Rachel cảm thấy mình như một người đàn bà dâm đãng. Hai phút nằm dưới Johnny và lắng nghe tiếng hắn ngáy ầm ĩ vào tai mình, cô thấy mình như một người đàn bà hư hỏng. Cô đang trần truồng trừ chiếc váy đã vén lên đến tận eo và đôi xăng đan còn chưa kịp tháo ra, ướt sũng vì mồ hôi của hắn, trơn trượt vì tinh trùng của hắn. Vị whiskey chua ngắt trong miệng. Không khí xung quanh nồng lên mùi rượu mạnh và hoan lạc. Cô ngủ bao lâu rồi, mười lăm phút hay mấy tiếng, cô không biết. Tất cả những gì cô biết là mình đang mệt lử, các cơ của cô đau như dần, và cô thấy bẩn thỉu.
Khi nhớ lại hắn đã làm những gì với cô, cô đã để hắn làm những gì và sung sướng ra sao, Rachel cảm thấy vô cùng xấu hổ. Khi nhớ lại mình đã làm chuyện đó với ai, cô muốn chết vì nhục nhã.
Johnny Harris. Học sinh cũ của cô. Kém cô mấy tuổi. Từng bị vào tù. Người tình của Glenda Watkins và chỉ có Chúa mới biết là của bao nhiêu người phụ nữ khác nữa.
Hắn nói hắn đã tưởng tượng đến chuyện làm tình với cô từ hồi cô còn là giáo viên dạy tiếng Anh của hắn ở trường cấp ba. Cô đã giúp hắn biến giấc mơ hão huyền thời trai trẻ thành sự thật trong một khoảng thời gian ướt át đến mức thật khó có thể lặp lại. Chắc chắn đó là tất cả những gì cô có thể trông chờ. Dù sao đi nữa, cô muốn gì cơ chứ? Một mối quan hệ ư? Với Johnny Harris ư? Ý tưởng đó là một câu chuyện cười, một câu chuyện cười không vui vẻ cho lắm.
Hắn đã khóc trong tay cô. Khi nhớ đến chuyện đó, Rachel thấy tim mình thắt lại. Cô ghét phải thừa nhận, nhưng cảm giác của cô dành cho hắn không đơn thuần chỉ là thương cảm và ham muốn. Cô quan tâm đến hắn. Và mặc dù coi cô là một bờ vai để dựa vào mà khóc – hình ảnh của một người mẹ, có lẽ vậy – nhưng hắn lại không quan tâm đến cô như thế. Cô biết điều đó.
Hắn đã “thèm muốn” cô, hắn đã nói thế. Rachel sợ rằng đó là tất cả những cảm giác hắn dành cho cô. Bây giờ, khi hắn có được điều hắn hằng mong muốn, chà…
Đến sáng mai hắn sẽ không còn tôn trọng cô nữa.
Cái cụm từ nhàm chán mà cô biết được qua sách vở ấy bỗng hiện lên trong óc cô. Cô được nuôi nấng để trở thành một quý cô – một cụm từ nhàm chán khác, một từ cổ lỗ, nhưng cô không làm gì khác được, đó là sự thật. Ở những thị trấn nhỏ miền Nam, người ta vẫn có các quý cô cũng như những phụ nữ không phải là quý cô – và những quý cô đó biết rằng nếu một người phụ nữ mà dễ dãi thì đàn ông sẽ đạt được điều họ muốn rồi chuyển sang cuộc chinh phục mới, như một con ong chuyển từ bông hoa này sang bông hoa khác.
Dễ dãi nghe quá nhẹ nhàng với việc cô đã làm. Phóng đãng càng không đủ. Là một người yêu từ ngữ, cô cũng không thể nghĩ được một từ nào tục tĩu hơn cho phù hợp với mình.
Rachel sợ chạm vào Johnny làm hắn thức giấc, sợ phải đối mặt với hắn, ngay ở đó, với cô trong tình cảnh như thế, cả hai người trong tình cảnh như thế. Cô không nghĩ là mình có thể chịu được điều đó.
Nhưng cần phải nhấc hắn ra. Trọng lượng của hắn dần trở nên không chịu nổi, và sống lưng cô bắt đầu đau nhức vì bị đè xuống sàn nhà cứng bên dưới tấm thảm. Với lại cô cũng muốn trốn đi.
Cố gắng uốn người và đẩy vào vai trái của hắn, Rachel đã có thể nhích ra. