“Cứ xuôi theo phía tây con sông, cô nương nhất định sẽ thấy
ngọn núi đó. Đấy không phải là ngọn núi cao nhất trong vô số ngọn núi men theo
ngàn dặm ven sông mà còn là ngọn núi đẹp nhất. Tựa như một vị thần đang cúi đầu
say ngắm dòng sông”, thuyền phu vừa khua chèo vừa trò chuyện với Hà Y.
“Lẽ nào đây chính là đỉnh Thần nữ trong truyền thuyết?”
Thuyền phu gật đầu: “Đúng là nó. Lão chèo thuyền trên sông
này đã bốn mươi năm, ngắm nhìn nó đã vài ngàn vài vạn lần, nhưng vẫn không thấy
chán. Chính là bởi mỗi ngày trong năm, hay mỗi thời khắc trong ngày, tâm tình của
núi lại mỗi khác”.
“Núi mà cũng có tâm tình?”
“Cô nương xem cây xanh, hoa hồng trên đỉnh núi chẳng phải
tóc của nàng sao? Cây có lúc xanh lúc khô, hoa có khi tàn khi héo, một năm bốn
mùa, tóc mai của nàng đều có đổi thay. Lại còn mây mù lưng chừng núi nữa, mỗi
thời khắc đều có thể từ đỉnh núi mà chậm rãi ùa đến, vào mùa mưa, mây mù từ
chân núi bốc lên, lại chẳng là y phục của nàng sao? Trên núi còn có hai hang động,
bên trong tuy có tổ ưng và vô số dơi, nhưng há không giống đôi mắt của nữ thần
sao? Đôi lúc cô nương còn có thể thấy nàng khóc, chính là khi hắc ưng từ tổ bay
xuống, ở xa trông lại, tựa như thần nữ đang thương tâm rơi lệ.”
“Bên kia núi là nơi nào?”
“Vân Mộng cốc. Chẳng lẽ cô nương chưa từng nghe qua câu ‘Vu
Sơn, Vân Mộng, Thần y Mộ Dung’?”
“Đương nhiên đã từng nghe qua, tôi chính là muốn đến nơi ấy.”
“Trước mắt đã là Thần Nông trấn. Phàm những người muốn tới
Vân Mộng cốc, trước tiên đều phải đi qua Thần Nông trấn.”
Thu chưa rõ hẳn, lá cây mới ngả vàng, hàng cây phong ven
sông thỉnh thoảng lại rụng lá, mưa lất phất đan xen như xe chỉ. Hà Y xuống thuyền
lên bến, đã thấy cơn gió lạnh lặng lẽ lay rụng một nhánh hải đường bên cửa sổ một
tửu lâu, những đóa hoa màu phấn hồng đã khô héo ngả màu vàng sáng, phiêu phiêu
phất phất rơi xuống, lượn trong mưa gió vài vòng rồi đáp xuống áo nàng.
Con đường dưới chân hoàn toàn xa lạ, thế mà sao cảm thấy
quen thuộc nhường này.
Cũng là cảnh không sao nhìn rõ bến buôn bờ nọ, bụi hoa khóm
lá bên quán rượu đung đưa. Cũng là cảnh người người tụ tập nhộn nhịp, khách qua
đường vẻ mặt hấp tấp vội vàng. Đây chỉ là một trấn nhỏ trong địa vực núi Ngạc
Tây nhưng lại phồn hoa tấp nập, huyên náo không kém gì một thành thị. Vừa xuống
thuyền, Hà Y liền trông thấy một con đường lát đá xanh sạch sẽ, thẳng tắp chỉ ở
những thành thị lớn mới gặp được. Phố xá rộng rãi, nhà cửa đối nhau, hàng quán
san sát, tửu lâu như nấm. Người đi đường phần nhiều là những khách phong trần
lang bạt từ nơi khác tới, kể cả hàng nhỏ ven đường cũng đều vang lên những khẩu
âm khác nhau, người tăng kẻ giảm, cò kè mặc cả.
Nhìn con đường nhộn nhịp nhường ấy. Hà Y tự nhiên cũng cao hứng
trở lại.
Tâm tình một người lại liên quan tới sự tấp nập của con đường,
đây thực là một việc kỳ lạ hiếm gặp.
Tuy nhiên, trong thế giới của Hà Y, đường phố là nơi thân
quen nhất.
Nàng cứ mơ màng đứng nơi bến thuyền, suy nghĩ xem tới Vân Mộng
cốc nên theo hướng nào thì bỗng thấy một người từ lối nhỏ đi về phía nàng. Người
vừa đến mặc một chiếc áo trắng được may rất khéo, thân hình có chút đẫy đà,
trên đai lưng rộng còn đeo một vòng khóa phát ra những tiếng lanh canh theo mỗi
bước đi; người này trông có vẻ rất tinh anh, phú quý, lời ăn tiếng nói cũng rất
ôn hòa, thân thiện: “Xin hỏi đây phải chăng là Sở cô nương?”.
Hà Y ngạc nhiên hỏi: “Các hạ là?”.
Người áo trắng nhã nhặn chắp tay, khẩn khoản thưa: “Tại hạ
là Quách Tất Viên, là Tổng quản Vân Mộng cốc. Hôm mùng Chín, Triệu Tổng quản có
nhận được tin tức của cô nương, chúng tôi tính, nếu như cô nương lên đường ngay
ngày hôm đó, ắt hôm nay hoặc ngày mai là có thể đến đây. May là bến thuyền ở Thần
Nông trấn này không nhiều”.
Hà Y không kìm được hỏi: “Hằng ngày người xuống thuyền nơi bến
này nhiều như vậy, Quách tiên sinh làm sao biết được tôi chính là người ngài đợi?”.
Quách Tất Viên khẽ cười nói: “Tuy nơi đây người xuống bến
đông, nhưng nữ giới mang theo binh khí lại không nhiều, thanh Ngư Lân Tử Kim kiếm
của cô nương hình dáng đặc biệt, đứng hàng thứ mười trong Binh khí phổ, tại hạ
vừa may nhận ra được”.
Tổng quản của Vân Mộng cốc quả nhiên có con mắt tinh tường,
nhìn một cái đã có thể nhận ra lai lịch binh khí đeo bên hông Hà Y.
Hà Y khẽ nghiêng người biểu lộ khâm phục.
Quách Tất Viên chắp tay nói: “Mời cô nương lên xe”. Ông ta vừa
vẫy tay, một chiếc xe bốn ngựa kéo không biết từ nơi nào phóng tới, vừa khéo dừng
lại trước mặt hai người. Trong số ngựa kéo rất ít tuấn mã nhưng đều được huấn
luyện bài bản. Quách Tất Viên khách khí mở cửa xe cho Hà Y rồi khom người theo
nàng vào xe.
