Chương 11
Có lần Reacher đọc được rằng giày thuyền do một người chơi du thuyền sáng chế, ông ta tìm loại giày có thể bám được trên sàn tàu trơn trượt. Ông ta đã dùng giày thể thao loại đế trơn thông thường và cắt những đường vạch nhỏ tí lên đế cao su bằng một dao lưỡi lam thẳng. Ông ta đã thử nghiệm và kết thúc bằng những đường cắt ở sát bên nhau và dợn sóng. Chúng cho kết quả khả quan, như một ta-lông lốp xe được thu nhỏ lại. Cả một ngành công nghệ phát triển từ đó. Mẫu hàng đã lan truyền từ du thuyền đến bến tàu đến bãi đậu du thuyền đến lối đi lót ván, đến lối đi dạo mùa hè. Giờ thì giày thuyền có mặt khắp nơi. Reacher không thích chúng lắm. Chúng mỏng nhẹ và mong manh.
Nhưng chúng không gây tiếng động.
Ông đã thấy gã mặc áo da ngay khi bước ra từ cửa thoát hiểm của khách sạn Marriott. Khó mà không thấy hắn. Khoảng cách ba mươi thước, góc hẹp, ánh sáng khá tốt từ những ngọn đèn trên các cột khắp nơi. Ông liếc nhanh về bên trái và thấy hắn rất rõ. Thấy hắn phản ứng. Thấy hắn dừng chân. Thấy hắn tự lộ mình là một đối thủ qua các hành vi đó. Reacher đã bước thẳng về phía trước và cân nhắc kỹ cái dư ảnh mà thị lực ban đêm của ông còn lưu giữ lại. Tên này thuộc loại đối thủ như thế nào đây? Reacher nhắm mắt lại và tập trung, hai hay ba bước chân.
Kiểu người vùng Cáp-ca-dơ, cao trung bình, nặng trung bình, mặt đỏ, và tóc sáng nhuốm màu cam và vàng bởi ánh đèn đường.
Phải cớm không?
Không. Vì chiếc áo khoác. Nó là chiếc áo kiểu hộp, vai vuông, hai hàng khuy làm bằng da màu hạt dẻ. Ban ngày nó sẽ có màu đỏ-nâu. Và nó lên nước bóng loáng. Nó sáng bóng lên. Không phải hàng của Mỹ. Thậm chí không phải từ loại cửa hàng bán giảm giá đồ da chỉ với giá bốn mươi chín đô la cho một món. Nó là kiểu ngoại quốc. Đông Âu, giống như chiếc bành tô mà gã lớn tuổi tật nguyền đã mặc trong quảng trường. Không phải đồ rẻ. Chỉ khác biệt. Nga, Bungari, Estonia, một nơi nào ở vùng đó.
Do đó, không phải là cớm.
Reacher bước tiếp. Ông cố bước thật êm và tập trung lắng nghe tiếng chân sau lưng, cách bốn mươi thước. Bước ngắn hơn, đế giày dày hơn, tiếng da sột soạt, tiếng đá dăm lạo xạo nho nhỏ, tiếng dội của đế giày cao su ba lớp. Đây không phải là Charlie. Không ai có thể cho rằng tên này là nhỏ con. Không to, nhưng dứt khoát là cũng không nhỏ. Và tóc hắn không đen. Và đây không phải là tên đã giết cô gái. Không to con đến thế. Vậy thì thêm một tên vào sổ. Không phải chỉ bốn tên. Mà là năm. Ít nhất. Có thể nhiều hơn.
Nên làm gì?
Tên này có mang vũ khí không? Có khả năng lắm, nhưng chỉ một súng ngắn. Hắn không mang thứ gì dài hơn. Và Reacher thấy lạc quan về cơ hội thoát của mình, một mục tiêu di động cách một trăm hai mươi bộ trước mặt một gã có khẩu súng ngắn. Súng ngắn là vũ khí dùng bắn ngang qua phòng, chứ không phải ứng cử viên để dùng dưới đường phố. Tầm bắn trung bình hiệu quả của một súng ngắn là chừng mười hai bộ. Ông ở xa hắn gấp mười lần. Và ông sẽ nghe được tiếng của bộ phận trượt trong sự yên lặng. Ông sẽ có thời gian để phản ứng.
