Hắn là một kẻ hay ưu sầu, thích ở cùng một nơi với những người ưu sầu.
Đường Tầm nói, đao pháp của phụ thân hắn trầm ổn ngoan độc, đao pháp của mẫu thân hắn linh hoạt mau lẹ, trong cuốn Đao phẩm của Tây Sơn tiên sinh, đao pháp của họ đều được liệt vào hàng thượng thượng đẳng.
“Đệ thì sao? Đao pháp của đệ thì thế nào?”
“Đao pháp của đệ chứa đầy sầu muộn, lúc múa lên thật giống như một kẻ thất tình. Không giống đao pháp của phụ thân đệ, lại cũng chẳng như của mẫu thân đệ. Ta cũng không rõ hai người họ dạy đệ thế nào mà thành cái dạng này.”
Hắn cảm thấy lời bình phẩm này cực kỳ hoang đường, nhưng cũng chỉ đành cười đáp lại một tiếng.
Cơn mưa nhỏ mới tạnh, gió khẽ khàng thổi. Một dải vùng này thịnh việc trồng quýt, mùa thu hoạch vừa qua, trước cửa mỗi nhà đều treo từng chuỗi từng chuỗi vỏ quýt. Con đường lớn lát đá xanh nức mùi quýt.
Hắn có thói quen luyện đao vào lúc chiều muộn mặt trời khuất núi, bốn bề sẩm tối. Sau khi luyện xong, giống như thói quen của phụ thân hắn, bưng một ấm trà ngồi trên sạp trúc nghỉ ngơi một lát.
Sau khi tới Thần Nông trấn, Đường Tầm đã cùng hắn đi dạo phố phường một lượt, hắn lập tức ưa thích hương quýt tràn ngập đường phố nơi đây. Nghỉ ngơi một chút, hắn men theo con phố về phía đông, tản bộ một vòng, thuận đường mua mấy cân quýt ngọt khoái khẩu.
Anh hùng nhìn quen rồi thì cũng chẳng khác người thường. Bất kể những truyền thuyết trên giang hồ về phụ mẫu hắn kinh tâm động phách như thế nào, trong lòng hắn đều chẳng lưu lại chút gì. Hắn chỉ biết phụ thân mình là một người đất Thục chính hiệu, thích náo nhiệt, thích đồ ăn ngon, mẫu thân hắn đến từ Cô Tô, có thể làm tôm rán ướp muối và sườn lợn ướp tương rất ngon. Ai ai cũng nói, thời Đường Ẩn Tung còn thét gió gầm mưa trong võ lâm, trên Đao bảng Hà Ngâm Xuân cứ luôn phải bám theo sau. Năm xưa, hai người đó tỉ đao kết bạn, thành đôi tri kỷ. Sau khi đứa con bị mù lòa, phu phụ Đường Ẩn Tung cùng nhau thoái ẩn, trên giang hồ không còn được thấy cảnh song đao hợp bích huy hoàng khi xưa.
Hai mươi năm nay, phu phụ hai người đó không rời đất Thục nửa bước. Bằng lòng kiên nhẫn và trí tuệ khó có thể tưởng tượng, bọn họ đã truyền dạy được tuyệt kỹ của mình cho nhi tử.
Hắn không biết đây chính là hạnh phúc mà chỉ cho rằng thế giới vốn là như thế.
Sau khi lớn lên, hắn không muốn như xưa, một mực ỷ lại vào phụ mẫu mà thường theo huynh đệ bằng hữu ra ngoài du lịch, có khi mấy tháng không về. Người đi lại trên giang hồ, tất nhiên chẳng tránh khỏi có khi phải giao đấu.
Tuy trước mắt lúc nào cũng là một mảnh đen tối nhưng hắn không hề cảm thấy cô độc, bởi hắn biết bất kể mình đi tới nơi nào, sau lưng mình luôn có hai đôi mắt quan hoài lặng lẽ dõi theo.
Cho đến khi phụ thân đột nhiên qua đời hắn mới hiểu được hạnh phúc vốn rất mong manh.