Khoang xe rất rộng rãi, sang trọng đến mức gần như xa xỉ. Thảm
dưới chân là da hồ quý hiếm, đệm ngồi và đệm tựa thoải mái mềm mại, được may
nguyên bằng chỉ Thiên Mã tuyền một màu anh đào không pha tạp, trên đệm thêu cỏ
thụy[1], hạc tiên, hoa mẫu đơn như ý, đường thêu tự do phóng túng, sống động hệt
như thật. Trong góc còn có mấy cái đôn bọc đệm thêu để kê chân. Một lư hương trầm
có hình mình hạc sừng hươu đặt bên cửa sổ, sừng hươu rỗng, hương trầm u nhã tỏa
ra từ đó. Miệng hươu ngậm một đĩa đèn Lưu Ly Liên Hoa, đang là ban ngày nên nến
chưa được thắp, bên dưới đĩa đèn treo chuỗi ngọc ngũ sắc, tùy theo sự di chuyển
của thân xe mà nhẹ nhàng va vào nhau, tinh tinh tang tang vui tai hệt như tiếng
nước nhỏ tí tách.
[1] Cỏ thụy: Thời cổ đại coi cỏ thụy là loài cỏ tượng trưng
cho điểm tốt, giống như linh chi hoặc cỏ minh giáp. Thụy thảo còn gọi là tiên
thảo (cỏ tiên).
Y phục trên người Hà Y đẫm mồ hôi. Đôi hài dưới chân cũng lấm
bùn. Toàn thân trên dưới quả thật có sự tương phản với cách bài trí trong xe.
Chỉ là dáng vẻ của nàng vẫn rất thư thái, tự nhiên; khuôn mặt
trước sau luôn điểm một nụ cười nhẹ.
Quách Tất Viên nở nụ cười, rót một tách trà đưa đến cho nàng
nói: “Cô nương một mạch đi từ miền tây bắc đến đây, dọc đường nhất định rất vất
vả, chúng tôi đã chuẩn bị một căn phòng tốt tại Đình Vân quán, nước nóng để tắm
và cơm trưa cũng đều được chuẩn bị ổn thỏa, cô nương đến nơi là có thể lập tức
tắm rửa thay y phục, ăn cơm trưa rồi nghỉ ngơi một chút”.
Hà Y nhấc tách trà, nhấp một ngụm rồi nói: “Đình Vân quán?”.
Quách Tất Viên cười và giải thích: “Cô nương trước giờ chỉ
hành tẩu ở phương bắc, chắc đây là lần đầu tiên đến Thần Nông trấn? Đình Vân
quán là nơi tiếp khách của Vân Mộng cốc. Những người tới đây cầu cứu chữa bệnh
phần lớn chỉ có thể ở lại Thần Nông trấn, bởi vì trong trấn có mười mấy y quán
thuộc Vân Mộng cốc, tiệm bán thuốc lại càng nhiều không đếm xuể. Các đại phu
tuy không ít người ở trong Vân Mộng cốc nhưng phần lớn thời gian đều rời cốc đến
y quán của mình trong trấn chữa bệnh. Cho nên chỉ có những bệnh nhân mà các đại
phu trong trấn bó tay không chữa nổi mới có thể tiến vào cốc chữa trị. Những
người có thể coi là khách của Vân Mộng cốc, trước nay đều đến nghỉ ở Đình Vân
quán. Ngoài ra, những vị khách tới thăm bạn bè có lúc cũng ở lại chỗ đó”.
Vừa dứt lời, xe ngựa cũng dừng lại, Hà Y xuống ngựa, một tòa
nhà lớn sừng sững hiện ra trước mắt.
“Chừng nào tôi có thể gặp được Triệu Tổng quản?”.
Quách Tất Viên cho nàng biết, chức trách của mình chỉ là tiếp
đãi khách, còn công việc cụ thể đều do Triệu Tổng quản quản lý.
“Việc này… nếu như cô nương muốn gặp, bây giờ có thể gặp. Vừa
may Triệu Tổng quản cũng đang ở Đình Vân quán. Chỉ là cô nương đi đường vất vả,
tại hạ nghĩ nên nghỉ ngơi một chút thì tốt hơn.”
Nước trong bồn tắm ấm vừa phải, lại có những đóa hoa mang
mùi hương khác lạ. Đối với những người vừa bôn ba dặm đường đã thấm mệt mà nói,
thật là không có gì giải tỏa tốt bằng ngâm mình trong nước nóng. Vừa thay xong
một bộ đồ mới, sạch sẽ thoải mái từ đầu tới chân thì một bé gái vận áo hồng
bưng vào ba món xào trông rất ngon, một bát canh măng gà và một tô cơm.
Thức ăn hiển nhiên là rất nhiều, dù Hà Y có ăn ngon miệng đến
mấy cũng không thể ăn hết nhiều như vậy được.
Xem ra việc chiêu đãi khách của Vân Mộng cốc cũng vào hạng
nhất.
Nàng đang rất đói, không nghĩ ngợi nhiều, cầm đũa lên là như
rồng như hổ ăn tới.
Bé gái đứng bên cạnh nhìn nàng, lúc đầu còn len lén cười trộm,
sau cùng không nhịn được nữa mà bật cười khanh khách. Rồi tựa như cảm thấy không
nên cười, vội vàng bặm môi lại.
Hà Y ngẩng đầu nói: “Tiểu nha đầu sao lại thấy buồn cười? Lẽ
nào trước giờ chưa từng thấy ai ăn cơm?”.
Cô bé lại càng buồn cười, nói: “Cháu cười là bởi cô nương là
người ăn nhanh nhất trong số các vị khách mới đến mấy ngày nay. Những vị khách
khác lúc ăn cơm trước tiên đều ngắm nghía kỹ lưỡng các món, hỏi han tên gọi của
chúng rồi mới chậm rãi thưởng thức. Ấy là bởi chúng đều do Tôn Chưởng quỹ của
Thần Lai các đích thân làm, người bình thường đều không có cơ hội thưởng thức.
Như đĩa ‘Tùng Thử Quyết Ngư’ cô nương vừa ăn được liệt vào hạng nhất của Thần
Lai các. Làm được món này, trong vòng mấy trăm dặm quanh đây cũng chỉ có một
mình Tôn Chưởng quỹ thôi”.
Cô bé nói thế, Hà Y cảm thấy rất ngượng ngùng, chỉ hận không
thể đem những thứ mình vừa ăn nôn hết ra mà nghiên cứu lại một lượt. Ngay cả bản
thân rốt cuộc vừa ăn những gì, nàng vốn chẳng để tâm đến. Chỉ nhớ mang máng có
ăn một con cá, vài miếng nấm Ma Cô, mỗi thế thôi.
