Chương 8
Reacher thức dậy lúc bảy giờ sáng rồi đi ra ngoài xem có đuôi không, và tìm một tiệm tạp hóa. Ông đi quanh co trong nửa dặm mà không thấy có ai đi theo. Ông tìm thấy một tiệm tạp hóa nằm cách nhà trọ hai dãy phố rồi mua một tách cà phê đựng trong ly giấy, một hộp dao lam dùng một lần, một hộp xà phòng cạo râu, và một ống kem đánh răng mới. Ông mang những món vừa mua về theo một đường vòng, rồi xếp áo quần bỏ lại dưới tấm nệm, ngồi lên giường uống cà phê. Sau đó ông tắm và cạo râu, theo đủ quy trình hai mươi hai phút của ông. Ông gội đầu hai lần. Rồi ông mặc đồ lại và ra ngoài ăn sáng ở cái nơi duy nhất mà ông có thể tìm thấy, hàng bán thức ăn nhanh mà ông đã thấy hôm qua. Nó có một quầy nhỏ bên trong. Ông uống thêm cà phê, ăn một chiếc bánh mì tròn kẹp thịt nguội và một thứ gì đó có lẽ từng là trứng, đã được sấy khô, nghiền thành bột, rồi khôi phục lại. Tiêu chí ẩm thực của ông vốn đã khá thấp rồi, nhưng ngay khi đó ông cảm thấy mình đang nới rộng đáng kể phạm vi của mình.
Ông ăn thêm một miếng bánh chanh sau cái bánh mì, để có chất đường.
Miếng bánh ngon hơn cái bánh mì, nên ông ăn thêm miếng nữa với tách cà phê thứ hai. Sau đó ông đi về hướng Nam đến tiệm cắt tóc. Ông kéo cửa và ngồi vào ghế đúng tám giờ ba mươi.
Vào thời điểm đó, cuộc điều tra trọng án bên ngoài khách sạn Metropole Palace đã tiến hành được ba giờ. Cái xác trong con hẻm được phát giác lúc năm giờ ba mươi sáng bởi một người quét dọn vừa vào làm việc. Người này là một người đàn ông trung niên gốc Honduras. Ông ta không đụng vào cái xác. Không kiểm tra xem nó còn sống hay không. Chỉ nhìn cách nó nằm ở đó là đủ cho tất cả những gì ông cần biết. Vẻ trống rỗng uể oải của cái chết ở nơi nào cũng rất dễ nhận ra. Ông ta chạy vội vào trong và thông báo cho người gác đêm. Rồi ông bỏ về nhà, vì ông không có thẻ xanh và không muốn dính vào cuộc điều tra của cảnh sát. Người gác đêm bấm số khẩn 911 trên máy điện thoại ở bàn rồi bước ra qua cánh cửa thoát hiểm để xem. Rồi trở vào sau ba mươi giây, không thích thú gì cái cảnh vừa thấy.
Hai xe tuần tiễu và một xe cấp cứu đến nơi trong vòng tám phút. Nhân viên y tế xác định nạn nhân đã chết và xe cấp cứu chạy đi. Cảnh sát tuần tiễu chặn con hẻm và cửa thoát hiểm lại, rồi lấy lời khai của người gác đêm. Ông ta khai mình bước ra hít thở chút khí trời và tự mình phát hiện ra cái xác, để bảo vệ người nhập cư bất hợp pháp từ Honduras. Nó gần với sự thật. Tất nhiên cảnh sát không có lý do gì để nghi ngờ lời khai của ông. Họ chỉ đứng lại đó chờ Emerson.
Emerson đến đó vào lúc sáu giờ hai mươi lăm. Ông mang theo viên phó của mình, một nữ cảnh sát tên Donna Bianca, và nhân viên pháp y của thành phố, và cả Bellantonio để kiểm tra hiện trường tội ác. Đội kỹ thuật lấy mất ba mươi phút đầu tiên. Đo đạc, chụp hình, gom nhặt dấu vết chứng cứ. Rồi Emerson được phép và bước đến gần cái xác và đụng ngay rắc rối lớn đầu tiên. Cô gái không mang ví và không có thẻ căn cước nhận diện. Không ai biết chút gì về nhân thân của cô.