Vì Đường môn mà bôn ba chinh chiến bao nhiêu năm, trên người phụ mẫu hắn đều có nhiều vết thương. Hai năm trước, tổng quản Vân Mộng cốc Tạ Đình Vân kết hợp với các đệ tử phái Nga My vây công Đường gia bảo, hắn với một đám huynh đệ khổ thủ đông môn, không ngờ nam môn bị phá, cục diện nguy cấp, phụ thân hắn không thể không rút đao tương trợ. Đó là lần cuối cùng phu thê hai người liên thủ, Đường Ẩn Tung đánh bại được Tạ Đình Vân, khiến Tạ Đình Vân phải ôm vết thương rút về nhưng bản thân cũng chịu nội thương trầm trọng. Ba ngày sau, thương thế không sao khống chế nổi, Đường môn vì phụ thân hắn mà mời các danh y khắp nơi nhưng tiếc rằng lúc ấy đã muộn, tuy vừa châm cứu vừa dùng thuốc bổ trợ nhưng tất cả đều như nước len khe đá, chẳng có chút công hiệu nào.
Sáng sớm ngày thứ năm sau trận quyết chiến, phụ thân hắn đột ngột qua đời.
Thời khắc ấy, bi thương gần như nhấn chìm hắn. Hắn làm sao biết được đó mới chỉ là khởi đầu của chuỗi bất hạnh đang đợi mình.
Một năm sau, mẫu thân hắn vì đau buồn quá độ cũng lâm bệnh qua đời.
Bên cạnh hắn chỉ còn lại một chú chó từ thuở bé đã như hình với bóng không rời, tên gọi A Kim.
Một tháng sau, A Kim đang chạy qua chạy lại, bỗng ngã vật xuống rồi không bao giờ đứng lên nữa.
Đứng trước nấm mồ nho nhỏ, Đường Tầm chẳng tìm được lời nào để an ủi hắn, chỉ đành nói: “Động vật không chết đâu, chúng chỉ nằm xuống thôi”.
Thoắt một cái, thế giới này chỉ còn lại một mình hắn.
Hắn cảm thấy chiếc khóa của số mệnh đang chầm chậm di chuyển, tuyển lựa mắt xích cuối cùng cho hắn.
Trong số những người còn sống, về huyết mạch thì Đường Tầm gần gũi với hắn nhất. Phụ thân của hai người là huynh đệ ruột, mẫu thân của hai người cũng là tỷ muội ruột thịt. Hai người tuổi tác tương đương, tướng mạo cũng cực kỳ giống nhau.
Đường Tiềm bắt đầu giữ khoảng cách với Đường Tầm, sợ rằng hắn sẽ dính phải số phận hẩm hiu của mình.
“Lúc đen đủi, thì cứ để huynh chịu cùng đệ”, Đường Tầm nói, “Bởi vì chúng ta là huynh đệ”.
Mua xong một cân quýt ngọt ở đầu phố, hắn tiếp tục đi về phía trước.
Một tiếng gọi chói tai vang vọng trong không trung.
“Mẹ ơi… mẹ ơi… mẹ…”
Hắn đi về hướng âm thanh phát ra, cũng không xa lắm ở phía trước, trong hương quýt rất nồng, hắn nghe thấy tiếng người xì xào nhưng tất cả đều bị tiếng nức nở quặn thắt tim gan của một cô bé che lấp.
Tiếng khóc tuyệt vọng đau thương lo lắng thế này, đây là lần đầu tiên hắn nghe thấy, không kìm được bèn rảo bước nhanh thêm, len vào đám đông, túm lấy một người hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”.
“Chậc chậc, tiểu nha đầu đáng thương!”, người kia đáp, “Có lẽ là bị lạc cha mẹ rồi”.
Đây là con đường lớn nhất trong trấn, một mặt giáp sông, bên sông ven đường khách không ngừng lên xuống, lúc nào cũng đầy ắp người qua lại.
“Trên đời sao lại có thứ phụ mẫu khốn nạn thế? Đây rõ ràng là con nhà bần cùng, không nuôi nổi, bị cha mẹ bỏ nơi đầu phố, xem xem có ai hảo tâm nhặt về nuôi không”, một người khác cải chính, “Ngươi xem nó ăn mặc rách rưới thế kia, đến đôi giày để đi cũng không có, bàn chân toàn là lở loét… Lại còn là một đứa bé gái nhỏ thế này, chỉ sợ đến bọn buôn người cũng chẳng muốn nhặt, thật đúng là trời tạo nghiệt!”.
“Nó lớn chừng nào rồi?”, hắn lại hỏi.
“Xem dáng vẻ còn chưa được hai tuổi…”
Trên con phố này chẳng có nhiều người nhàn rỗi, mà kể cả có nhàn rỗi, kẻ có lòng thương xót cũng rất hữu hạn. Đám đông đứng túm lại bàn tán một lúc, thấy đứa bé gái ngoài một mảnh sứ khắc tên ra còn lại chẳng có gì khác thì cũng từ từ giải tán.