Hà Y đành cười cười: “Nha đầu tuổi còn nhỏ như thế mà hiểu
biết về việc bếp núc thật không tầm thường”.
Bé gái được nàng khen như thế, đôi má cũng hồng lên, lắp bắp
hồi lâu mới nói: “Cũng không có gì đâu ạ, tên cháu là Tôn Thanh, Tôn Chưởng quỹ
là cha cháu”.
Hà Y nói: “Mấy năm nữa ta quay trở lại, có lẽ có thể ăn món
Tùng Thử Quyết Ngư do chính tay cháu nấu rồi”.
Nàng nghĩ ngợi một chút rồi chợt hỏi: “Cháu vừa nói, mấy
ngày nay còn có những vị khách khác tới đây?”.
Tôn Thanh gật đầu: “Vâng ạ. Họ đến nhanh đi cũng nhanh. Ngắn
nhất thì chỉ ở đây tới qua trưa. Nhưng mà bữa cơm đầu tiên họ ăn tại đây đều do
cha cháu nấu cả”.
Hà Y nói: “Cháu có biết tổng cộng có bao nhiêu người đến đây
không?”.
“Trước sau có khoảng mười ba vị. Cha cháu làm món Tùng Thử
Quyết Ngư mười ba lần, làm cho cô nương chính là lần thứ mười bốn đấy. Cha nói,
trong cốc có khách quý Triệu Tổng quản mới phải mời người đích thân xuống bếp.
Cho nên người bảo cháu phải hầu hạ cô nương cho tốt.”
Hà Y nghe xong khẽ cười rồi nói: “Có thể phiền cháu giúp ta
chuyển lời tới Triệu Tổng quản, hỏi ông ấy xem giờ ta có thể đến gặp ông ấy được
không?”.
Cô bé gật đầu, nhanh chân chạy đi, qua một hồi rồi trở lại
thưa: “Triệu Tổng quản nói, nếu cô nương cảm thấy thuận tiện, hiện ông ấy đang ở
phòng số Ba nhà chữ Huyền[2] đợi cô nương”.
[2] Những ngôi nhà hoặc gia trang lớn của Trung Quốc thường
có nhiều cách đặt tên từng dãy nhà để tiện phân biệt. Ở đây nhắc tới nhà chữ
Huyền. Huyền là màu đen, tượng trưng cho Thủy trong ngũ hành, vị ở phương bắc.
Nhà chữ Huyền tức dãy nhà phía bắc.
Có vẻ như phòng số Ba là nơi chuyên dùng để tiếp khách.
Lần đầu tiên Hà Y gặp mặt Tổng quản Vân Mộng cốc Triệu Khiêm
Hòa. Trông người này tuổi chừng năm mươi, cũng mang vẻ nho sĩ như Quách Tất
Viên, có điều dáng người cao hơn khá nhiều. Thái độ của Triệu Khiêm Hòa tựa hồ
rất nghiêm nghị, không có vẻ thân thiện của Quách Tất Viên, trên mặt tuyệt
nhiên không biểu hiện gì, nói năng cũng rất khách khí: “Sở cô nương, xin mời ngồi,
mời dùng trà. Đây là trà từ Nha sơn mới đem tới, tôi cho rằng trà này so với Ô
Chủy Hương của đất Thục thì uống hay hơn”.
Sở Hà Y cười đáp: “Đa tạ”.
Ngô Tăng mạn thuyết Nha sơn hảo,
Thục tấu hưu khoa Ô Chủy hương[3]
(Sư Ngô thì nói Nha Sơn tuyệt,
Giả Thục lại khen Ô Chủy thơm.”
[3] Trích bài Hiệp trung thường trà của Trịnh Cốc thời Đường,
nguyên văn hai câu trên: 吴僧漫说鸦山好,蜀叟休夸鸟嘴香。
Trên thị trường, hai loại trà này đều cực kỳ nổi tiếng và đắt
đỏ, vài lượng bạc mới mua được một lạng. Trước nay nàng chưa từng nếm qua,
không phân biệt được giữa chúng có điểm gì khác nhau. Thứ trà mà Hà Y hay uống
nhất không gì ngoài hồng trà phổ thông ngoài quán cơm.
Triệu Khiêm Hòa nói: “Lần này cô nương đến chắc là vì việc
kia, vậy chúng ta cũng không hàn huyên thêm nữa. Xin nói thật, vừa rồi đã có mười
mấy vị cao thủ lần luợt đến rồi. Tất cả đều là do tôi và mấy vị tổng quản khác
tốn vài tháng trời mới tìm được. Chỉ là không vừa lòng cốc chủ”.
Sở Hà Y nói: “Xem ra việc lần này nhất định rất khó khăn, nếu
không quý cốc chủ đã không kỹ càng đến thế”.
Triệu Khiêm Hòa cười khổ: “Tâm tình cốc chủ chẳng ai đoán nổi,
chúng tôi là phận thuộc hạ, chỉ có thể tuân lệnh mà làm việc thôi. Chẳng qua
ngài nói không thích hợp, đương nhiên cũng có cái lý của ngài”.
Sở Hà Y không nhịn được bật hỏi: “Là vì lý do gì vậy?”.
Triệu Khiêm Hòa lắc đầu: “Chúng tôi cũng không biết. Ngài chỉ
nói một câu không hợp. Hại chúng tôi phải vòng vo giải thích với các vị kia”.
Sở Hà Y cười nói: “Nếu như cốc chủ nói tôi không hợp, Triệu
Tổng quản cũng không cần tốn công giải thích gì đâu, tôi trực tiếp rời đi là được”.
Nghe nàng nói vậy, trên mặt Triệu Khiêm Hòa hiện ra nét cười,
nói: “Cô nương có thể hiểu cho như thế thì tốt quá rồi. Tôi chỉ không muốn khiến
người khác thất vọng. Nói thẳng ra, việc lần này rốt cuộc là gì, đến tôi cũng
không biết. Chỉ biết cốc chủ muốn tìm một người thay ngài điều tra một việc. Tiền
công, trước trả sáu nghìn lượng, xong việc lại thêm gấp năm lần. Tổng cộng cũng
tới ba vạn sáu ngàn lượng bạc”.
Nàng từ tốn đáp: “Tin này đã truyền khắp giang hồ, tôi nghĩ
sau này những người tới tìm tổng quản sẽ liên miên không hết, quý cốc chủ chắc
chắn không lo tìm không ra người thích hợp”.
Triệu Khiêm Hòa hắng giọng, không tán thành mà cũng không phản
đối đáp: “Chúng tôi chỉ tìm những người chúng tôi cảm thấy có thể tin tưởng được,
những người như thế trên giang hồ tuyệt không nhiều”.