Ann Yanni xuất hiện ở khu sau khách sạn Metropole Palace lúc bảy giờ mười lăm. Cô ta mang theo nhóm NBC, gồm có một nhân viên quay phim và một nhân viên âm thanh có microphone gắn vào một cây sào dài. Microphone được bọc bằng một miếng mút bông màu xám và chiếc sào dài mười bộ. Gã nhân viên dựa hông vào dây chắn đường của cảnh sát và vươn tay ra hết cỡ mà lắng nghe tiếng nói của Emerson trong tai nghe của gã. Emerson đang nói chuyện với Bianca về vấn đề mại dâm.
Tay nhân viên pháp y đã khám nghiệm hai cánh tay, hai đùi và giữa những ngón chân của cô gái mà không thấy dấu kim tiêm. Vậy thì cô đã không đến đó để phê. Vậy thì có thể cô đang thả mồi. Nếu không thì còn ai ăn mặc như thế mà đi ra cửa hông của một khách sạn trung tâm vào lúc nửa đêm? Cô gái còn trẻ và có nhan sắc. Nghĩa là cô ắt không phải dạng rẻ tiền. Nghĩa là cô ắt phải mang theo một chiếc ví to đầy những tờ hai mươi đô vừa lấy ra từ thẻ ATM của một tay thương gia nào đó. Cô đã đụng phải một kẻ nào đó đang chờ mình. Chờ đích xác cô, hay chờ cầu may một kẻ như cô. Dù là ai đi nữa, hắn đã giật ví và đánh vào đầu cô, cú đánh nặng hơn mức cần thiết.
Một người mười chín hay hai mươi tuổi lại không nghiện ngập chưa chắc đã được lấy dấu tay, trừ phi cô ta có một tiền án xấu ở đâu đó. Emerson không hy vọng vào điều đó lắm, nên ông không mong tìm ra nhân thân của cô qua hồ sơ lưu trữ. Ông hy vọng khám phá ra nó ở bên trong khách sạn, hoặc từ người gác đêm dắt khách cho cô, hay từ gã dân chơi đã gọi cô đến mua vui.
Ông nói với Bianca, “Không ai được rời khỏi đây. Chúng ta sẽ hỏi chuyện tất cả khách và nhân viên, từng người một. Kiếm lấy một căn phòng ở đâu đó. Và báo cho toàn thể các đội truy tìm một kẻ có nhiều tiền mới một cách bất thường.”
Bianca nói, “Một tên to con.”
Emerson gật đầu, “Một tên rất to con. Phải to con mới đấm được như thế.”
Tay nhân viên pháp y mang cái xác về nhà xác. Donna Bianca trưng dụng bar rượu của khách sạn và đến tám giờ ba mươi sáng thì những cuộc thẩm vấn đã tiến hành được hai phần ba.
Tay thợ cắt tóc là một ông già thạo nghề chắc đã cắt cùng một kiểu tóc suốt gần năm mươi năm nay. Ông chơi theo kiểu mà dân trong quân đội gọi là “bức tường trắng“. Ông chừa lại chừng bốn phân trên đỉnh đầu và dùng tông đơ cắt dưới gốc rồi đẩy lên theo hai bên. Rồi ông lật tông đơ lại, chắn hai bên tóc mai và cạo sạch lông tơ trên cổ. Kiểu tóc mà Reacher quen thuộc. Ông đã để nó gần hết đời mình, trừ những lúc ông quá lười chăm chút cho bản thân, và một vài khoảng thời gian liên tục sáu tháng khi ông ủng hộ mốt húi sát quanh đầu.
Ông thợ cắt tóc với một chiếc gương cầm tay, để cho Reacher xem phía sau đầu.
Ông hỏi, “Hài lòng chứ?”
