Mộ Dung Vô Phong quay đầu nhìn Hà Y, phát hiện ra mặt nàng
biến sắc.
Đứng đầu nhóm kia là một thanh niên có vẻ lớn tuổi nhất, người
này chắp tay hướng tới Hà Y nói: “Sư muội, lâu rồi không gặp, thì ra muội ở chỗ
này”.
Cô gái kia y phục hoa lệ, quốc sắc thiên hương, lúc vừa tiến
vào đại sảnh đã khiến cho tất cả đàn ông đổ dồn mắt vào. Khẩu khí của cô ta đối
với Hà Y thì lại không có chút tình cảm nào:
“Đại sư ca, với loại nữ nhân vô sỉ bại hoại này huynh còn
khách sáo cái gì?”
Sắc mặt Mộ Dung Vô Phong lập tức trầm xuống, nói: “Các vị
tìm Hà Y có việc gì?”.
Cô gái kia vừa nghe cách chàng gọi Hà Y là biết quan hệ giữa
hai người không tầm thường, mày nhíu lên, đột nhiên “bốp” một tiếng, vỗ xuống
bàn làm tất cả chén trà trên bàn rung lắc mạnh rồi sắc giọng nói: “Bọn ta tìm Sở
Hà Y tính nợ, nếu không muốn chết thì chớ có nhúng mũi vào, ít quản việc người
khác đi!”.
Mặt Mộ Dung Vô Phong thoáng chốc đã bắt đầu tím tái, tim
cũng thình thịch đập mạnh.
Chàng bệnh nặng chưa khỏi, gặp phải tiếng động bất ngờ lập tức
cảm thấy lồng ngực tưng tức, hô hấp gấp gáp.
Hà Y vội vàng nắm lấy tay chàng, ba ngón tay đặt vào ba huyệt
“Thần Môn”, “Nội Quan”, “Thái Uyên” của chàng, đem chân khí truyền vào, giúp
chàng điều hòa hơi thở rồi nhỏ tiếng thì thầm bên tai chàng: “Bọn họ là sư
huynh, sư tỷ ta, từ trước tới giờ đều gây khó dễ cho ta. Ta tự có cách đối phó
. Đồng ý với ta, ngàn vạn lần đừng tức giận, cẩn thận lại phát bệnh”.
Mộ Dung Vô Phong nhìn nàng gật đầu.
Hà Y lạnh lùng nói: “Các vị chớ có làm việc không đâu. Vị
này là bằng hữu của ta, còn đang bệnh, có gì muốn nói thì nói thẳng với ta. Còn
sư tỷ, xin hạ giọng xuống, nói chuyện với người bệnh, chí ít cũng phải từ tốn một
chút mới được”.
Cô ta cười lạnh một tiếng, nói: “Sư muội từ bao giờ đến cả kẻ
bệnh tật cũng thèm muốn thế? Chắc là thấy hắn có tiền nên muốn lợi dụng hắn lừa
lấy một khoản chăng? Ta xem…”. Cô ta có trực giác của con nhà thế gia, tuy Mộ
Dung Vô Phong không mang vật gì đặc biệt, cũng không đeo ngọc giắt vàng nhưng từ
cử chỉ tác phong nhìn là biết cực kỳ có tu dưỡng. Huống chi y phục của chàng
tuy đơn giản nhưng đều là đồ tinh xảo, nhìn cũng biết không phải loại mà người
bình thường có thể sờ tới.
Cô ta vốn còn định chửi tiếp, kiếm của Hà Y đã chĩa thẳng
vào mũi cô ta, lạnh nhạt nói: “Nếu còn nói chàng thêm một chữ, ta sẽ xẻo mũi của
ngươi xuống. Thực ra, không chỉ mũi của ngươi không đâu”.
Người thanh niên đứng đầu dùng bao kiếm khẽ gạt mũi kiếm của
Hà Y, nói: “Tỷ muội đồng môn sao phải động đao kiếm? Huống chi, làm cô ấy bị
thương, sư phụ trên trời có linh cũng không tha thứ cho muội đâu. Sư muội, lần
này bọn ta cố ý tới tìm muội. Từ khi muội xuống núi đến nay thì không có tung
tích gì. Bọc đồ này là đồ của muội hồi còn ở trên núi, bọn ta cũng mang tới
đây, gọi là lưu chút kỷ niệm”.
Anh ta cười cười rồi đưa cho nàng một bọc đồ.
Hà Y nhận lấy, nói: “Đa tạ”, rồi chẳng buồn nhìn lấy một
cái, trước mắt mọi người, quăng nó vào thùng rác.
Năm người kia đều tức đến tái mặt.
“Sư ca, với loại nữ nhân này chúng ta còn cần lý luận sao?”,
cô gái kia giận tới run giọng nói.
Thanh niên kia nói: “Sư muội, nếu bằng hữu của muội không được
khỏe, việc giữa chúng ta, hay là đến nơi khác thương lượng đi”.
Hà Y nói: “Ta đã sớm rời khỏi sư môn. Có việc gì xin các vị
tự mình thương lượng, không liên quan gì tới ta”.
Thanh niên kia biến sắc nói: “Thực ra cũng không có gì cần
thương lượng. Nếu sư muội đã rời khỏi sư môn, vậy xin giao lại kiếm phổ của sư
phụ”, anh ta lấy trong người ra một miếng ngọc bội, nói: “Sư phụ lúc còn sống từng
nói, thấy ngọc bội này như thấy người. Ở trước ngọc bội này, lẽ nào sư muội còn
muốn tiếp tục quanh co hay sao?”.