“Vậy
sao chúng ta không đi luôn bây giờ?”
“Nếu
cô nương vẫn còn tinh thần, vậy xin mời theo tôi vào cốc. Vừa hay chiều nay cốc
chủ có thời gian.”
Xe ngựa đi trong sơn đạo tựa hồ rất lâu. Sau khi tiến vào một
cánh cửa lớn, lại phải đi thêm gần nửa giờ mới dừng lại. Đánh xe là một người
trẻ tuổi nhanh nhẹn, chóp mũi đỏ hồng, trong ấn tượng của Hà Y những người như
thế thường nói rất nhiều mới đúng, nhưng người này suốt dọc đường không nói một
lời. Chỉ mỗi lúc dừng xe mới hô “hu[4]” một tiếng. Triệu Khiêm Hòa xuống xe trước,
mở cửa giúp nàng, sau đó nàng nhẹ nhàng bước xuống. Nhìn kỹ một lượt, nơi đây
là cổng của một trang viện, chỉ thấy cửa đang đóng chặt, bên trên hoành phi viết
ba chữ mà nàng còn may vẫn nhận ra được, “Trúc Ngô Viện”.
[4] Khẩu lệnh để ngựa dừng lại.
Đẩy cửa tiến vào, trong viện hương hoa sen thơm nức, bóng
trúc um tùm, chim hót thánh thót, gió nhẹ hiu hiu. Hành lang ngang ngang dọc dọc
nối liền với tòa thủy tạ bên cạnh hồ lớn phía xa xa. Đưa mắt trông xa, sóng biếc
trùng trùng, tựa như có thông ra sông lớn, ven bờ liễu rủ phơ phất, hoa cỏ khắp
nơi. Thế núi hai bên hồ lớn uốn lượn ẩn hiện, ở đó lại như có vô số thác suối,
hang động và mỏm đá hình thù kỳ lạ. Cảnh sắc tuy đẹp nhưng tĩnh mịch không một
bóng người. Hành lang lát đá Đại Lý còn khảm thêm đồng, sáng tới mức có thể soi
gương, sạch sẽ không chút bụi. Tay vịn và hàng ghế dọc bên đều được bọc lụa.
Hà Y không kìm được bật tiếng than: “Nơi đây thật đẹp”.
Triệu Khiêm Hòa cười nói: “Đây là nơi cốc chủ ở. Trang viện
rộng lớn, phòng ốc cũng nhiều, nhưng chỉ có một mình cốc chủ ở đây. Ngày thường
ngoài mấy người tổng quản chúng tôi có việc có thể vào bẩm báo còn thì những
người khác không thể tiến nhập”.
Hà Y cảm thấy có chút kỳ quái, người đã giàu có tới mức này,
đáng nhẽ phải nô bộc hàng đàn, thê thiếp đầy nhà mới đúng, liền nói: “Vậy hôm
nay tôi có thể được gặp cốc chủ tại đây há chẳng vinh hạnh lắm sao?”.
Triệu Khiêm Hòa cười khẽ: “Không nói tới vinh hạnh. Nhưng
trước nay cốc chủ thường không tiếp khách tại nơi ở của ngài. Mười mấy vị bằng
hữu lúc trước đều tiếp ở khách sảnh tại nơi khác. Tối hôm qua có một bệnh nhân
nguy kịch, bận rộn tới tận sáng nay, ngài có lẽ đã mệt rồi”.
Hai người men theo hành lang đi thẳng tới cửa một căn phòng
thì dừng lại. Triệu Khiêm Hòa nói: “Cô nương xin đợi một lát, tôi vào trước
thông báo một tiếng”. Được một lát Triệu Khiêm Hòa trở ra nói: “Sở cô nương,
xin mời vào”, bản thân thì đứng ngoài cửa, không tiến vào nữa.
Cửa phòng có treo rèm đỏ mành châu, cửa sổ ba mặt đều đang mở,
rèm cửa màu xanh nhạt gió thổi phơ phất. Trong phòng bày biện đơn giản, thanh
nhã lạ thường. Những thứ con người ít chú ý tới nhất cũng sạch sẽ không một hạt
bụi. Trên tường treo mấy bức tranh chữ, trong bình hoa gấm cao bốn thước có cắm
mấy cành hoa tím không rõ tên. Trên kệ sát tường, đặt mấy cái đỉnh cổ hình thù
kỳ lạ, thảm trải sàn màu đỏ tươi, mềm mại như tóc, bước đi không phát ra tiếng
động. Một chiếc bàn lớn bằng gỗ hồng tựa lưng vào tường phía bắc. Trên mặt bàn
là từng cuốn từng cuốn sách được đặt ngăn nắp chỉnh tề.
Ngồi đằng sau bàn là một nam nhân vận đồ trắng như tuyết.
Trông người này còn rất trẻ, chỉ độ hai mươi tuổi. Nam nhân
này tựa như không nên mặc đồ trắng như vậy, bởi vì sắc mặt anh ta vốn cũng nhợt
nhạt, trắng xanh. Trên khuôn mặt gầy tái ấy là đôi mắt đen thẳm. Có vẻ như trước
giờ người này chỉ sống trong sơn động, chưa từng tiếp xúc với ánh mặt trời.
Đó là một người anh tuấn mà nghiêm khắc. Mộ Dung Vô Phong ngồi
thẳng lưng trên ghế, thái độ lạnh lùng, ánh mắt sâu thẳm kỳ lạ, khi nhìn người
khác phảng phất mang đến một loại áp lực khó tả. Tựa như Mộ Dung Vô Phong ở
ngay đó chăm chú nhìn mình nhưng mình lại cảm thấy rất xa cách.
Trông thấy Hà Y tiến vào chàng không hề đứng dậy nghênh đón,
có vẻ không định hỏi thăm gì nàng. Mà trong căn phòng này cũng chẳng còn chiếc
ghế nào nữa.
Cứ đứng đấy để người khác dò xét, nhìn ngó, cảm giác của
nàng đương nhiên không dễ chịu. Nhưng nàng quyết tâm nhịn một chút. Để kiếm được
tiền, nàng có thể nhịn được.
Tuy nàng cảm thấy thái độ của Mộ Dung Vô Phong ngạo mạn,
nhưng nghĩ lại, người này đã thành danh từ nhỏ, nhất định là một thiên tài. Mà
tâm tính của thiên tài ắt có chút kỳ quái. Cho nên nàng ngênh đón ánh mắt lạnh
như băng của Mộ Dung Vô Phong, khẽ hé môi cười nói: “Xin chào, Mộ Dung tiên
sinh. Tôi họ Sở, tên là Hà Y. Là một kẻ bôn tẩu giang hồ, ngoại hiệu là ‘Độc
hành tiêu’[5]”
[5]. Tiêu trong chữ “bảo tiêu” người làm nghề hộ tống, bảo vệ.