Đứa bé gái gào khóc suốt một tuần hương, cổ họng khản đi, kế đó Đường Tiềm chỉ còn nghe thấy tiếng sụt sịt mà thôi. Hắn bước tới cúi người xuống, vươn tay ra, vừa mới chạm vào đầu đứa bé đã nghe thấy nó sợ hãi thét lên:
“Con muốn mẹ! Hu hu… Con muốn mẹ cơ! Con không muốn sói xám!”
Hắn sững người, ý thức được bản thân mình lưng thì đeo trường đao, người mặc áo xám, dọa cho cô bé sợ hãi mất rồi, thế là vội vàng rụt tay lại.
Khóc tới khi sức cùng lực kiệt, đứa bé ngồi bệt trên mặt đất nhưng vẫn cực kỳ cảnh giác đối với hắn, đưa chân liều mạng đạp đạp về phía hắn.
Mặt đá lát đường rất ẩm ướt, hắn túm lấy cái chân nhỏ bé đang đạp loạn, cuối cùng thì ôm lấy cô bé, thấp giọng dỗ dành: “Đừng khóc nữa, đừng khóc nữa, thúc thúc cùng ở đây đợi mẹ với con, có được không?”.
Ở trong lòng hắn, cô bé quẫy đạp dữ dội, hắn chỉ đành đặt nó lại xuống đất. Đôi chân của nó đã bị lở loét mưng mủ không thể đi lại từ lâu, muốn chạy cũng không nổi, chỉ đành ngồi nức nở cạnh chân hắn. Đường Tiềm lanh trí, sang tiệm nhỏ ven đường mua về mấy cái bánh hoa quế đưa cho cô bé, nó lập tức ngừng khóc, giằng lấy mấy cái bánh mà nhai lấy nhai để.
Nó đang đói.
Sợ nó ăn quá vội, hắn lại mua về cho nó một bát sữa đậu nành. Con bé ừng ực uống mấy hơi là hết sạch.
Hắn thở phào một tiếng, cho rằng thế là con bé sẽ không quấy nữa. Ai ngờ ăn uống có sức rồi, con bé lại bắt đầu khóc lớn. Hắn đứng bên cạnh, chẳng biết phải làm sao, một hồi sau, có vẻ như đã thấm mệt tiếng khóc nhanh chóng nhỏ lại. Hắn đang định rời bước, một bàn tay nhỏ bé đã túm lấy góc áo hắn, con bé tựa sát vào hắn, thân hình nhỏ không ngừng run rẩy. Hắn lại ôm lấy con bé, lần này nó không còn quẫy đạp nữa, chỉ vùi đầu vào lòng hắn.
Lúc này Đường Tiềm mới phát hiện, đang tiết cuối thu thế mà con bé chỉ mặc độc một chiếc áo mỏng, lại còn rách bươm. Con bé như một con mèo nhỏ, ngoan ngoãn nằm trong lòng hắn, hơi thở gấp gáp, toàn thân đổ mồ hôi ướt sũng. Hắn không tin trên đời có thể có thứ cha mẹ đem bỏ đứa con đang bệnh nơi đầu đường, bèn cố chấp đứng nguyên nơi cũ đợi, đợi thêm hơn nửa canh giờ mà vẫn chẳng thấy ai tới nhận. Đứa bé thì rõ ràng đang lên cơn sốt. Thôi vậy, hắn đành quay sang một gánh hàng gần đó hỏi thăm: “Xin hỏi vị tiểu ca này, gần đây có y quán nào không?”.
Người bán rong đáp: “Đi về phía trước khoảng trăm bước rồi rẽ trái, ngôi nhà đầu tiên ở khúc ngoặt chính là Trúc Gian quán của Ngô đại phu, chuyên chữa trị cho phụ nữ và trẻ nhỏ”.
“Đa tạ”, con đường trước mặt hắn chưa từng đặt chân qua, bèn rút từ sau lưng một cây gập trúc được vót rất mảnh, dò dẫm phía trước, đang định cất bước thì nghe tiếng người bán hàng rong khẽ thở dài, nói: “Để tôi đưa anh đi”.
Tới trước cửa Trúc Gian quán, Đường Tiềm gõ cửa, nghe thấy có người bên trong đáp bèn đẩy cửa bước vào.