Hà Y nói: “Sư phụ đã qua đời, ngọc bội này còn có tác dụng
gì? Vật của người chết lưu lại há có thể quản người sống hay sao?”.
“Láo xược!”, một thanh niên áo xanh rút kiếm thét lên.
Cô gái kia chắp tay chào Mộ Dung Vô Phong nói: “Xem ra vị
công tử này không phải là nhân sĩ võ lâm, chỉ sợ không hiểu lắm về bằng hữu mới
quen biết này. Tiểu nữ họ Trần, gia phụ chính là Trung Nguyên đệ nhất khoái kiếm
năm xưa, Trần Thanh Đình. Vị này là tam công tử của Thi Kiếm sơn trang, Tạ Dật
Thanh, vị này là đại công tử của Song Long tiêu cục ở Giang Nam, Cố Hữu Trai,
hai vị còn lại, một vị là con của chủ nhân Long Vũ các, Long Hi Chi, một vị là
cháu của Tiêu Mộc Phong, Tiêu lão tiên sinh của Tàng Kiếm Các, Khoái Kiếm đường,
Tiêu Thuần Giáp. Bốn vị sư huynh này của tiểu nữ đều thuộc dòng võ lâm thế gia
trong thiên hạ, phụ thân, tổ phụ của các vị đều có địa vị, được võ lâm tôn
sùng. Nếu không có nguyên do, chúng tôi sao lại làm phiền đến vị bằng hữu này của
công tử?”.
Nói xong cô ta quay sang trừng mắt nhìn Hà Y: “Còn vị bằng hữu
này của công tử, lai lịch bất minh. Vốn chỉ là một đứa trộm vặt ở trên đường,
được phụ thân tiểu nữ rủ lòng thương thu nhận, nuôi lớn thành người, dạy cho võ
công. Từng hạt cơm cô ta ăn, từng tấc áo cô ta mặc đều là của nhà họ Trần ta.
Không ngờ cô ta còn dám dòm ngó tuyệt học của bổn môn, việc này cũng thôi đi.
Cô ta lại vì có được kiếm phổ của bổn môn, không tiếc dùng sắc đẹp dụ dỗ… nói
tóm lại, nói tóm lại chính là vô sỉ hết mức! Các hạ là người thông minh, cẩn thận
bị con đàn bà giảo hoạt này lừa mà vẫn không biết”.
Mộ Dung Vô Phong nhạt giọng nói: “Kẻ hèn này không phải người
trong giang hồ, cho nên không bết mấy về thanh danh vang dội của các vị. Còn về
Hà Y, hoàn toàn trái với những thứ cô nương vừa nói, ta rất hiểu cô ấy, cũng rất
ngưỡng mộ cách làm người của cô ấy. Các vị đều là con nhà thế gia, đương nhiên
biết bàn này là của hai người bọn ta, bọn ta cũng không hề mời các vị tới. Nếu
các vị chịu quay đầu lại nhìn sẽ thấy trong đại sảnh còn rất nhiều chỗ trống,
không nhất thiết phải ngồi chen với chúng ta. Mọi người tránh nhau thì tai ai
cũng được yên tĩnh, vậy chẳng tốt lắm sao?”.
Cô gái kia nói: “Công tử đây muốn đuổi khách rồi”.
“Không dám, xin tự nhiên”, Mộ Dung Vô Phong cười nhạt, ung
dung nói.
Biểu tình trên mặt chàng chính là hoàn toàn không thèm để bọn
họ vào mắt. Những điều bọn họ vừa nói, rõ ràng chàng chẳng để trong lòng.
Sau đó, chàng nhẹ nhàng kéo tay Hà Y, Hà Y bèn thuận theo
ngoan ngoãn ngồi xuống.
“Hà Y, nàng có từng nghe chưa? Nơi này có một loại trà hoa
cúc mùi vị rất ngon, chúng ta gọi một tách nếm thử, được không?”
Cách chàng nói chuyện cứ như năm người đang ở trước mặt hoàn
toàn không tồn tại.
Nghĩ là biết, năm người này khó chịu đến mức nào.
Miệng Tạ Dật Thanh mấp máy, muốn nói gì đó nhưng lại phát hiện
bên cạnh Mộ Dung Vô Phong không biết từ lúc nào đã có thêm một vị trung niên đứng
sừng sững. Năm xưa, khinh công, kiếm thuật của Trần Thanh Đình tuyệt thế, đồ đệ
của ông ta từ trước tới giờ đều kiêu ngạo về khinh công vậy mà người trung niên
này đến từ lúc nào, đến ra sao họ lại chẳng phát giác ra.
Sau đó bọn họ lập tức nhận thấy thanh kiếm đeo nơi lưng người
này, chuôi kiếm có đồ hình bát quái. Đây là kiếm thường dùng của phái Nga My. Trên
núi Nga My, ở tuổi này mà vẫn mang kiếm, trừ ba vị đạo sĩ cả đời không lộ diện
trên giang hồ chỉ còn hai người. Một là chưởng môn phái Nga My, Phương Nhất Hạc.
Người còn lại là sư đệ của ông ta, Tạ Đình Văn.
Con cháu nhà võ lâm thế gia vẫn tường tận chuyện giang hồ
hơn so với người bình thường, huống chi bản thân bọn họ cũng kể như là người
trong giang hồ.