Độc hành tiêu nghĩa là người hành nghề bảo tiêu nhưng chỉ làm việc một mình.
Vẻ mặt Mộ Dung Vô Phong chẳng mảy may thay đổi, cứ lặng yên
nhìn nàng, ánh mắt lướt khỏi mặt nàng rồi dõi về một nơi xa xôi nào đó. Qua một
hồi mới từ tốn nói:
“Đối
với việc trong giang hồ, trước nay tôi không tường tận lắm.”
Giọng nói của Mộ Dung Vô Phong trầm thấp, đến mức gần như yếu
ớt, nói cũng rất chậm, cứ như mỗi chữ nói ra đều rất phí sức.
“Thế
nào là ‘Độc hành tiêu’?”, chàng chầm chậm hỏi.
“Chính
là làm bảo tiêu, chỉ có điều luôn làm một mình mà thôi”, nàng cười nói, “Thực
ra việc tôi thường làm nhất là giúp người ta chuyển quan tài”.
“Chuyển
quan tài? Đó cũng là một nghề?”, Mộ Dung Vô Phong chau mày.
“Phải.”
“Nghe
nói võ công của cô rất cao. Ba tháng trước Lưu Trại chủ của Phi Ngư đường đến
đây, ba tháng sau thanh Ngư Lân Tử Kim kiếm của ông ta đã vào tay cô rồi”, Mộ
Dung Vô Phong nhìn thanh kiếm trên eo nàng, chầm chậm nói.
Hà Y nói: “Võ công cũng bình bình, tôi với Lưu Trại chủ tuy không
quen biết, nhưng thanh kiếm này đúng là do ông ta tặng tôi”.
“Vì
sao ông ta lại đem thanh bảo kiếm quý giá nhường ấy tặng cô?”
“Là
bởi vì ông ta đã thề đời này không dùng kiếm nữa. Ông ta thua tôi một chiêu, việc
này thực ra cũng chẳng có gì lớn. Chỉ bởi tôi là nữ nhân, ông ta cho rằng bại
dưới kiếm của nữ nhân là điều vô cùng nhục nhã.”
“Thảo
nào Triệu Tổng quản nhất định muốn mời cô tới. Trước giờ ông ấy vốn rất khâm phục
Lưu Côn.”
Câu này nói ra có vẻ rất tôn kính nhưng trên mặt Mộ Dung Vô Phong
lại chẳng lộ ra dù chỉ chút ít biểu cảm tôn kính nào, ngược lại ngữ khí còn ẩn
hàm một chút chế giễu.
“Tôi
cũng rất khâm phục Lưu Côn. Thực ra đối với những nam nhân như ông ta tôi đều rất
khâm phục.”
“Ồ?”
“Ông
ta bại dưới tay nữ nhân, lại làm ra vẻ không coi nữ nhân ra gì. Thái độ như thế,
tôi không muốn phục cũng không được.”
Mộ Dung Vô Phong hơi ngạc nhiên nói: “Câu nói này của cô
nương thật khiến tôi thấy đáng kính”.
Hà Y nói: “Không dám nhận”.
Mộ Dung Vô Phong nhấc bút, viết mấy chữ lên một tờ giấy.
Chàng viết bằng tay trái.
Viết xong Mộ Dung Vô Phong đẩy tờ giấy đến trước mặt Hà Y
nói: “Nhận tờ giấy này, cô nương có thể đến chỗ Triệu Tổng quản lĩnh sáu nghìn
lượng bạc. Hiện giờ tôi còn vài bệnh nhân nữa, giờ Tý hai khắc tối nay cô nương
hãy quay lại đây. Tôi sẽ nói kỹ lưỡng cho cô về việc cần làm”.
Hà Y cầm lấy tờ giấy, lòng tràn đầy nghi hoặc nhìn Mộ Dung
Vô Phong.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Cô còn việc gì khác?”.
“Không
có.”
“Cô
hiện đang ở đâu?”
“Đình
Vân quán.”
“Chuyển
vào Thính Đào Thủy Tạ đi. Như thế hôm nay cô nương không cần rời cốc nữa.” Nói
xong mấy câu ấy, ánh mắt Vô Phong hướng ra phía cửa. Ý tứ trong đó tuy không
nói thẳng ra nhưng Hà Y vẫn hoàn toàn hiểu rõ, chính là hai chữ “tiễn khách”.
Lúc Hà Y bước ra khỏi thư phòng của Mộ Dung Vô Phong, trong
đầu vẫn còn chút choáng váng. Triệu Khiêm Hòa vẫn đang đợi nàng ở cửa Trúc Ngô
viện. Trông thấy nàng thì vội hỏi: “Thế nào rồi?”.
Sở Hà Y đáp: “Được rồi. Đây là thủ bút của ngài ấy”.
Triệu Khiêm Hòa vui mừng nói: “Nói như vậy tức là việc kể
như đã quyết định rồi?”.
Hà Y đáp: “Mộ Dung tiên sinh nói, nhờ Triệu Tổng quản chọn một
phòng ở Thính Đào Thủy Tạ, tiện cho tôi không cần quay lại Đình Vân quán nữa”.
Triệu Khiêm Hòa kinh ngạc nói: “Thính Đào Thủy Tạ? Cô nương
sẽ ở đấy?”.
Sở Hà Y nói: “Sao vậy? Nơi ấy không tốt?”.
“Không
có gì không tốt cả, chẳng qua Thính Đào Thủy Tạ nằm trong khuôn viên Trúc Ngô
viện.”
Thủy tạ nằm bên hồ, đình tiếp khách và hành lang nối thông
nhau, trong phòng bày biện cực kỳ khác lạ. Chẳng qua Hà Y cũng chẳng quá để ý tới
nơi ở, bởi nàng biết dù mình ở đâu cũng đều không lưu lại lâu, cho nên đồ đạc
quần áo thu lại một chỗ, bước tới cho thêm một viên than vào lò rồi nàng bước
ra khỏi thủy tạ, tới ngồi bên lan can dọc hành lang.
Trước mắt là trăm mẫu hoa sen tàn úa, vầng tịch dương đang dần
chìm xuống đáy hồ. Nơi chân trời, bóng chim lác đác. Lúc hoàng hôn sắp tận,
ráng chiều thu lại ánh hồng nơi cuối chân trời, không gian bỗng nhiên tràn đầy
hương cỏ nước và hoa sen.