Trong nhà hương thơm thoang thoảng, yên tĩnh không tiếng người. Hắn lần tìm một cái ghế rồi ngồi xuống. Mành châu chợt động, một giọng nữ truyền tới: “Quán đã đóng cửa rồi, là bệnh nguy cấp sao?”
“Trẻ nhỏ phát sốt.”
“Tôi là Ngô đại phụ.”
“Làm phiền rồi.”
Cô gái đi tới cạnh hắn ôm đứa bé đi. Đầu tiên hắn nghe thấy tiếng ngọc bội kêu đinh đang, ngay sau đó là hương hoa thanh đạm. Đó là mùi hương trên tóc nàng, hỗn hợp mùi quán thảo và tử đinh hương. Giọng nói của nàng uyển chuyển, mang khẩu âm đất Ngô rõ ràng, giống hệt với mẫu thân của hắn, trong thoáng chốc, sâu trong đáy lòng dậy lên một cơn xao động, khiến hắn cảm thấy thoải mái gần gũi, cực kỳ dễ nghe.
“Cô bé là con huynh?”, nàng vừa xem bệnh vừa hỏi.
“Không phải.”
“Là nhặt được trên phố phải không?”
“Làm thế nào mà cô biết?”
“Việc thế này vẫn thường xảy ra”, nàng xắn ống tay áo, “Trước tiên tôi sẽ tắm rửa cho nó, làm sạch vết thương rồi tính tiếp”.
“Làm phiền cô nương rồi.”
Ngô Du xoay người vào phòng trong, tiếng nước vang lên, đứa bé giật mình tỉnh giấc, lại khóc thét lên. Nàng nhỏ giọng vỗ về nhưng nói thế nào cô bé cũng không chịu ngừng khóc.
Rèm cửa lại động, Ngô Du tới trước mặt hắn nói: “Tôi đã bôi thuốc cho nó, đây là gói thuốc. Cứ hai canh giờ thì thay một lần. Thuốc uống cần sắc với nước ít nhất một canh giờ. Còn một hộp ‘Vũ lộ thanh tâm hoàn’ dùng để giải độc. Cố gắng để con bé uống nhiều nước mát, nếu vẫn không hạ sốt, ngày mai phiền huynh quay lại”.
Dặn dò xong, nàng dúi gói to gói nhỏ vào tay hắn.
Hắn cảm thấy có chút kỳ quái, cô gái này giọng nói tuy rất dễ nghe, nhưng thái độ lại sắt đá không ngờ. Giao tiếp với người khác tuyệt không nhiều lời, tựa như đây đã là bệnh nhân thứ một trăm mà ngày hôm nay nàng tiếp.
Có điều, ít nhất cô ta cũng biết hắn là người mù, rất khó phân biệt rõ bọc thuốc to nhỏ, cho nên cuối cùng còn thêm một câu: “Lúc buộc thuốc tôi đã đánh dấu: buộc hai nút là thuốc bôi ngoài, một nút là thuốc uống”.
“Đa tạ. Đây là tiền khám và tiền thuốc, không cần trả lại”, hắn đưa cho nàng một đĩnh bạc.
Ngô Du đi vào phòng trong, đem trả lại hắn một vốc tiền xu: “Tiền thuốc và phí khám đều đã có quy định, trả lại huynh bảy mươi bảy xu, xin nhận lấy”.
Hắn hơi ngượng nghịu, đành cười nhạt, cất tiền xu vào túi.
“Chỉ sợ huynh vẫn phải đợi ở đây một lát… Tôi vừa mới cho cô bé uống thuốc, dược lực hơi mạnh một chút, sợ nó chịu không được, cần giữ lại một lát nữa đề phòng bất trắc xảy ra. Huynh không có việc gì gấp chứ?”
“Không có.”
Hắn cứ ngồi đấy, cô bé nằm trên chiếc giường nhỏ bên cạnh, trở mình không thôi. Hắn nghe thấy cô gái khe khẽ vỗ về con bé, dịu dàng nói: “Cô bé ngoan mau ngủ nào”.
“Con muốn mẹ…”, có lẽ thấy khuôn mặt nàng hiền hòa, cô bé cứ giữ tay nàng không chịu buông, thì thào gọi.
“Cô bé ngoan ngủ đi, thúc thúc sẽ đưa con đi tìm mẹ…”
“Con không muốn sói xám đưa con đi tìm mẹ…”
Ngô Du ngẩng đầu nhìn hắn một cái. Hắn cười gượng, tự trào phúng bản thân: “Bộ dạng tôi có phải rất giống một con sói xám to không?”.