Người này không nghi ngờ gì nữa, đương nhiên là Tạ Đình Vân.
Mà ông ta lại cung kính đứng trước mặt thanh niên tàn phế tuổi hắn phải nhỏ hơn
ông ta nhiều. Ông ta nhẹ nhàng đem chiếc chăn cầm trong tay phủ lên đôi chân mỏng
manh vô lực của người thanh niên rồi cúi xuống thấp giọng nói bên tai chàng vài
câu.
Nhìn ra Tạ Đình Vân, bốn người kia lập tức đoán ra thân phận
người thanh niên tàn phế này.
Tạ Dật Thanh kinh sợ, đổi sắc mặt hỏi: “Thứ cho tại hạ thất
kính, phải chăng các hạ là Mộ Dung cốc chủ?”.
Tạ Đình Vân nói: “Lời cốc chủ vừa nói, lẽ nào chư vị không
nghe thấy?”.
“Không dám… Gia phụ năm trước bệnh nặng, may nhờ tiên sinh
diệu thủ chữa cho mới qua khỏi, tại hạ lần này… lần này vốn là mang thư cùng lễ
vật của gia phụ, chuẩn bị… chuẩn bị… xin gặp tiên sinh…”, hắn vốn muốn tìm lời
nói cho khéo để vỗ yên tình hình, ai ngờ nhất thời lúng túng, không biết phải
như thế nào mới được.
Mộ Dung Vô Phong lạnh nhạt nói: “Không dám”.
“Vậy… vậy chúng tôi xin cáo từ, đã quấy rầy rồi”, nói xong
quay sang bốn người kia đánh mắt ra hiệu, chớp mắt đã mất tăm khỏi cửa.
Mộ Dung Vô Phong khẽ cười, nói: “Mấy vị sư huynh, sư tỷ của
nàng thật lợi hại, lúc nhỏ hẳn rất thường bắt nạt nàng”.
Hai tay Hà Y vịn chặt thành ghế, vai cứng lại, đầu cúi gằm,
lặng im không nói.
Mộ Dung Vô Phong đợi mãi, phát hiện nàng chẳng nói gì, đành
nói tiếp: “Nàng xem…”.
Chưa nói xong đã nghe tiếng “tí tách”, tấm khăn trải bàn trước
mặt Hà Y đang loang ra một giọt nước lớn.
Còn đang ngạc nhiên, tiếng “tí tách”, “tí tách” lại càng
mau, càng liên tục, thoáng chốc đã thấm ướt khăn trải bàn một mảng lớn bằng bàn
tay.
Mộ Dung Vô Phong vội rút khăn tay của mình đưa qua. Hà Y nhận
lấy rồi thấm nước mắt, một lúc sau, khăn tay đã ướt sũng mà tiếng “tí tách” lại
vang lên khi những giọt nước mắt rơi xuống bàn. Mộ Dung Vô Phong đành đem chén
trà của mình hứng trước mặt nàng.
“Tinh, tinh, tinh, tinh…”, Hà Y nức nở, nước mắt không ngừng
rơi vào chén trà.
Không biết phải làm sao, Mộ Dung Vô Phong nghĩ một chút rồi
cởi áo khoác ngoài của mình ra nói: “Khăn tay bé quá, dùng cái này đi, chắc chắn
đủ”.
Hà Y bưng mặt, nói: “Chàng không sợ ta… làm bẩn áo chàng
sao?”.
“Không thành vấn đề, nếu áo còn chưa đủ, ta còn một tấm chăn
đắp chân đây”, chàng nói.
Hà Y cầm tấm áo thấm nước mắt, thoáng cái nước mắt lại tuôn
không ngừng.
Mộ Dung Vô Phong nhìn nàng khóc hồi lâu, cuối cùng thở dài một
tiếng, nhẹ nhàng vỗ vỗ lưng nàng nói: “Đừng đau lòng nữa, bọn họ đã đi hết rồi”.
Nàng thân thiết dựa vào người chàng, buồn bã nói: “Chàng đã
biết ta là ai rồi, ta cũng phải đi thôi. Ta… ta chẳng qua chỉ là một đứa trộm vặt
ai cũng ghét”.
Mộ Dung Vô Phong nắm lấy tay nàng, nói: “Không cần kẻ khác
phải nói, lần đầu tiên nhìn thấy nàng ta đã biết nàng là ai”.
“Ta… là ai?”, Hà Y run rẩy hỏi.
Chàng nhìn nàng sâu lắng, nói: “Nàng là vợ của ta”.
Khuôn mặt của Hà Y đỏ ửng lên, véo tay của chàng, nói: “Người
ta đang buồn muốn chết, chàng còn… còn không nghiêm túc”.
Chàng đang muốn nói gì đó, chợt nghe thấy từ xa có tiếng gọi:
“Sư muội!”.
Hai người cùng ngẩng đầu nhìn thì thấy một thanh niên mặc áo
xám xuất hiện ở cửa, đang vẫy tay về phía Hà Y. Hà Y vội thì thầm vào tai Mộ
Dung Vô Phong: “Hỏng bét, nhị sư ca của ta tới rồi. Hồi nhỏ chỉ có một mình hắn
đối tốt với ta. Ta… ta đi đây. Hắn thấy ta khóc mắt sưng thành thế này nhất định…
nhất định sẽ cười ta chết mất. Tối nay ta vào cốc tìm chàng”, nói xong, loáng
cái đã không thấy đâu nữa.
Lúc thanh niên áo xám tới trước bàn, Hà Y đã mất tăm mất
tích.