Triệu Khiêm Hòa tới đưa nàng đi ăn bữa cơm chiều thịnh soạn,
trò chuyện một lúc, trời đã tối hẳn. Hà Y dạo bước quay về phòng, cảm thấy xung
quanh thật yên ắng. Màn đêm vô biên tựa như cùng những dãy núi phía xa kia hòa
làm một. Tiếng sóng văng vẳng hòa với tiếng ếch kêu như ru người ta vào mộng,
thỉnh thoảng một tiếng chim đêm ngân dài lại khiến người ta chợt tỉnh. Hà Y ngồi
bên thủy tạ rất lâu, cho đến nửa đêm mới từ từ đứng dậy, thong thả đi đến thư
phòng của Mộ Dung Vô Phong.
Tất nhiên Mộ Dung Vô Phong đã ngồi trong phòng đợi nàng. Lần
này là chàng cất tiếng trước:
“Cô
nương đến rồi.”
Hà Y gật đầu.
Trong thư phòng không biết từ lúc nào đã có thêm một cái ghế.
Mộ Dung Vô Phong chỉ vào đó nói: “Mời ngồi”.
Hà Y ngồi xuống, lặng lẽ đợi nghe phân phó.
“Nghỉ
ngơi tốt chứ?”, chàng hỏi.
“Tốt.”
“Nói
như vậy chắc hiện giờ tinh thần cô nương đang rất tốt?”
“Phải
chăng hiện cốc chủ có việc muốn phân phó?”
Chàng gật đầu, đột nhiên lấy từ sau bàn một món đồ khá dài
đưa đến cho nàng. Hà Y đón lấy xem một lượt, đó là một cái xẻng sắt.
“Tôi
biết kinh nghiệm giang hồ của cô nương rất phong phú, không biết có kinh nghiệm
trộm mộ hay không?”
Hà Y liền nói: “Tuy hành tẩu giang hồ và trộm mộ là hai việc
khác nhau, nhưng trộm mộ chắc không quá khó khăn. Chỉ là làm việc ấy, có vẻ… có
vẻ…”.
“Có
vẻ làm sao?”
Hà Y nói: “Có vẻ hơi thất đức”.
“Cho
nên làm việc này đương nhiên không thể vào ban ngày, nhất định phải làm lúc nửa
đêm mới được. Không ai trông thấy thì đương nhiên sẽ chẳng ai bảo chúng ta thất
đức được nữa”, lúc nói câu này, mặt chàng chẳng đỏ lên tí nào, cứ như đây là một
lẽ đương nhiên, đã thế còn bổ sung thêm:
“Ngôi
mộ này nằm trong cốc, cũng không có ai giữ mộ. Cho nên chớ nói là không hề khó
mà có thể nói cực kỳ dễ dàng.”
Hà Y nghĩ một lúc rồi nói: “Đã dễ dàng như thế, tại sao cốc
chủ không tự mình đào lấy?”.
Nghe thấy câu này, Mộ Dung Vô Phong ngẩng đầu lên nhìn nàng,
tỏ ra rất ngạc nhiên. Qua một lúc mới từ tốn nói: “Đây là lần đầu tiên cô nương
tới Thần Nông trấn?”.
Hà Y gật đầu.
Mộ Dung Vô Phong lạnh nhạt nói: “Tôi vốn muốn tự mình đào.
Đáng tiếc bản thân là người tàn phế, chân của tôi không thể cử động”, lúc nói
câu này, trên mặt chàng chẳng có biểu hiện gì, cứ như đang nói về người khác.
Khuôn mặc của Hà Y lập tức đỏ bừng. Đây rõ ràng là sự thật
hiển nhiên ai cũng biết, ấy vậy nàng lại chẳng biết gì. Cái bàn lớn đã hoàn
toàn che đi phần thân dưới của chàng, nàng hoàn toàn không phát hiện ra được.
Nàng chỉ đành nói: “Đi thôi, ngài bảo tôi đào chỗ nào, tôi
đào chỗ ấy”.
Chàng ngồi trên một chiếc xe lăn tinh xảo, đôi tay đẩy hai
bánh xe, lùi người khỏi bàn, thư thả đi đến trước mặt nàng.
Trong lòng nàng không cầm được mà khẽ thở dài một tiếng. Người
như thế này mà có thể vang danh khắp thiên hạ, nhất định đã phải bỏ ra rất nhiều
công sức mà người bình thường chẳng thể tưởng tượng nổi.
Nghĩ đến đây, Hà Y vác cái xẻng sắt lên vai rồi hỏi: “Ngôi mộ
ngài nói là ở chỗ nào?”
Chàng đưa tay lăn bánh xe vượt qua nàng đi ra khỏi cửa, cất
giọng lãnh đạm nhẹ nhàng nói: “Đi theo tôi”.
Hành lang không một tiếng người, màn đêm yên ắng đến đáng sợ.
Dọc hành lang, cứ cách mấy bước lại treo một chiếc đèn lồng
màu xanh nhạt, bóng nến chập chờn đem mấy cảnh cây vông trong viện in vào mảng
tường trắng đầu hồi, gió thấp thoáng, bóng cây đung đưa, bóng người in trên tường
tựa như đang nhảy múa theo.
Hai người không ai lên tiếng, cứ men theo hành lang dài nhắm
hướng tây đi một mạch nửa thời thần[6], dọc đường Mộ Dung Vô Phong vẫn tự mình
đẩy bánh xe đi ở phía trước.
[6] Thời thần: đơn vị tính giờ thời cổ, một thời thần tương
đương với hai tiếng ngày nay.
Hà Y thấy chàng đã thấm mệt nhưng cũng không đến giúp.
Chàng là một người cao ngạo, loại người này thường không
thích người khác giúp đỡ.
Cuối đường đột nhiên xuất hiện một sườn núi, hành lang tuy
men theo sườn núi nhưng không còn là đường bằng phẳng mà là từng bậc thang. Mộ
Dung Vô Phong lấy từ sau xe lăn một đôi nạng bằng gỗ hồng rồi kẹp dưới nách.
Đôi chân của chàng tuy không thể cử động nhưng lực ở tay và vai thì khá khỏe.
Hai tay chàng nhấn một cái, mượn lực vươn người đứng lên dựa vào hai nạng.
Có vẻ như đã rất lâu chàng không đứng lên, lúc này cố sức đứng
dậy, đôi môi có phần trắng bệch.
Hà Y đứng bên cạnh nói: “Chẳng lẽ chúng ta phải đi vòng hết
sườn núi này?”.
Mộ Dung Vô Phong gật đầu: “Đối diện chính là mộ phần”.
Hà Y không kìm được bật lời: “Ngài muốn nói ngài muốn tự
mình đi qua đấy?”.
