cô gái ngồi đối diện.

“Vâng”, một mũi xoa đâm ra.

“Đâm trúng rồi sao?”, ngư phu nhả một vòng khói tròn.

“Đâm trúng rồi. Lại trúng nữa, sao cháu lại đâm chuẩn thế này cơ chứ”, cô gái đó chống nạnh thở dài nói, “Hình như trời sinh muội làm nghề đâm cá rồi”.

Nàng nhảy xuống nước, ôm một con cá lớn bị đâm xuyên đầu lên.

“Ta thấy cũng phải”, trung niên ngư phu có chút ghen tị nhìn nàng.

“Có thật là lúc giặt đồ cháu bị nước cuốn xuống sông không thế?”, không nhịn được ông ta hỏi lại.

“Mỗi một người giỏi giang đều có lúc yếu ớt”, nàng ra vẻ nghiêm túc nói, “Giặt đồ chính là lúc cháu yếu ớt nhất”.

“Hình như cả lúc may đồ cũng thế”, ngư phu trêu chọc.

Trong thôn đã sớm có lời truyền về tay nghề kim chỉ đáng sợ của cô gái được nhà lão Đỗ đầu thôn cứu từ dưới nước lên, chỉ mới khâu y phục có vài lần, Đỗ bà bà đã bảo nàng nên chuyển sang nấu ăn.

“Con à, mỗi người đều có năng khiếu trời sinh”, bà lão cười tủm tỉm an ủi nàng, “Năng khiếu của con không phải ở việc này”.

Rất nhanh nàng liền phát hiện được năng khiếu của mình, nàng có thể bắt cá, nàng xiên cá chuẩn hơn người.

Kể từ đó, ông lão liền mang nàng đi bắt cá. Ông lão tuổi cao sức kiệt, chỉ chuyên chèo thuyền.

Về sau, chèo thuyền cũng thôi luôn, do nàng một mình làm lấy.

Nàng chăm chỉ làm việc đã bốn tháng trời, có một hôm, nàng đang định xuống thuyền lại bị bà lão gọi lại.

“Nguyệt nhi quay về đây.”

“Bà bà, có chuyện gì?”

“Năm nay con bao nhiêu tuổi?”

“Hai mươi. Con tuổi rồng.”

“Hai mươi tuổi là tuổi chó.”

“Con từng kết hôn chưa?”

Nàng lắp ba lắp bắp nói: “Kết hôn?... Đương nhiên là rồi”.

“Tướng công con là ai?”

“Chàng … chàng chết rồi. Chàng là người đi buôn… trên đường gặp phải mã tặc, bị người ta một đao chém chết.”

“Lúc nào?”

“Trước lúc con xảy ra chuyện.”

Lão bà bán tín bán nghi nhìn nàng, thở dài nói: “Con mang thai mấy tháng rồi?”.

Nàng vội vàng lấy tay che bụng: “Con… con… chắc khoảng năm tháng rồi”.

“Con thật không sợ chết sao! Đang mang thai còn đi đánh cá? Con không sợ sẩy mất đứa trẻ à?”

“Không đâu”, nàng cười nói, “Thân thể con khỏe mạnh. Nó cũng ngoan lắm”.

“Về sau không đi đánh cá nữa, sinh xong con rồi hẵng nói, biết chưa?”

“A, vậy con giúp bà bà nấu cơm”, nàng ngoan ngoãn nói.

“Con ấy à…”, bà lão than một tiếng.

Đường nhiên cô bé này không nói thật, có điều… cũng không tiện hỏi nhiều, nhất định là tư thông với tình lang, không cẩn thận có chuyện, sợ bị người ta truy cứu, nghĩ không thông mới nhảy xuống sông.

Một cô gái chưa chồng mà chửa, lại nhảy xuống nước, loại chuyện này vẫn thường xảy ra.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.