Người này dáng cao, anh tuấn, lưng đeo trường kiếm, gật đầu
với Mộ Dung Vô Phong, cười nói: “Sao sư muội mới thấy tôi thì lại chạy rồi?”.
“Cô ấy nói có việc gấp”, Mộ Dung Vô Phong bao biện cho nàng.
Người thanh niên thong thả, chắp tay vái một cái nói: “Công
tử nhất định là bằng hữu Hà Y từng kể. Tại hạ họ Vương, Vương Nhất Vĩ”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Mời ngồi. Tôi họ Mộ Dung”.
Thanh niên này tu dưỡng rất tốt, thấy Mộ Dung Vô Phong thân
hình tiều tụy, mặt mày tái nhợt, hai chân tựa hồ tàn phế, trong lòng thầm ngạc
nhiên nhưng trên mặt không biểu hiện thái độ gì hết.
“Mộ Dung huynh là người bản địa?”, Vương Nhất Vĩ hỏi.
“Ừm.”
“Đã mang họ Mộ Dung, chẳng hay liệu có quen biết thần y Mộ
Dung Vô Phong tiên sinh chăng?”
“Mộ Dung Vô Phong là ta, có điều hai chữ “thần y” thật không
dám nhận.”
Chàng vừa nói thế, Vương Nhất Vĩ lập tức kính cẩn đứng dậy,
nói: “Sớm đã nghe tiên sinh diệu thủ hồi xuân, y thuật quán tuyệt thiên hạ. Nhất
Vĩ nghe danh đã lâu, ngưỡng mộ vô cùng, bội phục không thôi”, nói xong vái dài
một vái.
Tuy vốn chẳng bao giờ để tâm tới mấy lời tán tụng kiểu này nhưng
thấy thanh niên này chân thành như vậy, Mộ Dung Vô Phong cũng đành vái trả một
lễ, nói: “Chẳng qua là hư danh thôi, hà tất phải ngưỡng mộ hay bội phục. Phải rồi,
Hà Y đã không ở đây vậy tôi xin thay cô ấy mời khách, công tử muốn gọi món
gì?”.
“Tại hạ không rành việc ăn uống, rượu ngon thì có thể uống mấy
chén.”
Mộ Dung Vô Phong giơ tay lên, Ông Anh Đường tất tả chạy lại
hỏi: “Cốc chủ có gì sai bảo?”.
“Đem rượu ngon tới.”
Tức khắc, một vò rượu ủ, mấy món nhắm tinh xảo được bưng đến
bàn. Ông Anh Đường rót đầy chén cho Vương Nhất Vĩ, nói: “Công tử, mời”.
Vương Nhất Vĩ một hơi cạn sạch, Mộ Dung Vô Phong thì chỉ nhấc
chén trà trên tay nhấp một ngụm nhỏ.
Mặn, chát. Chàng nhíu mày rồi chợt nhớ ra, trong chén này là
nước mắt vừa rồi của Hà Y.
Vương Nhất Vĩ hỏi: “Mộ Dung huynh sao không nếm một chút?”,
rồi đưa mắt nhìn theo Ông Anh Đường đang nhẹ nhàng lui đi.
Mộ Dung Vô Phong cười khổ: “Xin lỗi, bệnh còn chưa khỏi, tạm
thời chưa thể uống rượu”.
Vương Nhất Vĩ cười nói: “Không sao, tửu lượng của Hà Y rất tốt.
Lần sau Hà Y tới, để Hà Y thay huynh uống mấy chén”.
“Vừa rồi mấy vị sư huynh muội khác của cô ấy cũng tới. Có điều…
bọn họ tựa hồ đối với Hà Y…”, chàng lựa lời nói. Vương Nhất Vĩ tiếp lời: “Bọn họ
từ nhỏ đã không thích Hà Y. Dịp trước phụ thân tôi không được khỏe, tôi thường
phải xin về nhà, không chiếu cố được cho sư muội, chắc Hà Y đã phải chịu nhiều
thiệt thòi. Có điều tính sư muội cứng cỏi, trước giờ chưa từng khóc”, nói rồi
thở dài một tiếng.
“Hà Y… cô ấy không có cha mẹ, anh chị em sao?”, lưỡng lự một
lát, cuối cùng chàng cất tiếng hỏi.
“Về thân thế của mình, trước giờ sư muội không hề nhắc tới.
Trước đây tôi vẫn nghĩ rằng chỉ có sư phụ biết. Không ngờ có lần sư phụ lại hỏi
tôi. Đại khái là… có việc gì đó rất đau lòng. Sư muội kiên quyết không chịu
nói, tôi và sư phụ cũng không dám ép.”
“Lúc lệnh sư nhận cô ấy làm đệ tử, hẳn cô ấy còn rất nhỏ.
Đương thời, Trung Nguyên khoái kiếm nổi danh khắp thiên hạ, quy củ thu nhận đồ
đệ hẳn phải rất nghiêm ngặt. Hà Y nhập môn, ít nhiều cũng phải có người giới
thiệu, không lẽ lại không có chút manh mối nào?”
Vương Nhất Vĩ cười, nói: “Việc này nói ra cũng dài. Huynh muốn
nghe không? Nhưng nghe xong phải vờ hồ đồ không biết gì, nếu không Hà Y mà biết
được sẽ không tha cho tôi”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Huynh cứ yên tâm đi”.