“Lẽ
nào tôi không thể đi qua?”, chàng lạnh lùng đáp lại một câu.
Mộ Dung Vô Phong nói vậy, Hà Y lập tức im lặng.
Dáng vẻ lên từng bậc thang của chàng trông thật khó khăn. Bất
cứ ai nhìn vào cũng đều cảm thấy xót xa. Chân của chàng chẳng còn chút sức lực
nào, khi đứng lên, hoàn toàn phải dựa vào đôi vai chịu hết toàn bộ trọng lượng
cơ thể. Chỉ lên một bậc thang mà mồ hôi đã tuôn ướt đẫm, không thể không ngừng
lại một chút mà thở dốc.
Hà Y nhìn chàng nói: “Có cần tôi đến giúp không?”.
Chàng lắc đầu.
Hà Y nói: “Ngài cứ nói cho tôi biết đó là ngôi mộ nào, tôi
đi đến đó trước đào lên”. Cứ trông tốc độ của Mộ Dung Vô Phong, kể cả nàng đem
ngôi mộ ấy đào lên rồi lại lấp xuống ổn thỏa có khi chàng vẫn còn ở sườn núi
bên này.
Chàng nghĩ ngợi một chốc rồi nói: “Bia mộ ấy có ba chữ ‘Mộ
Dung Tuệ’”.
Hà Y đứng ngẩn ra, cứ nhìn chàng với dáng vẻ kỳ quái, thoáng
chốc mặt đã đỏ bừng, ấp a ấp úng nói: “Tôi… tôi không biết chữ.”
Hà Y nói xong rụt vai, cúi đầu, len lén nhìn chàng.
Trên mặt Mộ Dung Vô Phong chẳng tỏ thái độ gì, nói: “Ngôi mộ
đầu tiên bên phải, dãy thứ hai”.
“Tôi
đi đây!”, nàng nhẹ nhàng tung người, trên không trung lộn mình, một lần tung
mình đã ba trượng, thoáng chốc khuất khỏi tầm mắt của Mộ Dung Vô Phong.
Sương đêm phủ khắp, khu mộ kéo dài xa tắp. Bên trong mộ phần
và bia mộ nhiều vô kể. Lửa ma trơi thấp thoáng, vô thanh vô tức, thoắt ẩn thoắt
hiện càng tô thêm vẻ yên ắng đến đáng sợ của không gian.
Khu mộ này hiển nhiên đã được dựng lên từ nhiều năm trước, lớp
đá xanh lát nền sớm đã có vết rạn, mấy loài cỏ dại vươn ra từ những kẽ nứt ấy.
Hà Y tìm thấy ngôi mộ đó, thầm ước lượng độ lớn nhỏ của quan tài rồi vạch ra
phương vị đại khái trên mặt đất.
Nàng từng áp tải quan tài cho người ta, xem qua người khác
đào mộ, dùng xẻng sắt đào chừng nửa canh giờ đã đào được đến quan tài. Khi nàng
trở lại sườn núi, phát hiện ra Mộ Dung Vô Phong vẫn đứng ở bậc thang đá thứ tư,
một tay vịn lan can, gắng sức di động thân thể. Sườn núi không hề cao, cũng chỉ
tầm hai chục bậc, nhưng cứ trông tốc độ của Mộ Dung Vô Phong mà tính, đợi đến
lúc qua được sườn núi trời cũng đã rạng rồi.
Nàng đem chiếc xe lăn qua bên kia sườn núi, đặt dưới chân dốc.
Hà Y nhìn Mộ Dung Vô Phong nói: “Ngài có cần tôi giúp
không?”
Mộ Dung Vô Phong lắc đầu.
Một lúc sau, một dải lụa trắng đột nhiên rủ xuống trước mặt
chàng. Tiếng của Hà Y trên cây vọng xuống: “Này, bám lấy dải lụa này, tôi kéo
ngài lên”.
Mộ Dung Vô Phong ngẩng đầu lên, tựa như muốn nhìn cho rõ nơi
nàng đang ở, dải lụa trắng kia như một con rắn linh hoạt trườn qua, cuốn chặt lấy
eo lưng chàng. Sau đó dải lụa nhẹ nhàng kéo lên, đưa chàng bay vụt lên. Khi lên
đến lưng chừng, Hà Y bỗng tung người nhảy qua, đem thân thể đang lơ lửng trên
không của Mộ Dung Vô Phong cùng băng qua đỉnh dốc của sườn núi, hướng xuống
chân núi. Khi thấy sắp chạm đất, nàng vươn tay đưa ra, đem Mộ Dung Vô Phong đặt
vững vàng trên chiếc xe lăn.
Dải lụa trắng kia gọi là “Tố thủy băng tiêu”, được dệt từ tơ
của băng tằm vùng Nam Hải. Hà Y luyện được công phu dùng dải lụa, đối với môn
này rất lấy làm tự hào.
Chính vào lúc nàng đang dương dương tự đắc, Mộ Dung Vô Phong
ngồi bên cạnh bỗng khom người, tay ôm lấy ngực, đầu ngón tay bỗng dưng tím tái,
toàn thân co quắp lại, hơi thở nghẽn tại ngực, hô hấp không thông.
Hà Y sợ đến mặt mũi trắng bệch, vội đỡ lấy thân thể chàng
nói: “Ngài sao vậy? Chỗ nào không ổn?”, rồi bất kể ba bảy hai mốt, nàng bắt mạch,
truyền chân khí vào trong người chàng, giúp chàng điều hòa nội tức.
Nội tức của Mộ Dung Vô Phong rất hỗn loạn, nhịp tim lúc
nhanh lúc chậm.
Hà Y không biết phải làm sao chỉ đành nắm lấy tay chàng.
Tay của chàng cũng lạnh giá như băng, hay là… cần giữ ấm
chăng?
Bên cạnh chiếc xe lăn có một cái chăn, hình như là thứ Vô
Phong vẫn thường dùng. Hà Y vội vàng mở nó ra bao lấy chân chàng, lo lắng nhìn
chàng chăm chú.
May mà lúc ấy cơn hen suyễn cũng qua, nhịp tim của Vô Phong
dần ổn định trở lại. Chàng hít thở hồi lâu mới lấy lại được chút khí lực, rút từ
trong người ra một lọ nhỏ bằng gỗ Ô Mộc, dùng răng mở nắp rồi ngửa đầu nuốt xuống
một viên thuốc.
Hà Y lo lắng nhìn chàng, không cầm được mà nhíu mày. Rõ ràng
chàng mang bệnh nặng. Thân thể đột nhiên bị kéo mạnh lên không trung rồi rơi mạnh
trở lại, một lên một xuống, tim không chịu đựng nổi.