Vậy thì nên làm gì đây? Việc thình lình quay ngược lại và hạ hắn thật cám dỗ biết bao. Chỉ cho vui. Để trả đũa. Reacher thích trả đũa. Trước tiên phải trả đũa là châm ngôn của ông. Cho chúng biết chúng đang đối đầu với ai.
Có lẽ.
Hay có lẽ không. Hay có lẽ sau này.
Ông bước tiếp. Ông bước thật êm. Ông giữ bước chân thật ngay ngắn. Ông để cho tên đang bám theo mình rơi vào điệu ru nhịp nhàng. Như thôi miên. Trái, phải, trái, phải. Ông xua đuổi mọi thứ khác ra khỏi tâm trí mình, ngoại trừ tiếng chân xa xa sau lưng ông. Ông ngắm chúng thật kỹ. Tập trung vào chúng. Chúng có đó, yếu ớt nhưng có thể cảm nhận được. Loạt soạt, loạt soạt. Trái, phải, trái, phải. Như thôi miên. Ông nghe tiếng bấm máy di động. Chỉ mười tiếng tích tích, rất khẽ, gần như không thể nghe thấy, vọng đến ông theo tiếng gió thoảng theo một chuỗi nhạc ngẫu nhiên.
Ông rẽ qua một lối ngẫu nhiên và đi tiếp. Trái, phải, trái, phải. Các con đường vắng ngắt. Khu thương mại lặng chết sau khi những giờ làm việc đã hết. Thành phố vẫn còn lâu mới phát triển thành một cộng đồng thành thị sống động. Điều đó là chắc chắn. Ông đi tiếp. Nghe tiếng thì thầm yếu ớt cách bốn mươi thước sau lưng. Điện thoại di động. Mày đang nói chuyện với ai đó, bạn hiền? Ông bước. Rồi dừng lại ở góc phố kế tiếp. Liếc bên phải rồi rẽ trái vào một con đường cắt ngang thẳng và rộng, phía sau một tòa nhà bốn tầng.
Rồi ông chạy. Năm bước, mười, mười lăm, hai mươi, nhanh và êm, băng ngang qua đường đến vỉa hè bên phải, qua con hẻm thứ nhất mà ông thấy, vào con hẻm thứ hai. Ông lại núp vào bóng tối, trong một ô cửa đôi màu xám trống trơn. Một lối thoát hiểm, có lẽ của một nhà hát hay một rạp chiếu phim. Ông nằm úp sát xuống. Tên kia đã quen với mục tiêu thẳng đứng. Một cách bản năng, hắn sẽ nhìn cách mặt đất sáu bộ. Một hình thù thấp trên mặt đất sẽ ít làm cho hắn chú ý.
Reacher đợi. Ông nghe tiếng bước chân trên hè phố đối diện. Tên kia đã thấy con mồi của mình rẽ một vòng gắt từ vỉa hè bên tay trái của một con đường lên vỉa hè bên tay trái của một con đường kế tiếp. Do đó theo tiềm thức hắn sẽ tập trung vào bên trái, mà không vào bên phải. Ý nghĩ đầu tiên của hắn sẽ là tìm những hình thể đứng yên theo chiều thẳng đứng trong các con hẻm và ô cửa bên tay trái.
Reacher chờ. Tiếng chân vẫn vọng đến. Giờ gần hơn. Rồi Reacher thấy tên kia. Hắn đang ở hè phố bên tay trái. Hắn di chuyển chậm. Hắn trông có vẻ do dự. Hắn đang nhìn về phía trước, nhìn qua trái, nhìn về phía trước. Hắn giữ điện thoại di động bên tai. Hắn dừng lại. Đứng yên. Ngó ra sau qua vai phải, nhìn vào những ô cửa và các con hẻm trên phía bên kia của con đường. Đáng xem xét không?