Nàng không đáp, chỉ nhẹ giọng nói với đứa trẻ: “Ta kể cho con một câu chuyện, có được không?”.
Cô bé gật gật đầu.
“Ngày xưa, có một cô bé sống trong một thôn nọ. Một ngày, mẹ của cô bé đưa cho cô một giỏ táo chín, nói với cô bé: ‘Bà ngoại con ốm rồi, con đem giỏ táo này đến thăm bà nhé?’, cô bé nói, ‘Vâng ạ’.”
“Bà ngoại của cô bé sống một mình ở một gian nhà nhỏ trong rừng sâu. Rừng vừa lớn vừa tối, có rất nhiều đường nhỏ. Cô bé đã đến nhà bà ngoại nhiều lần rồi, cho nên sẽ không lạc đường. Trước khi đi, mẹ còn đưa cho cô bé một con dao, nói trong rừng rậm có sói xám lớn, chỉ cần cô bé đi theo con đường mẹ chỉ, tránh con đường nhỏ ngập tràn dâu tây ngày thường cô bé thích đi nhất thì sẽ bình yên vô sự.”
Đường Tiềm ở bên nghe vậy, lặng lẽ cười, không kiềm được nhớ lại thuở thơ ấu của mình. Trước khi đi ngủ, mẫu thân thường ngồi ở đầu giường kể cho hắn nghe một câu chuyện, Bà ngoại sói là một trong hàng trăm câu chuyện thời ấy.
Mới kể đến đây, Ngô Du bỗng dừng lại không kể nữa.
Hắn hỏi: “Có chuyện gì vậy?”.
“Con bé ngủ rồi.”
“Liệu tôi có thể thỉnh cầu cô nương một việc không?”, hắn chợt hỏi.
“Việc gì?”
“Tiếp tục kể nốt câu chuyện vừa rồi.”
“Tại sao?”, cô gái lạnh lùng hỏi.
“Tôi rất muốn được nghe cô kể tiếp.”
Hắn biết lý do của mình cực kỳ hoang đường, chỉ là đối với giọng kể của nàng hắn vô cùng hoài niệm, cho nên mới nhẹ giọng thỉnh cầu.
“Được rồi”, Ngô Du thở dài một tiếng, hỏi: “Vừa rồi kể tới đâu rồi?”.
“Trong rừng rậm tuy có sói xám, nhưng chỉ cần cô bé đi theo đường mẹ dặn thì sẽ bình yên vô sự…”
Nàng kể tiếp: “Cô bé vội vàng gật đầu vâng lời rồi thay bộ quần áo mình thích nhất, cẩn thận tết một bím tóc nhỏ, cài lên đó một đóa hoa sau đó vui mừng hớn hở lên đường”.
“Dưới ánh nắng, khu rừng vẫn nguyên vẻ mờ tối, cô bé vừa đi vừa chơi, chẳng sợ hãi chút nào. Thứ cô bé thích ăn nhất chính là dâu tây, thế là lại đi trên con đường nhỏ mọc đầy dâu tây. Vừa đi được một lúc, trong lùm cỏ bỗng có một con sói xám lớn nhảy ra.”
“Từ trước tới giờ cô bé chưa từng trông thấy sói xám, chỉ cảm thấy nó rất giống một con chó to, liền chào hỏi nó: ‘Chào mày, chó to!’. Sói xám vừa nghe thấy, vội vàng thu lại nanh nhọn vuốt sắc của mình, cười hữu hảo với cô bé, thật thà khen: ‘Tiểu cô nương, ngươi thật là xinh đẹp!... Ngươi là cô bé xinh đẹp nhất mà ta từng gặp’, cô bé nghe thấy thì đỏ bừng mặt, xấu hổ bẽn lẽn cười.”
“Con sói hỏi cô bé đi đâu đấy, cô bé thành thực nói với nó. Sói xám nói: ‘Vừa hay ta cũng đi hướng đó, hay là chúng ta kết bạn cùng đi đi’, dọc đường, sói xám không ngừng chui vào lùm cỏ, hái cho cô bé những quả dâu tây to nhất, cũng không ngừng trêu đùa, làm mặt quỷ chọc cho cô bé cười khanh khách không thôi. Lại còn giúp cô bé bưng giỏ táo chín nặng nề kia nữa. Cô bé mời sói ăn táo, sói xám không ăn, nói là táo này để dành cho bà ngoại bị ốm. Thế là cả hai tay trong tay, càng lúc càng thân mật, lúc tới trước cửa nhà bà ngoại, cô bé đã thích sói xám mất rồi.”
“Lúc này, sói xám mới dừng bước, thu hết dũng khí nói với cô bé: ‘Nếu em đã thích ta, ta phải thú thực với em một câu… Ta chính là sói xám ai nhìn thấy cũng sợ, ta không phải là chó xám đâu’, cô bé bĩu môi, nhất định không tin. Cô bé nói: ‘Ngươi là chó xám to… Ta nói ngươi là chó xám thì ngươi chính là chó xám’. Sói xám mới nhe nanh giương vuốt của mình, cất tiếng sói tru trước mặt cô bé sau đó nói: ‘Thế này thì em tin rồi chứ?’, cô bé lắc đầu cười lớn: ‘Chó xám to, ngươi thật thú vị, giả vờ làm sói rất giống nhé! Trời tối rồi, bên ngoài lạnh thế này, ngươi cùng ta vào bên trong uống rượu sưởi ấm nhé!’, sói xám cực kỳ chán nản, đành cụp đuôi theo sau cô bé.”
“Cả hai vào nhà gặp bà ngoại. Bà ngoại đang nhóm lửa bên bếp, vừa trông thấy sói xám liền kéo lấy cô bé, không do dự chĩa que cặp than đỏ hồng trong tay đâm về phía sói xám, vừa khéo đâm chúng vai sói xám, đau tới mức nó phải gào rú lên. Cô bé vội vàng ngăn bà ngoại lại, lớn tiếng kêu: ‘Bà ngoại đừng làm nó bị thương, nó là bạn của cháu, không phải sói xám đâu’. Bà ngoại tức giận nói: ‘Không được tin lời thủ thỉ ngọt nhạt của nó, sói xám chính là sói xám, giờ không giết nó, sớm muộn gì nó cũng ăn thịt cháu chẳng chừa lấy xương đâu!’, nói rồi nhặt con dao làm bếp dưới đất lên, bổ về phía sói xám. Sói xám sợ hãi định nhảy qua cửa sổ chạy trốn, cô bé túm lấy đuôi nó, giận dỗi nói: ‘Đồ nhát gan nhà ngươi! Ngươi nói ngươi thích ta, vĩnh viễn sẽ không rời khỏi ta, giờ ngươi lại muốn chạy thoát thân sao?’. Bị ép tới mức không biết phải làm sao, sói xám giận dữ tru lên một tiếng rồi nhe nanh múa vuốt về phía bà ngoại, muốn dọa bà ngoại chạy đi.”
“Có biết đâu bà ngoại chẳng hề sợ hãi chút gì, chẳng để tâm đến cô bé khổ sở van xin mà cặp một viên than đỏ rực trong lò ra quăng về phìa sói xám. Chỉ nghe thấy ‘xèo’ một tiếng, đã đốt hết đám lông dài trên mặt sói xám, sói xám vội vàng che mặt lại. Nhân lúc nó phân tâm, bà ngoại lại vung dao chặt xuống đầu sói xám!”
“Nhát dao ấy không hề trúng vào sói xám nhưng vẫn khiến nó sợ hết vía, toát hết cả mồ hôi. Sau đó chợt nghe ‘lịch bịch’ một tiếng, bà ngoại chợt ngã xuống đất. Đưa mắt nhìn lại, trên người bà ta còn cắm một con dao, máu chảy đầy đất. Cô bé mặt mũi hầm hầm đứng bên cạnh, đanh giọng nói với sói xám: ‘Ngươi quả nhiên chẳng phải sói xám, đến bà ngoại ta mà cũng không dám làm gì’. Sau đó, cô bé chỉ huy sói xám đem thi thể bà chôn xuống hố bên ngoài rồi lấp lại…”
Kể tới đây, cô gái im bặt, còn hắn nghe chăm chú tới mức toát hết mồ hôi hột, không nhịn được hỏi:
“Sau đó thì sao?”
“Sau đó, tiểu cô nương và sói xám sống hạnh phúc cùng nhau.”
… Hắn thừa nhận câu chuyện này có chút tàn nhẫn, khiến hắn nghe mà thấy khó tiếp thu. Thậm chí hắn có thể đoán được cô gái kia vừa kể vừa nhìn chằm chằm vào mặt hắn, quan sát phản ứng của hắn.
Thế là hắn nhớ kỹ câu chuyện này, cũng ghi nhớ người kể nó.