“Việc này đối với người ngoài mà nói thì rất thú vị, nhưng nếu
huynh là Hà Y thì sẽ thấy chẳng thú vị chút nào cả. Tám năm trước, sư phụ dẫn mấy
sư huynh đệ chúng tôi tới Sơn Đông du ngoạn. Đến một trấn nhỏ, gặp một đứa bé
khoảng bảy tám tuổi trên phố chạy lại, người ngợm bẩn thỉu, cũng không rõ là
trai hay gái, nó va vào sư phụ một cái rồi chạy mất, không thấy đâu nữa. Con đường
ấy ồn ào, đông đúc, lúc đó bọn tôi cũng chẳng thấy có việc gì cả. Sư phụ đưa
tay sờ vào túi mới kêu không hay, thì ra túi tiền của người bị mất rồi. Mấy sư
huynh đệ chúng tôi, lúc ấy cũng chỉ mới mười hai, mười ba tuổi, vội chạy đuổi
theo. Hồi ấy bọn tôi đã theo sư phụ học võ công được sáu, bảy năm, khá tự phụ về
khinh công của mình, ai ngờ rõ ràng thấy đứa nhóc ấy ở trước mặt, vậy mà đuổi
trái, đuổi phải vẫn không bắt được. Sau rồi vẫn là sư phụ đuổi theo bắt được,
huynh đoán được không? Thì ra là một tiểu nha đầu, chỉ là đầu tóc trọc lốc, cả
đầu bị lở chốc. Nó đang mua một cái bánh rán, lúc sư phụ bắt được nó, trong miệng
nó vẫn đang cắn chặt cái bánh rán ấy.”
Mộ Dung Vô Phong ngầm than một tiếng, chỉ cảm thấy trong ngực
quặn đau, không thể không cúi đầu, đưa tay ôm ngực.
“Huynh… không được khỏe?”
“Không việc gì”, chàng miễn cưỡng mỉm cười, lấy từ trong người
ra một bình nhỏ, dốc ra vài viên thuốc rồi nuốt uống, nói: “Kể tiếp đi. Đầu nha
đầu ấy lở chốc, miệng cắn chặt bánh rán, rồi sao nữa?”.
“Sau đó sư phụ phát hiện nó còn mua tám con gà rán, đựng
trong một cái túi vải bẩn thỉu đã ngả màu đen. Sư muội, tên Trần Vũ Mông, lúc ấy
cũng ở đấy, vừa nhìn thấy mấy con gà rán còn vương dầu nóng hôi hổi lấy ra từ
trong cái túi bẩn thỉu nhường ấy thì kinh tởm tới mức nôn thốc nôn tháo. Có lẽ
Mộ Dung huynh không biết, gia sư cũng xuất thân nhà thế gia, vốn có sản nghiệp
to lớn, chỉ vì ông không quan tâm tới việc làm ăn, chỉ thích ngao du khắp nơi,
hành hiệp trượng nghĩa cho nên sản nghiệp to lớn cũng chẳng mấy chốc mà lụi bại
gần hết, chỉ còn lại một ngôi nhà lớn. Tuy chẳng có khoản thu nhập nào nhưng
người tiêu pha vẫn rất mạnh tay, cuối cùng đành thu nhận con cháu danh gia làm
đồ đệ, sống dựa vào khoản cung phụng hàng năm của gia đình họ. Mà trưởng bối trong
những gia đình có tiền ấy tất nhiên cũng không muốn con cháu mình thiệt thòi,
cho nên trên thực tế mọi người đều sống rất sung túc. Sư muội tôi còn có cả mấy
nha hoàn hầu hạ nữa. Lại nói, gia sư hỏi vị sư phụ bán bánh rán bên cạnh mới biết,
đứa bé gái suốt ngày chạy trên đường ấy gọi là một đứa ăn mày. Sư phụ thấy thân
thủ của nó rất linh hoạt, liền hỏi nó có muốn đi cùng chúng tôi không. Đứa bé
gái ấy chẳng nghĩ ngợi gì liền gật đầu luôn.”
Anh ta thoáng ngừng lại rồi nói tiếp: “Về đến nhà, mấy vị sư
huynh muội tự nhiên đều không thích nó. Một là, tuy đã tắm rửa rồi nhưng mấy chỗ
chốc lở trên đầu, khỏi rồi lại có, có rồi lại khỏi, trẻ con không biết gì nên cả
ngày cứ lấy nó ra làm trò cười. Hai là, nó không có danh phận, tự nhiên không
thể học võ công cùng bọn tôi, chỉ là được một bát cơm ăn, làm tạp vụ, sáng sớm
canh bốn thì dậy pha trà, đun nước rửa mặt cho cả nhà, giữa trưa tới chiều thì
giúp mấy vị đầu bếp ở nhà bếp nấu cơm, làm thức ăn, có lúc còn giúp sư huynh giặt
quần áo. Nó cũng thật thà, ai sai làm gì nó cũng không nói năng gì mà đi làm.