Có.
Hắn bước ngang và bước lui như một con cua, theo đường chéo, đối diện với con đường trước mặt và cùng lúc lùng soát vỉa hè bên tay phải. Hắn đi ra khỏi tầm mắt của Reacher như một đoạn phim chạy lùi. Reacher lặng lẽ đứng dậy và đi sâu vào con hẻm, vào bóng tối hoàn toàn ở cuối hẻm. Ông tìm thấy một lỗ thông gió thẳng đứng của nhà bếp và trườn quanh phía sau nó. Khom gập người lại và chờ.
Ông chờ khá lâu. Rồi tiếng chân quay lại. Trên vỉa hè. Vào con hẻm. Chậm, nhẹ, thận trọng. Hắn bước nhón trên đầu ngón chân. Không có tiếng động từ gót chân. Chỉ có tiếng cọ sát của đế da trên đá dăm. Chúng sột soạt nho nhỏ gây ra tiếng vọng trầm thấp dội lại từ các bức tường của con hẻm. Hắn đến gần hơn. Và gần hơn.
Gần đến nỗi ông ngửi thấy hắn.
Nước hoa, mồ hôi, da thuộc. Hắn đứng lại cách chỗ Reacher núp chỉ bốn bước và ngó một cách vô vọng vào bóng tối. Reacher nghĩ: Chỉ một bước nữa là mày tiêu nhóc ạ. Chỉ một bước nữa thôi là mày xong phim.
Hắn quay lại. Bước trở ra đường.
Reacher đứng lên và đi theo hắn, nhanh và êm. Đổi vai rồi. Giờ thì tao theo mày. Đến lúc để săn những gã thợ săn.
Reacher to con hơn phần lớn người ta và trong một số việc thì khá vụng về, nhưng ông có thể bước nhẹ nhàng khi cần và luôn luôn rất giỏi trong việc theo dõi âm thầm. Nó là một tài nghệ có được do tập luyện dài lâu. Phần lớn nó đòi hỏi sự thận trọng và tài dự đoán. Phải biết khi nào con mồi của mình sẽ chậm lại, dừng chân, quay lại, dò xét. Và nếu không biết, hãy nhớ cẩn tắc vô ưu. Thà ẩn núp và tụt lại thêm mười thước nữa còn hơn tự để lộ mình.
Gã mặc áo khoác da lục soát mọi con hẻm và ô cửa ở hai bên đường. Không kỹ lắm, nhưng cũng không tệ. Hắn rà soát và di chuyển về phía trước, làm mồi cho lỗi lầm mà tất cả những người hơi khá thường mắc phải. Mình vẫn chưa làm hỏng việc. Hắn còn đâu đó đằng trước. Hắn nói chuyện hai lần trên di động. Nói nhỏ, nhưng lộ rõ vẻ hoang mang khi giọng thì thầm của hắn vút lên. Reacher lẩn qua những mảng bóng tối đằng sau hắn, lùi lại khá xa vì những ánh đèn sáng ở cuối đường đang gần lại. Tên kia rà soát càng nhanh vội. Vô vọng và hoảng sợ cùng lúc. Hắn dò thêm trong vòng hai mươi bộ sau ngã rẽ kế tiếp và đứng sững lại, yên một lát.
Rồi chào thua. Bỏ cuộc. Hắn đứng giữa hè phố lắng nghe điện thoại di động và trả lời gì đó rồi thả hai tay thõng xuống bên sườn, tất cả sự cứng rắn và lặng lẽ biến khỏi thân thể hắn. Hắn rụt người lại một chút và bước thẳng tới trước. Nhanh, nặng nề, ồn ào và dễ thấy như mọi kẻ không còn mục đích gì trên đời ngoại trừ việc đi thẳng từ A đến B. Reacher chờ đủ lâu để tin chắc rằng nó không phải là một trò mánh. Rồi ông đi theo, lặng lẽ di chuyển trong bóng tối.