Phố lớn hơi lạnh giá.
Hắn quay lại chỗ cô bé bị lạc, vẫn ôm lấy nó mà đứng trơ trọi bên đường ngóng đợi. Vô số kẻ bộ hành đi lướt qua hắn nhưng chẳng ai nhìn lấy một cái.
Xa xa nơi cổng thành vọng lại ba tiếng trống, hắn biết mình đã đợi gần hai canh giờ rồi. Giờ Tý vừa qua, thuyền đêm lũ lượt ngừng chèo, ngẫu nhiên chỉ có vài người khách vừa xuống bến, tiếng quang gánh kẽo kẹt, tiếng bước chân nặng nề đi trên những phiến đá lát đường.
Những âm thanh hỗn tạp ấy vừa biến mất, đường phố cuối cùng cũng yên tĩnh trở lại. Lúc đó, hắn chợt cảm thấy có người cách hắn không xa đang lưỡng lự. Tiếng bước chân đó là của phụ nữ, vừa nhỏ vừa nhẹ, xen thêm vào tiếng sột soạt của y phục, dợm bước rồi lại ngừng, ngừng rồi lại bước, tựa hồ đang quan sát cái gì đó.
Trong lòng hắn cảm thấy thoải mái, may mà mình đã đoán không sai. Người đang tới nhất định là mẹ của con bé.
Hắn đợi cô ta đi tới nhưng tiếng bước chân chỉ dừng lại xa xa bên kia đường. Kể cả như thế, chỉ cần hắn ngưng thần đề khí tập trung vẫn có thể nghe được tiếng hô hấp của người phụ nữ đó.
Sao cô ta lại không qua đây?
Lẽ nào cô ta không nhận ra nổi cả con của mình?
Hai người cứ đứng cách nhau một con đường rất lâu hắn đột nhiên nhớ lại lúc tới y quán, vị nữ đại phu kia thấy cô bé áo quần mỏng manh liền khoác thêm lên người nó một tấm chăn lông cho nên trông cô bé so với lúc đi lạc không giống nhau, chỉ sợ mẹ nó không dám mạo muội tới nhận. Đường Tiềm liền sải bước băng qua đường, dịu giọng nói với người kia: “Xin hỏi có phải cô nương đang tìm một đứa bé gái phải không?”.
Nói xong câu này hắn liền biết mình nhầm rồi, mùi hương quán thảo hòa quyện với vị tử đinh hương lại thoang thoảng truyền tới, đồng thời là giọng nói vẫn lạnh lùng như lúc trước:
“Là tôi, Ngô đại phu.”
Hắn thất vọng “A” một tiếng.
“Tôi có một vị hàng xóm nhiều năm rồi không có con cái, luôn muốn có một đứa trẻ. Nếu huynh không tìm được người thích hợp để nuôi dưỡng đứa bé, hay là thử cân nhắc một phen.”
“Tự tôi có thể nuôi dưỡng nó.”
“Huynh?”, cô ta cười lạnh, “Huynh là nam nhân”.
“Vậy thì sao?”
“Đừng hành sự theo cảm tính, điều trẻ con cần là một người mẹ… Loại sự tình này tôi hiểu rõ hơn huynh.”
Chút ý tứ này đã thuyết phục được hắn, trầm tư một lúc, hắn hỏi: “Hàng xóm của cô là người như thế nào? Nhân phẩm có tốt không?”.
“Ông ta cũng là một vị đại phu, chính là chủ nhân Trường Xuân các ở đường Tây Thủy phía trước, họ Thôi. Phu phụ hai người họ đều là người rất lương thiện ôn hòa, thành thân đã chục năm rồi mà vẫn chưa có con.”
Hắn gật đầu, lại hỏi: “Xin hỏi, đại phu trong trấn này, có phải toàn bộ đều là học trò của Mộ Dung Vô Phong không?”.
“Toàn bộ.”
“Vậy thì cô nương cũng thế ư?”
“Đương nhiên.”
… Mộ Dung Vô Phong chỉ có duy nhất một nữ đệ tử, cũng là người rất có tiếng tăm, hắn lập tức biết được đối diện mình là ai.
Do dự một lát, cuối cùng hắn cũng thận trọng nói: “Làm thế rất tốt, xin nhờ cậy rồi”.
Hắn đưa Ngô Du về y quán, tới cửa thì trao cô bé vào lòng nàng.
“Bất cứ lúc nào huynh cũng có thể tới thăm nó.”