Nhưng sư muội dường như rất ghét nó, chê nó bẩn thỉu, không muốn nó chạm vào đồ
của mình, cũng không muốn nó giặt y phục hộ. Cứ thế qua một năm, mấy vết lở chốc
trên đầu nó cũng dần khỏi, tóc cũng dần mọc lại, nhưng cũng chỉ là vài sợi lơ
thơ, rất không bắt mắt. Có điều mọi người một ngày cũng chẳng gặp nhau được mấy
lần, chẳng ai quan tâm tới nó. Sư phụ lại thường ra ngoài, mỗi lần đi là đi vài
tháng. Mọi người hằng ngày trừ lúc luyện công thì lại nô đùa. Có một lần, mấy
ngày liền không thấy mặt nó còn cho rằng nó trốn rồi. Rốt cuộc tôi cũng hơi lo
lắng liền chạy tới phòng nó tìm mới biết nó ốm, sốt cao. Một mình nằm trên giường,
mấy ngày liền không ăn gì hết, cũng không có ai chăm sóc, tôi không đành lòng mới
lấy cho nó ít thuốc, ít đồ ăn, chăm sóc nó hai ngày. Sau khi nó khỏe lại thì đặc
biệt tốt với tôi nhưng quan hệ với sư tỷ thì càng ngày càng xấu. Từ nhỏ nó đã
không thích nịnh nọt người khác mà sư muội thì đã quen được sư phụ và các sư
huynh yêu thương cho nên không khỏi… không khỏi có chút làm nũng. Có lần sư muội
đánh mất một cái khuyên tai liền ngang ngạnh, khăng khăng nói do Hà Y lấy trộm
rồi lục tung phòng của nó lên, Hà Y cũng nóng tính, không chịu nhường lấy một
bước, lạnh giọng châm biếm, thế là hai người đánh nhau một trận. Sư muội thế
nào lại không đánh nổi nó liền chạy đi mách sư phụ. Sư phụ vẫn là người công bằng,
liền nghiêm khắc dạy bảo sư muội một hồi. Từ đó liền nhận Hà Y làm đồ đệ, cùng
mọi người ngày ngày luyện kiếm”.
“Không ngờ, Hà Y nhập môn muộn nhất, học lại giỏi nhất,
nhanh nhất, được sư phụ ưng ý nhất. Trong lòng mọi người không khỏi có chút
ghen tị, không phục. Sư muội lại càng luôn tìm cách nói móc Hà Y. Về sau này,
chỉ còn đại sư huynh là có thể miễn cưỡng đỡ được hai chiêu của Hà Y, những người
khác, bao gồm tôi, hoàn toàn không còn là đối thủ của Hà Y. Lúc ấy lại có tin dữ
truyền tới, sư phụ tỉ kiếm với Phương Nhất Hạc phái Nga My bị trọng thương, lúc
đưa về tới nhà thì chỉ còn thoi thóp. Trước lúc lâm chung, người gọi Hà Y vào gặp
mặt, nói gì đó với nó, nói gì thì về sau Hà Y cũng không hé răng lấy một chữ.
Chỉ biết lúc Hà Y ra khỏi phòng, sư phụ đã qua đời rồi mà cũng không hề giao
phó lại chuyện hậu sự của người. Trong phòng của sư phụ vốn có một kiếm phổ, là
tâm đắc về kiếm thuật bao nhiêu năm của người, người luôn muốn đem nó truyền lại
cho người thừa kế của mình, mọi người, đặc biệt là đại sư huynh đều nóng lòng
muốn học. Không ngờ lúc sư phụ qua đời, kiếm phổ kia cũng không thấy đâu nữa.
Sư muội liền mắng chửi Hà Y đã trộm kiếm phổ đi. Mọi người ồn ào một trận, Hà Y
một miệng khó địch bốn cái lưỡi kia, liền tức giận bỏ đi, từ đó không quay lại
nữa. Việc này là do tứ đệ kể cho tôi. Ba năm liền tôi đều ở bên ngoài, sau khi
sư phụ qua đời mới trở lại, lúc ấy Hà Y đã bỏ đi rồi. Có điều, sau này bọn tôi
cũng gặp nhau mấy lần, chỉ biết sư muội ở bên ngoài bôn ba tứ xứ mưu sinh, thật
cũng không dễ dàng gì, Hà Y lấy hiệu là “Độc hành tiêu”, so với người sư huynh
chẳng được việc gì, tên tuổi không có này còn nổi hơn nhiều. Gần đây bọn tôi có
gặp nhau, hỏi Hà Y giờ sống thế nào, sư muội nói mình được một vị bằng hữu kiêm
khách hàng chiếu cố, cũng rất tốt…”
Vương Nhất Vĩ nói liền một mạch, uống một ngụm rượu thì bên
ngoài có một cô gái bước vào ngó nghiêng. Vương Nhất Vĩ đỏ mặt, đứng dậy vỗ vỗ
vai Mộ Dung Vô Phong, nói: “Tại hạ phải đi rồi. Bên ngoài còn có một vị cô
nương đang đợi. Bao giờ rảnh sẽ lại tới thăm hai người”, đang định đi bỗng quay
đầu lại, nói: “Đúng rồi, Hà Y có một nhược điểm, huynh hãy đặc biệt lưu tâm”.
“Nhược điểm?”, đây là lần đầu tiên chàng nghe tới chuyện
này.
“Sư muội không thể chịu được việc nhìn thấy những con vật nhỏ
chết đi, chỉ cần nhìn thấy là phát bệnh.”
“Phát bệnh?”, Mộ Dung Vô Phong nghe thấy thì giật mình, hóa
ra nàng cũng có bệnh?