Raskin đi quá cánh cửa của quán bar thể thao và thẳng lên đầu đường. Hắn có thể thấy xe của Linsky từ xa. Và xe của Chenko. Hai chiếc Cadillac đậu nối đuôi nhau bên vệ đường chờ hắn. Chờ kẻ bại trận. Chờ kẻ số không. Hắn nghĩ, Vậy thì tao đây này.
Nhưng Linsky rất lịch sự trong chuyện này. Chủ yếu là vì phê phán một trong những kẻ được The Zec sai phái là phê phán chính The Zec, và không ai dám làm chuyện đó.
Linsky nói, “Chắc hẳn là hắn đã rẽ sai lối. Có thể từ đầu hắn đã không dự định đi trên con đường đó. Chắc chắn hắn quay ngược lại qua những con hẻm. Hay đi vào một trong số các hẻm đó để đi tè. Hắn chậm lại và đi ra phía sau mày.”
Vladimir hỏi, “Mày có kiểm tra sau lưng không?”
Raskin nói dối, “Dĩ nhiên là có.”
Chenko hỏi, “Giờ tính sao đây?”
Linsky nói, “Tao sẽ gọi The Zec.”
Vladimir nói, “Ông ấy sẽ giận ra trò đấy. Mình suýt tóm được thằng khốn đó rồi.”
Linsky bấm di động. Thuật lại cái tin tồi tệ và lắng nghe lời đáp. Raskin quan sát nét mặt hắn. Nhưng nét mặt của Linsky luôn luôn không tỏ lộ điều gì. Một kỹ năng do tập luyện dài lâu mà có, và nhu cầu sống còn. Cuộc gọi rất ngắn. Một lời đáp ngắn. Không giải đoán được. Chỉ là những âm thanh lạo xạo trong tai nghe.
Linsky tắt máy.
Hắn nói, “Chúng ta tiếp tục truy lùng. Trên bán kính nửa dặm từ chỗ Raskin nhìn thấy hắn lần cuối. The Zec đang phái Sokolov đến. Ông nói có năm đứa bảo đảm sẽ thành công.”
Chenko nói, “Chúng ta không bảo đảm được gì cả. Ngoại trừ một cú đá vào đít và không ngủ ngáy gì sất đêm nay.”
Linsky đưa chiếc di động ra, “Vậy mày gọi cho The Zec mà bảo ông ấy như thế đi.”
Chenko không nói gì.
Linsky nói với hắn, “Chenko, mày lo hướng Bắc. Vladimir, hướng Nam, Raskin, quay lại hướng Đông. Tao sẽ lo hướng Tây. Sokolov sẽ phụ ở nơi nào mà chúng ta cần khi hắn đến đây.”
Raskin đi trở lại hướng Đông, theo lối mà hắn đã đến, cố đi nhanh hết sức. Hắn hiểu được sự hợp lý trong kế hoạch của The Zec. Hắn đã thấy Reacher lần cuối khoảng mười lăm phút trước, và một kẻ đào thoát di chuyển thận trọng thì không thể đi xa hơn nửa dặm trong mười lăm phút. Do đó lôgic sơ đẳng cho biết hiện thời Reacher phải ở đâu. Ông đang ở một nơi nào đó bên trong vòng tròn đường kính một dặm. Chúng đã thấy ông một lần rồi. Chúng sẽ tìm ra ông lần nữa.
Hắn đi suốt xuống con đường cắt ngang thẳng và rộng, rồi rẽ về hướng Nam hướng đến đoạn xa lộ treo. Dò lại bước đã đi. Hắn đi xuyên qua khoảng tối bên dưới xa lộ và thẳng đến khu đất bỏ trống ở góc phố kế tiếp. Đi sát vào bức tường. Rẽ ngoặt.
Rồi bức tường đổ lên hắn.
Ít nhất là hắn cảm thấy như vậy. Hắn bị nện một cú choáng váng từ sau lưng và quỵ xuống không thấy gì nữa. Rồi hắn bị đánh lần nữa khiến đầu óc tắt lịm và ngã sấp mặt tới trước. Điều sau cùng mà hắn cảm thấy trước khi bất tỉnh là một bàn tay lục trong túi hắn và lấy đi chiếc điện thoại di động.
Reacher đi trở lại dưới đoạn cong của xa lộ, chiếc điện thoại di động còn ấm trong tay ông. Ông tựa vai vào một cột bê tông to như căn phòng trọ và trườn đi quanh nó cho tới khi thân thể ông chìm vào bóng tối và hai tay trong ánh sáng từ một ngọn đèn trên một cây cột tít trên cao. Ông lấy tấm danh thiếp bị xé của Emerson ra và bấm số.
Emerson nói, “Tôi nghe.”
Reacher nói, “Đoán xem ai nào?”
“Đây không phải là trò chơi, Reacher.”
“Chỉ vì ông đang thua thôi.”
Emerson không nói gì.
Reacher hỏi, “Tìm tôi có dễ không nào?”
Không lời đáp.
“Có giấy bút không?”
“Dĩ nhiên là tôi có.”
Reacher nói, “Vậy nghe này, và ghi lại nhé.” Ông đọc số của hai chiếc Cadillac. “Tôi đoán rằng một trong hai chiếc xe đó đã ở trong bãi đậu xe trước hôm thứ Sáu để đặt chiếc trụ chắn đường lại đó. Ông nên tìm các bảng số xe, xem lại các cuộn băng, và hỏi vài câu. Ông sẽ tìm thấy một thứ tổ chức nào đó có ít nhất sáu gã. Tôi nghe được vài cái tên. Raskin và Sokolov, mấy gã này hình như là cấp thấp. Rồi Chenko và Vladimir. Vladimir có vẻ đúng với gã đã giết cô gái. Hắn to như một con bò. Rồi có một tay phó nào đó mà tôi không biết được tên. Hắn khoảng sáu mươi tuổi và từng bị chấn thương cột xương sống. Hắn nói chuyện với sếp của hắn và gọi cha này là The Zec.”
“Những cái tên đó là tên Nga.”
“Ông nghĩ vậy?”
“Ngoại trừ Zec. Zec là thứ tên quái gì chứ?”
“Không phải là Zec. Mà là The Zec. Nó là một từ. Một từ được sử dụng như một cái tên.”
“Nó nghĩa là gì?”
“Tra thử xem. Đọc vài cuốn sách lịch sử.”
Im lặng. Tiếng giấy viết.
Emerson nói, “Ông nên ra đây. Nói chuyện trực tiếp với tôi.”
Reacher đáp, “Chưa được. Hãy làm việc của ông rồi tôi sẽ nghĩ về chuyện đó.”
“Tôi đang làm việc của mình. Tôi đang truy lùng một tên tội phạm đào thoát. Ông giết cô gái đó. Chứ không phải một người nào đó mà ông nói rằng ông nghe được cái tên, to con như một con bò.”
Reacher nói, “Còn một chuyện nữa. Tôi nghĩ gã có tên là Chenko cũng mang tên Charlie và là bạn của James Barr.”
“Vì sao?”
“Hình dáng. Nhỏ con, da sậm, tóc đen lởm chởm như cái bàn chải.”
“James Barr mà có bạn người Nga à? Theo những thẩm tra của chúng tôi thì không có.”
“Như tôi đã nói, hãy làm việc của mình đi.”
“Chúng tôi đang làm. Không ai nhắc nhở gì đến một tên bạn người Nga cả.”
“Hắn nói giọng Mỹ. Tôi nghĩ rằng hắn có dính líu với chuyện xảy ra hôm thứ Sáu, có nghĩa là cả nhóm này dính líu.”
“Dính líu như thế nào?”
“Tôi không biết. Nhưng tôi định sẽ tìm hiểu. Tôi sẽ gọi cho ông vào ngày mai.”
“Ngày mai ông sẽ nằm trong tù.”
“Vậy tôi đang ở tù lúc này sao? Đừng có mơ, Emerson.”
“Ông đang ở đâu?”
Reacher đáp, “Gần đây thôi. Chúc ông ngủ ngon, thanh tra.”
Ông tắt máy và cất số của Emerson trở vào túi rồi lấy ra số của Helen Rodin. Bấm điện thoại rồi đi vòng quanh cây cột bê tông vào sâu trong bóng tối.
Helen Rodin nói, “Vâng?”
“Reacher đây.”
“Ông có ổn không? Tay cảnh sát đang đứng ngay bên ngoài văn phòng tôi.”
Reacher đáp, “Tốt cho tôi. Mà cũng tốt cho anh ta, tôi nghĩ vậy. Anh ta chắc hẳn có bốn mươi tì cho một giờ phụ trội.”
“Họ chiếu mặt ông trên chương trình tin tức sáu giờ chiều. Chuyện lớn rồi.”
“Đừng lo lắng cho tôi.”
“Ông đang ở đâu?”
“Tự do và thoải mái. Đang có tiến triển. Tôi đã thấy Charlie. Tôi đã cho Emerson bảng số xe của hắn. Cô có gì tiến triển không?”
“Không hẳn. Tất cả những gì tôi có được là năm cái tên ngẫu nhiên. Tôi không thể thấy có lý do gì để kẻ nào đó bảo James Barr bắn bất cứ ai trong số họ.”
“Cô cần Franklin. Cô cần tiến hành nghiên cứu.”
“Tôi không có tiền trả cho Franklin.”
“Tôi muốn cô tìm cái địa chỉ ở Kentucky cho tôi.”
“Kentucky?”
“Nơi James Barr đi tập bắn.”
Reacher nghe cô gác điện thoại qua bên và giở giấy tờ. Rồi cô quay lại và đọc lên một địa chỉ. Nó vô nghĩa đối với Reacher. Một con đường, một thị trấn, một tiểu bang, một mã số vùng.
Helen hỏi, “Kentucky có dính gì tới chuyện này?”
Reacher nghe tiếng xe trên đường. Sát gần bên, phía trái của ông, bánh to chạy chậm. Ông trườn quanh cây cột để nhìn. Một xe tuần tiễu của sở cảnh sát, bò từ từ, đèn tắt. Hai tay cảnh sát ngồi ghế trên, vươn dài cổ nhìn phải, nhìn trái.
Ông nói, “Tôi phải chuồn đây.” Ông tắt máy và đặt nó xuống đất ở gốc cột. Máy nhận số gọi tới của Emerson có thể ghi được số, và bất cứ chiếc điện thoại di động nào cũng có thể bị dò ra địa điểm bởi tín hiệu nhận mà nó gởi đến mạng, cứ mỗi mười lăm giây một lần, đều đặn như máy đồng hồ. Do đó Reacher bỏ chiếc điện thoại di động lại dưới đất rồi đi về hướng Tây, bốn mươi bộ bên dưới mặt đường xa lộ treo.
Mười phút sau ông đứng đối diện với đằng sau tòa cao ốc kính đen, trong bóng tối bên dưới xa lộ, đối diện với con dốc xe lên. Một chiếc xe cảnh sát không người đậu bên lề đường. Nó trông im lìm lạnh lẽo. Yên ổn. Như thể nó đã có mặt ở đó một lúc rồi. Reacher nghĩ,Tay đứng bên ngoài cửa phòng của Helen đây. Ông băng qua đường và đi xuống con dốc. Vào nhà để xe ngầm dưới đất. Tường bê tông đều được sơn màu trắng bẩn và có những bóng đèn huỳnh quang sáng lóe cách mỗi mười lăm bộ. Có những vũng ánh sáng và những vũng bóng tối. Reacher có cảm giác như ông đang đi ra khỏi các cánh gà băng ngang qua một chuỗi sân khấu được thắp sáng rực rỡ. Trần nhà thấp. Có những cây cột vuông to chống đỡ tòa nhà. Dãy cửa hàng dịch vụ nằm ở trung tâm. Toàn bộ không gian lạnh lẽo, im lặng, sâu chừng bốn mươi thước và có thể rộng gấp ba lần số đó.