Reacher gật đầu. Nhìn cũng không tệ, trừ khoản có một đường viền một phân quanh đầu bày da ông trắng hếu. Ông đã có mái tóc dài hơn ở Miami và nắng chưa kịp làm rám tới da. Ông thợ phủi tóc vụn trên cổ áo ông và cởi tấm khăn choàng ra. Reacher đưa ông bảy đô la tiền công và bo thêm một đô la. Rồi ông đi quanh dãy phố. Không có ai đi theo. Ông mở cửa phòng, rửa mặt và cạo lại dưới hai bên tóc mai. Có chừng một phân tóc vẫn lởm chởm ở đó. Tông đơ của ông thợ hơi bị cùn.
Những cuộc thẩm vấn ở Metropole kết thúc lúc chín giờ hai mươi và hoàn toàn không cho Emerson thông tin nào cả. Ông gác đêm thề độc rằng ông không biết gì về cô gái. Chỉ có mười một người khách và không một ai trong số họ nói được gì giá trị. Emerson là một thanh tra tài giỏi và nhiều kinh nghiệm, ông biết rằng đôi khi người ta cũng nói thật. Và ông biết rằng việc chấp nhận sự thật trong nghiệp vụ của một thanh tra cũng quan trọng chẳng kém việc từ chối những lời nói dối. Do đó ông hội ý với Donna Bianca, rồi cùng đi đến kết luận rằng họ vừa phí mất phần tốt nhất của ba giờ đồng hồ cho một linh cảm sai lầm.
Rồi một gã có tên là Gary gọi điện đến từ cửa hàng phụ tùng xe.
* * *
Gary đến cửa hàng lúc tám giờ và thấy mình thiếu nhân viên trầm trọng. Vẫn không có tăm hơi của Jeb Oliver đâu cả và Sandy cũng chưa ló mặt. Ban đầu gã bực mình. Gã gọi đến nhà trọ của cô nhưng không ai nhấc điện thoại. Gã nghĩ, Nó đang trên đường. Đi muộn rồi đây. Nhưng cô không đến. Sau đó, cứ ba mươi phút gã lại gọi lại. Đến chín giờ ba mươi thì sự bực mình nhường chỗ cho nỗi lo lắng và gã nghĩ đến chuyện tai nạn xe cộ. Thế là gã gọi điện cho cảnh sát để hỏi thông tin. Tay trực ban cho biết sáng nay không có vụ tai nạn nào. Rồi tới một khoảng ngưng đầy hàm ý và ông ta hình như đang cân nhắc một khả năng khác nên hỏi tên và yêu cầu mô tả nhân dạng. Gary nói, Alexandra Dupree, thường được gọi là Sandy, mười chín tuổi, da trắng, nhỏ nhắn, mắt xanh tóc đỏ. Mười giây sau, Garynói chuyện với một thanh tra tên Emerson trên điện thoại di động.
Gary đồng ý đóng cửa tiệm hôm nay và Emerson điều một xe tuần tra đến đón gã. Điểm đến đầu tiên là nhà xác. Gary nhận dạng cái xác và bước vào văn phòng của Emerson, trắng nhợt và run lẩy bẩy. Donna Bianca trấn tĩnh gã trong lúc Emerson cẩn thận quan sát gã. Thống kê cho biết rằng phụ nữ có khả năng bị giết bởi chồng, bạn trai, anh em, chủ thuê, và đồng nghiệp - theo thứ tự giảm dần - trước khi có kẻ lạ mặt nào xuất hiện trên danh sách nghi can. Và nhiều khi bạn trai và đồng nghiệp chỉ là một. Nhưng Emerson biết rằng Gary vô can. Gã run dữ quá. Không cách nào người ta có thể giả vờ được kiểu sốc đột ngột và kinh ngạc đến như thế về một điều mà gã đã biết từ tám hay mười giờ trước.
Vì thế Emerson bắt đầu, thật nhẹ nhàng, bằng các câu thẩm vấn thông thường. Lần cuối anh thấy cô ta là khi nào? Có biết gì về đời sống riêng của cô ta không? Gia đình? Bạn trai? Bạn trai cũ? Những cú điện thoại khả nghi? Cô ta có kẻ thù nào không? Có rắc rối gì? Khó khăn về tiền bạc?