Qua chừng một nén hương, cơn suyễn mới từ từ dịu hẳn.
Hà Y bẽn lẽn nói: “Xin lỗi, tôi không biết… ngài có vội lắm
không? Hay là tôi đưa ngài về nghỉ đã”.
Tấm thân ngàn vàng, không ngồi chỗ mái ngói[7].
[7] Thành ngữ: Thiên kim chi tử, tọa bất thụy đường: nghĩa
là người phú quý thì không nên ngồi nơi hiên ngói, phòng có ngói rơi. Ý tứ chỉ
người có tiền bạc, thân phận nên biết cẩn trọng, tránh liều lĩnh, nguy hiểm.
Vạn nhất người này sinh bệnh, đột nhiên chết ở đây vậy thì
Hà Y nàng dù có trăm cái miệng cũng chẳng biện minh nổi đâu.
“Tôi
không sao”, Vô Phong lạnh nhạt nói.
“Tim
của ngài… hình như không được khỏe cho lắm”, Hà Y ngập ngừng nói.
“Tim
của tôi chẳng làm sao cả”, Vô Phong trả lời.
Nghe câu này, Hà Y chỉ đành cười gượng. Nam nhân này bất kể
trên người có khó chịu đến mức nào đều khăng khăng không chịu thừa nhận.
Nghỉ thêm một lúc, Hà Y từ tốn đẩy xe đưa Vô Phong tới bên
ngôi mộ.
Nàng bước tới mấy bước nữa, dùng kiếm cậy nắp, mở quan tài
ra rồi đốt một bó đuốc soi vào trong. Một thi thể nằm ngay ngắn trong đó, tuy vẫn
mặc trang phục nhưng cơ thể đã phân hủy. Bên cạnh đầu lâu, một lọn tóc dài với
chiếc thoa vàng để vấn tóc nằm lăn lóc một bên. Trên mặt thi thể còn chút ít cơ
thịt, chẳng qua trông dáng vẻ của bà ta rất thống khổ, miệng mở rộng như đang
hoảng sợ, dường như qua đời vào đúng thời khắc đau đớn nhất.
Hà Y quay đầu sang, lén nhìn Mộ Dung Vô Phong.
Vô Phong chăm chú nhìn mọi thứ trong quan tài. Trong mắt lộ
ra vẻ đau buồn, hai tay nắm chặt đến mức gân xanh nổi lên.
Dường như chàng đang cố gắng kiềm chế tình cảm của mình, rất
lâu sau mới bình tĩnh lại.
Hà Y khe khẽ hỏi: “Ban nãy ngài nói bà ấy tên là Mộ Dung Tuệ…
họ của bà ấy cũng là Mộ Dung? Là người thân của ngài?”.
Mộ Dung Vô Phong trầm mặc rất lâu mới lên tiếng: “Mộ Dung Tuệ
là mẫu thân của tôi”.
“Lúc
sinh tôi, bà vì khó đẻ nên qua đời, kỳ thực tôi cũng chưa hề được trông thấy
bà”, chàng nói tiếp.
“Cho
nên ngài mới bảo tôi đào mộ của bà, chỉ vì muốn được trông thấy bà.”
“Trong
việc này tất nhiên vẫn còn nhiều tình tiết rất phức tạp.”
“Cũng
hiếm việc khiến người ta cảm thấy phức tạp hơn là việc con cùng họ với mẹ”, Hà
Y nói.
Mộ Dung Vô Phong biến sắc, nói: “Cô nương nói đúng rồi. Đích
xác là tôi không biết phụ thân mình là ai. Không những tôi không biết mà xung
quanh tôi cũng không ai biết”.
Hà Y nói: “Vì thế ngài muốn tôi thay ngài điều tra việc
này”.
Mộ Dung Vô Phong gật đầu.
Hà Y nói: “Nhưng những việc này đều phát sinh trước khi ngài
ra đời. Đối với ngài mà nói, bọn họ vốn không tồn tại, tựa như cũng chẳng có
chuyện gì xảy ra”.
“Người
ta đối với những việc không liên quan đến mình thường nghĩ rất thoáng”, Vô
Phong lạnh lùng nhìn nàng.
Hà Y cười khổ: “Có những việc càng biết nhiều lại càng đau
khổ, chẳng bằng không biết còn tốt hơn”.
Bàn tay Mộ Dung Vô Phong đột nhiên siết chặt lại, móng tay
đâm sâu vào lòng bàn tay: “Tôi chỉ muốn biết rõ chân tướng, bất kể nó như thế
nào tôi đều muốn biết, nhất định phải biết”.
Hà Y nhìn dáng vẻ của chàng, sợ chàng quá thương tâm, bèn an
ủi: “Bất kể một người lúc còn sống đẹp đẽ đến chừng nào, bộ dạng sau khi qua đời
đều rất đáng sợ. Nếu như tôi là ngài, tôi quyết không muốn hình ảnh đó in sâu
vào đầu mình”.
Mộ Dung Vô Phong ngẩng đầu nhìn nàng, chậm rãi nói: “Tôi
không phải là cô, cô cũng không phải là tôi”.
Nàng gượng cười.
Sau đó Mộ Dung Vô Phong chợt lên tiếng: “Bây giờ cô nương có
thể đậy nắp quan tài lại được rồi”.
“Ngài
xem xong rồi?”
“Người
này không phải là mẫu thân của tôi”.
“Sao
ngài biết được? Làm thế nào nhìn ra?”
“Mẫu
thân tôi có những đặc điểm riêng rõ ràng, trong phòng tôi còn mấy bức tranh bà
tự họa. Nếu như bà tự họa rất giống vậy thì sau khi bà qua đời, hài cốt không
thể có hình dạng này.”
“Lẽ
nào ngài chỉ cần nhìn hài cốt là có thể biết được dáng vẻ của một người khi còn
sống?”
Mộ Dung Vô Phong nói: “Cô nương quên rồi sao, tôi là đại
phu, đã nhìn thấy rất nhiều xác chết rồi. Các loại đầu lâu người chết tôi đều từng
xem xét kỹ càng”.
Sở Hà Y nghe mà thấy sau lưng lạnh toát, nói: “Vậy lúc thường
ngài gặp người khác rốt cuộc là nhìn họ hay nhìn đầu lâu của họ?”.
“Một
người làm lâu một nghề, cách họ nhìn người cũng có chút khác người thường.”
“Lẽ
nào ngài thực sự là một thần y?”, nàng không nhịn được hỏi.
“Tôi
chỉ là một đại phu gặp may mà thôi”, chàng lạnh nhạt nói.
Trong khi hai người nói chuyện, Hà Y đã khôi phục xong dáng
vẻ lúc trước của ngôi mộ.