“Nơi trước đây bọn tôi ở thường có người tới chôn những đứa
bé sơ sinh chết yểu. Chỉ cần nhìn thấy là toàn thân sư muội run rẩy, nôn mửa
không ngừng như là gặp quỷ. Lúc nghiêm trọng thì thậm chí còn ngất đi, mấy tối
sau đó thì sợ hãi tới không dám ngủ. Sư muội cũng không thể chịu được việc nhìn
thấy mèo chết, chim chết, gà chết, thỏ chết, chuột chết. Tất cả xác chết của những
con vật nhỏ. Chỉ cần nhìn thấy là lập tức phát bệnh. Nhưng cũng lạ là, mấy thứ ấy
mà làm thành thức ăn đặt trên bàn thì chẳng sao cả. Cái gì sư muội cũng có thể
ăn. Hồi còn nhỏ, mấy sư huynh muội lúc muốn trêu chọc Hà Y thì đều ném chim chết
vào phòng Hà Y.”
Nghe tới đây, tim Mộ Dung Vô Phong lại bắt đầu quặn đau.
“Cho nên chắc huynh cũng phát hiện ra, lúc Hà Y đi đường thường
rất nghênh ngang. Ấy là vì sư muội vốn không dám đưa mắt nhìn xuống dưới đất.”
“Bây giờ cô ấy vẫn như thế?”, Mộ Dung Vô Phong thở dài, hỏi.
“Sao lại không? Lần trước gặp Hà Y, cao hứng quay đầu phóng
ngựa tới chỗ sư muội, kết quả là không cẩn thận để ngựa đạp chết một con gà, để
Hà Y nhìn thấy thế là không nói năng gì, nhảy xuống ngựa, chạy thẳng vào rừng
nôn thốc nôn tháo, cả người run cầm cập. Tôi khuyên mãi nhưng sư muội thà chết
cũng không chịu đi con đường ấy nữa, thà đi đường vòng xa hơn. Huynh nói xem,
liệu có phải trúng tà rồi không?”
“Có lẽ hồi còn nhỏ, có người từng đem những thứ ấy dọa Hà
Y”, Mộ Dung Vô Phong nghĩ ngợi rồi nói.
“Ha ha, cho nên tôi mới nói, hai người ở với nhau là hợp nhất,
huynh là đại phu, nhất định có thể chữa khỏi cho sư muội. Xin lỗi, tôi phải cáo
từ rồi.”
Mộ Dung Vô Phong cười nói: “Có thời gian xin tới Vân Mộng cốc
chơi. Gặp được huynh, Hà Y nhất định sẽ rất vui”.
Vương Nhất Vĩ vái một cái rồi đi.
Đêm tới.
Đèn mới thắp, đèn lồng dọc hành lang khẽ đung đưa trong làn
gió đêm.
Vừa về tới cốc, Mộ Dung Vô Phong mê man chìm vào giấc ngủ.
Ngồi ở Thính Phong lâu lâu như thế, lại thêm đi đường mệt nhọc sớm đã làm chàng
không chịu nổi.
Chàng mơ mơ màng màng ngủ suốt mấy canh giờ, cuối cùng mới từ
từ tỉnh lại, nghe thấy tiếng nước chảy, sau đó phát hiện mình đang ngồi trong một
ao nước.
Nước nóng, bốn bề tối om.
Ánh trăng ngoài song mờ mờ ảo ảo rọi vào. Trong làn nước, có
một bàn tay đang ôm eo chàng, tay kia cầm một chiếc khăn khẽ nhỏ nước lên vai
chàng.
Tay của chàng không tự chủ sờ vào người ngồi bên cạnh đang nửa
tựa, nửa ôm mình. Tay chàng vừa chạm vào làn da nàng liền như bị điện giật co lại.
“Tỉnh rồi à?”, âm thanh quen thuộc cất lên bên tai chàng.
Trong bóng tối, chàng khẽ gật đầu, mặt có chút đỏ lên.
Bàn tay kia nhẹ nhàng vuốt lên vết thương trên vai chàng,
nói: “Vết thương của chàng sao lại lâu lành đến vậy? Đây là vết thương hai
tháng trước rồi, sao giờ vẫn còn sưng?”.
Chàng thoáng nghĩ rồi hỏi: “Hà Y, nàng tới từ lúc nào vậy?”.
“Trời vừa tối là tới rồi. Chàng ngủ như chết ấy. Ta ngồi bên
giường rất lâu, thấy chàng cả người đầy mồ hôi mới… giúp chàng tắm rửa.”
“Khó khăn lắm nàng mới tới đây một lần, việc phiền hà như thế
này, nàng… nàng không cần làm”, chàng yếu ớt nói.
“Ta thích làm, với lại không phiền chút nào”, bàn tay nàng đỡ
trán chàng, giúp chàng ngả đầu xuống, bắt đầu gội đầu cho chàng.
Chàng buông tay xuống, trong làn nước, liền chạm vào chân
nàng, đôi chân đẹp đẽ mịn màng.
“Hà Y… nàng… tại sao cũng không mặc gì?’
“Ở trong phòng tắm lại còn muốn mặc đồ sao?”, câu này nói ra
làm chàng hoàn toàn á khẩu.
Cả người chàng vô lực, đành để mặc nàng giúp mình lau rửa
toàn thân.
“Bọn họ nói, nước nóng trong phòng tắm này có thể trị được
chứng phong thấp của chàng. Bọn ta cứ ở trong này ngâm mình một chút”, nàng vui
vẻ nói.
“Sao không thắp đèn? Nàng chưa từng tới chỗ này, tối om như
vậy, cẩn thận kẻo ngã”, chàng nói.
“Chê khinh công của ta kém hả?”, bàn tay nàng vươn tới, té
nước lên mặt chàng nói: “Chàng đang ngủ, thắp đèn lại chẳng đánh thức chàng
à?”.