Và rồi, không thể bỏ qua: Có điều gì bất thường trong những ngày vừa qua không?
Và thế là đến mười giờ mười lăm thì Emerson đã biết hết về người khách lạ đã đến ngày hôm trước. Rất cao, to con, rám nắng, hung hăng, yêu sách, mặc quần màu xanh ôliu và áo vải thô cũng xanh ôliu. Gã đã hai lần gặp gỡ Sandy một cách bí ẩn ở phòng trong, và đã mượn xe của cô, và đã đe dọa để lấy được địa chỉ của Jeb Oliver, và Jeb Oliver cũng đang mất tích.
Emerson để Gary ngồi lại với Donna Bianca, bước ra ngoài hành lang rồi bấm điện thoại di động gọi cho văn phòng của Alex Rodin.
Ông nói, “Ông gặp may rồi. Chúng tôi vừa có một nữ nạn nhân hình sự mười chín tuổi. Một kẻ nào đó đã bẻ cổ cô ta.”
“Sao chuyện đó làm cho tôi gặp may?”
“Mối liên lạc không được chứng thực sau cùng của cô ta là vào hôm qua, ở nơi làm việc, với một kẻ có vẻ như giống anh bạn Jack Reacher của chúng ta lắm lắm.”
“Thật vậy à?”
“Chúng tôi có được sự mô tả rất kỹ từ sếp cô ta. Và cổ của cô bị đấm gãy chỉ bởi một cú bên thái dương, cú đấm này không dễ chút nào trừ phi ông có thân hình hộ pháp như Reacher.”
“Cô gái ấy là ai?”
“Một cô gái tóc đỏ làm việc cho cửa hàng bán phụ tùng xe nằm hướng xa lộ. Cũng có một gã trai ở cùng chỗ này đang mất tích.”
“Chuyện này xảy ra ở đâu?”
“Bên ngoài khách sạn Metropole Palace.”
“Có phải Reacher đang thuê phòng ở đó?”
“Theo danh sách đăng ký thì không.”
“Vậy thì hắn có là nghi can hay không?”
“Lúc này thì hắn có vẻ là ứng cử viên số một.”
“Vậy khi nào thì ông tóm hắn đây?”
“Tôi tìm thấy hắn là tóm liền.”
Alex Rodin nói, “Tôi sẽ gọi cho Helen. Con bé biết hắn ở đâu.”
Rodin nói dối con gái mình. Ông nói với cô rằng Bellantonio cần gặp Reacher để sửa lại một hiểu lầm có lẽ đã mắc phải về một phần chứng cứ buộc tội.
Helen hỏi, “Phần nào?”
“Cái gì đó trong số những điều họ đã trao đổi. Chắc là không có gì quan trọng, nhưng cha đang làm việc này rất thận trọng. Không muốn trao cho con những lý do để kháng án.”
Helen nghĩ, Cái trụ chắn đường đây.
Cô đáp, “Ông ta đang trên đường đến phi trường.”
“Tại sao?”
“Để gặp Eileen Hutton.”
“Họ quen nhau à?”
“Rõ ràng là thế.”
“Vậy là sai nguyên tắc.”
“Chuyện quen biết nhau?”
“Chuyện can thiệp vào lời khai của bà ấy.”
“Con tin chắc là ông ta sẽ không làm điều đó.”
“Khi nào thì hắn trở lại?”
“Sau giờ ăn trưa, con nghĩ vậy.”
Rodin nói, “OK. Cha sẽ đợi.”
Nhưng dĩ nhiên là họ không đợi. Emerson ra phi trường ngay lập tức. Ông ta đã gặp Reacher hai lần và có thể nhận ra ông giữa đám đông. Donna Bianca đi với ông. Họ cùng đi qua khu vực giới hạn và tới một phòng kiểm tra an ninh, từ đó có thể quan sát toàn bộ sảnh đến qua tấm kính một chiều. Họ cẩn thận xem xét những gương mặt đang chờ đợi. Không thấy tăm hơi Reacher đâu cả. Hắn chưa đến đây. Nên họ ngồi chờ tiếp.