Sâu bốn mươi thước.
Giống như phần mới nới thêm trên đường số Một. Reacher bước đến và tựa lưng vào bức tường mặt trước. Bước đi ngang đến bức tường mặt sau. Ba mươi lăm bước. Ông quay người như một tay bơi ở cuối vòng bơi và bước trở lại. Ba mươi lăm bước. Ông đi chéo tới góc xa nhất. Nhà xe đằng đó rất tối. Ông đi giữa hai chiếc xe tải của NBC và tìm thấy chiếc Ford Mustang màu xanh mà ông đoán là của Ann Yanni. Chiếc xe sạch sẽ và láng bóng. Mới được chùi. Nó có các cửa sổ nhỏ vì có mui lật. Kính trước thoải. Các cửa xe màu tối.
Ông mở thử cửa bên ghế cạnh tài xế. Khóa rồi. Ông đi vòng qua mui xe và mở thử cửa bên ghế tài xế. Tay nắm nhúc nhích. Không khóa. Ông nhìn quanh và mở cửa.
Không có báo động.
Ông chồm vào bên trong và nhấn cái nút mở khóa. Có một tiếng cạch vang lên ba lần khi hai khóa cửa và khóa cốp xe bị đẩy lên. Ông đóng cửa bên ghế tài xế lại và bước ra sau cốp xe. Bánh xe sơ-cua nằm trên sàn xe. Bên trong bánh xe là cái kích và một đoạn ống tuýp kim loại vừa để dùng với cái kích vừa để mở bu lông bánh xe. Ông lấy đoạn ống tuýp ra và đóng cốp xe lại. Bước vòng sang bên ghế hành khách, mở cửa xe leo vào.
Trong xe thơm mùi nước hoa và cà phê. Ông mở táp-lô thấy một xấp bản đồ và một chiếc kẹp giấy tờ nhỏ, bằng da, cỡ một cuốn lịch nhớ bỏ ví. Bên trong chiếc kẹp là giấy bảo hiểm và giấy đăng ký xe ô tô, cả hai đều của cô Janine Lorna Ann Yanni ở một địa chỉ trong vùng của bang Idiana. Ông cất chiếc kẹp trở lại và đóng táp-lô. Tìm thấy những tay cần để điều chỉnh ghế, ông hạ chiếc ghế xuống hết cỡ. Ông chỉnh lưng ghế ra sau hết cỡ, vẫn không ra xa lắm. Rồi ông dịch nguyên cái ghế ra sau để đôi chân mình được thoáng chỗ. Ông kéo áo ra khỏi quần và để đoạn ống tuýp trên đùi rồi đặt lưng xuống ghế. Duỗi người. Ông có khoảng ba giờ để chờ. Ông cố ngủ. Hãy ngủ khi có thể là quy tắc cổ điển trong quân đội.
Điều đầu tiên Emerson làm là liên lạc với công ty điện thoại. Ông xác minh được rằng con số mà dịch vụ báo số gọi của ông ghi được là của một máy di động. Hợp đồng dịch vụ được đăng ký cho công ty hoạt động dưới tên Dịch vụ chuyên dụng của Indiana. Emerson phái một viên thám tử có một năm kinh nghiệm truy dấu cơ sở làm ăn này và yêu cầu công ty điện thoại truy tìm chiếc điện thoại di động. Những kết quả ban đầu thật dễ gây bối rối. Dịch vụ chuyên dụng của Indiana là một ngõ cụt, vì nó là tài sản của một quỹ tín thác hải ngoại ở Bermuda và không có địa chỉ trong vùng. Nhưng công ty điện thoại trả lời rằng chiếc điện thoại di động đang ở vị trí cố định và phát tín hiệu tới ba trạm cùng lúc, có nghĩa là nó phải ở trong vùng dưới phố và dễ dàng tìm ra bằng phép đo tam giác.