Mộ Dung Vô Phong thoải mái tựa lên người Hà Y.
“Bọn họ bảo, từ lúc chàng từ thôn nọ về liền ốm tới tận giờ”,
nàng than một tiếng, nói: “Thảo nào chàng gầy tới nước này”.
“Hiện giờ khỏe hơn nhiều rồi”, chàng vội dỗ dành nàng.
“Khỏe cái gì? Không khỏe chút nào. Nửa chút cũng không khỏe.
Có phải thuốc họ đưa đến, chàng đều đổ đi hết không?”
“Có uống một chút”, chàng thật thà nói.
Hà Y ôm chàng lên, lấy một tấm chăn lớn phủ lấy cả người
chàng rồi đặt chàng nằm lên cái giường mây nhỏ kế bên, giúp chàng lau khô người,
rồi dùng một tấm chăn dày khác cuộn chặt lấy chàng.
“Có lạnh không?”, nàng vuốt ve mặt chàng, hỏi. Bản thân cũng
nhanh chóng khoác lên người một tấm áo ngủ.
“Không lạnh.”
Nàng kéo tay chàng ra khỏi chăn, nói: “Bây giờ sẽ cắt móng
tay cho chàng, móng tay chàng dài rồi”.
Cũng không biết nàng đang dùng thứ vũ khí gì, hình như là một
con dao nhỏ sắc bén, nàng giữ lấy ngón tay chàng, trong bóng tối bắt đầu cắt gọt.
Ngón tay chàng đặt trong tay nàng cực kỳ thoải mái, cực kỳ vững
vàng.
“Không sợ ta bất cẩn cắt mất đầu ngón tay chàng sao?”, Hà Y
cười hỏi.
“Kiếm thuật của đồ đệ Trung Nguyên đệ nhất khoái kiếm lại có
thể kém đến thế sao?”, chàng cũng cười.
“Sau này ngón tay của chàng hoàn toàn giao cho ta rồi”, nàng
vui vẻ nói.
Cắt xong móng tay, nàng lại đưa tay vào chăn kéo một chân của
chàng ra.
Mặt chàng đỏ lên.
Hà Y nhẹ nhàng vuốt lên cẳng chân yếu ớt của chàng, hỏi:
“Chân của chàng thật sự không có chút cảm giác gì sao?”.
Tay của nàng đặt lên mắt cá chân chàng, hỏi: “Giờ tay ta
đang đặt ở đâu?”.
“Đầu gối?”, chàng đoán bừa.
“Thế này thì sao?”, tay nàng chợt nóng lên, cuối cùng chàng
cũng có chút cảm giác cực kỳ mơ hồ. Tiếp đến là một cơn đau nhói. Cả người chàng
không kìm được mà run lên.
“Xin lỗi, ta quên khớp của chàng còn đang sưng, đau lắm phải
không?”, tay của nàng dịu dàng ôm lấy bàn chân chàng, giúp chàng cắt móng chân.
Chân của chàng trước giờ chưa từng đi lại, mềm mại hệt như của
trẻ nhỏ.
“Không sao”, chàng nhẹ giọng nói.
Nàng nhanh chóng làm xong mọi việc, ôm lấy chàng đứng dậy,
đi qua mấy gian phòng, đem chàng tới giường ngủ. Phòng ngủ cũng tối om. Hà Y ôm
chàng, đi chân trần trên thảm, không hề phát ra âm thanh, một tiếng động cũng
không có.
“Có muốn thắp nến lên không?”, hai người cùng nằm vào trong
chăn, Hà Y hỏi.
“Không cần, tối om thế này vừa hay”, chàng từ tốn trả lời.
“Thế nào gọi là tối om thế này vừa hay?”, nàng bật cười hỏi.
“Lúc tối om chính là lúc thích hợp để làm việc xấu”, chàng
vươn tay nâng cằm nàng, hôn nàng.
Tim Hà Y đập nhanh, không sao tự chủ được mà ôm chặt lấy
chàng.
“Vô Phong, lần này, liệu chàng có phát bệnh không?”, nàng có
chút lo lắng ôm lấy eo chàng, còn tay của chàng đã bắt đầu làm loạn rồi.
“Ta không thể đen đủi tới mức ấy chứ?”, chàng đã hưng phấn
không sao kiềm chế được.
Trong bóng tối, hai người khẽ hổn hển.
“Hà Y, nàng có vui không?”, chàng toàn thân đẫm mồ hôi hỏi
nàng.
“Vui…”
“Hà Y, buông tay ra…”
“Không được, tim chàng đập mau quá, ta phải giữ huyệt “Huyền
Khu” của chàng, lỡ ra…”
“Lúc này rồi, nàng đừng có luyện công có được không?’, chàng
đẩy tay nàng ra.
“Không được, ta lo. Ta… sợ chàng xảy ra chuyện”, tay của
nàng lại đặt lên huyệt đạo.
“Hà Y, ta không sao đâu”, chàng lại cúi xuống hôn nàng.
“Đáp ứng với ta, đợi sau khi ta chết chàng mới được chết”,
thân thể nàng áp chặt vào người chàng, nước mắt bỗng tuôn ra.
“Hà Y, chúng ta sẽ sống rất lâu, rất lâu.”
Hai người ôm chặt lấy nhau, đợi cho mồ hôi dần khô đi. Ánh
trăng ngoài cửa sổ hắt bóng cây lên tường.