“Không cần thiết”, hắn lắc đầu, “Con bé còn nhỏ, chưa nhớ được gì nhiều, cứ để nó có một khởi đầu hoàn toàn mới thôi”.
“Cách nghĩ này rất cao thượng.”
Hắn hơi nghiêng đầu, thể hiện thái độ nghiêm túc lắng nghe, hỏi: “Xin hỏi, có phải tôi đã làm sai chuyện gì không?”
“Không hề.”
“Nhưng tôi cảm thấy dường như cô nương đang chế giễu mình.”
“Nếu như huynh cho rằng sáng tạo ký ức cho một cô bé chưa có ký ức là một việc rất thú vị.”
Hắn sững người, hoàn toàn không ngờ nàng lại nói thế.
… Ký ức tuổi thơ có mấy phần là chân thực?
Hắn còn nhớ thuở nhỏ thường hỏi cha mẹ mình thế giới này như thế nào. Mẫu thân xoa đầu hắn, dịu dàng đáp: “Con vốn là một đồng tử trên trời, vô ưu vô lo, cưỡi trên lưng một con hạc tiên. Có một ngày, con gặp được cha mẹ, cảm thấy chúng ta quá cô đơn liền tới nhân gian bầu bạn với chúng ta. Con là lễ vật trời ban cho cha mẹ”.
Sau này, hắn đi hỏi bạn bè khác, đại đa số câu trả lời lại là: “Mẹ tớ bảo, tớ được nhặt về từ đống rác”.
Bởi thế hắn đắc ý rất lâu, cảm thấy bản thân quý giá hơn những đứa trẻ khác.
Sau khi lớn lên, tự nhiên phát hiện được câu chuyện ấy thật hoang đường vô lý nhưng tác dụng của lời bịa đặt đó đã ăn sâu vào trong đầu. Cho tới bây giờ hắn vẫn cảm thấy hạnh phúc vì cha mẹ đã không nói với hắn giống như những người khác nói với con của họ, rằng hắn cũng được nhặt về từ đống rác.
Không biết phải trả lời như thế nào, hắn chỉ đành khẽ gật đầu, biểu lộ mình đã hiểu: “Tôi không hề có ý ấy. Có điều, đa tạ cô nương nhắc nhở”.
“Đừng khách khí. Đi cẩn thận.”
Hắn xoay người cáo từ, cách cửa đã “rầm” một tiếng đóng lại, cực kỳ không thân thiện.
Hắn hoàn toàn không vì bản thân không được hoan nghênh mà cảm thấy buồn, ngược lại còn thấy trong giọng nói lạnh lùng của cô gái này còn ẩn chứa sự phẫn nộ, phải chăng hắn tới không đúng lúc, vừa khéo để nàng trút hết lên người mình.
Nàng cũng là một người ưu sầu.
Điều bất đồng duy nhất là, màu sắc ưu sầu của phần lớn người là màu xanh lam, còn của nàng thì ưu sầu lại mang màu đỏ.
Gió đêm khẽ khàng, hắn thong thả dạo bước quay về khách điếm. Đại sảnh thật huyên náo, không biết là có chuyện vui gì mà các huynh đệ của hắn tới giờ vẫn còn uống rượu với chơi đoán số.
Cảm thấy hơi mệt mỏi, hắn muốn lên thẳng trên lầu nghỉ ngơi, Đường Tầm ngăn hắn lại, dúi cho hắn một ly rượu: “Muộn thế này rồi mới về à? Uống mấy chén rồi hẵng đi ngủ”.
“Có việc gì mà ồn ào thế?”
“Chiều nay có người nhìn thấy Mộ Dung Vô Phong ở Thính Phong lâu.”
“A!”
“Tùy tùng của hắn không nhiều. Lão đại phái mười mấy người mai phục trên đường hắn quay về cốc. Nghe nói tập kích thành công, giết được ba thị vệ của bọn chúng, cả Mộ Dung Vô Phong cũng bị thương nặng.”
Đường Tiềm nhíu mày nói: “Làm như thế chẳng phải quá lỗ mãng sao? Nơi đây là địa bàn của bọn họ”.
“Ta cũng nói thế nhưng có ai nghe đâu. Lão đại còn nói nhân thủ của Vân Mộng cốc hữu hạn, không đáng phải sợ. Hắn thật sự lo lắng chính là về người của Long gia.”
“Người của Long gia cũng tới rồi sao?”
“Tới lâu rồi.”