Rosemary ngọt nhạt với người phụ trách bàn giấy của Ủy ban Trừng giới ở tầng sáu bệnh viện và được cho phép vào thăm anh mình dù là ngoài giờ thăm viếng. Nhưng khi cô đến phòng thì thấy hắn đang ngủ say. Mất công nói ngọt vô ích. Cô ngồi ở đó ba mươi phút nhưng James Barr không thức dậy. Cô nhìn những chiếc màn hình. Nhịp tim của hắn mạnh và đều. Hơi thở ổn định. Hắn vẫn bị còng tay và đầu thì bị kẹp nhưng thân thể hoàn toàn yên tĩnh. Cô xem biểu đồ theo dõi của hắn để tin chắc rằng anh mình vẫn được chăm sóc đúng đắn. Cô thấy ghi chú của bác sĩ: có khả năng PA giai đoạn đầu? Cô không hiểu nó có nghĩa là gì, và đã khá khuya nên cô không thể tìm được ai sẵn lòng giải thích cho mình.
* * *
Công ty điện thoại đánh dấu địa điểm của chiếc điện thoại di động trên một bản đồ thành phố có tỷ lệ lớn và gửi cho Emerson qua fax. Emerson xé nó ra khỏi máy fax và mất năm phút cố lý giải nó. Ông đang mong tìm thấy ba mũi tên gặp nhau ở một khách sạn, hay một bar rượu, hay một nhà hàng. Thay vì vậy, chúng gặp ở một khu đất trống nằm dưới đoạn xa lộ treo. Ông hình dung thoáng qua trong đầu về cảnh Reacher ngủ khổ sở trong một cái thùng giấy. Rồi ông kết luận rằng chiếc điện thoại di động bị vứt bỏ, điều này được xác minh trong mười phút sau bởi chiếc xe tuần tiễu mà ông phái đi kiểm tra.
Rồi sau đó, chỉ để làm cho đúng thủ tục, ông mở máy vi tính và gõ xuống các số xe mà Reacher đã cho. Chúng cho kết quả là những chiếc Cadillac Devilles đời mới, cả hai cùng màu đen, cùng đăng ký cho Dịch vụ chuyên dụng của Indiana. Ông ghi ngõ cụt trên tờ giấy và bỏ vào một tập hồ sơ.
Reacher thức giấc mỗi khi nghe tiếng thang máy khởi động. Tiếng động rền xuống đường nâng, xuyên qua những dây cáp và các cabin đang lên xuống ầm ầm. Ba lần đầu là báo động giả. Chỉ là những nhân viên văn phòng nào đó về nhà sau một ngày dài làm việc. Cứ khoảng bốn mươi phút là họ đi xuống một mình, mệt mỏi bước đến xe và lái đi. Ba lần luồng khói xe lạnh phảng phất đến và ba lần nhà để xe im ắng trở lại và ba lần Reacher ngủ lại.
Lần thứ tư ông không ngủ. Ông nghe tiếng thang máy khởi động và xem đồng hồ. Mười một giờ bốn mươi lăm. Giờ trình diễn bắt đầu. Ông chờ và nghe tiếng cửa thang máy mở ra. Lần này không chỉ là thêm một người cô độc mặc đồ vest. Mà là một đám đông. Tám hay mười người. Huyên náo. Là nguyên cả nhóm nhân viên làm bản tin mười một giờ của chi nhánh NBC.
Reacher ép sát người xuống chiếc ghế kế bên tài xế của chiếc Mustang và giấu ống thép dưới vạt áo. Nó áp vào bụng ông lạnh buốt. Ông nhìn đăm đăm lên cái mui xe bằng vải bạt và chờ.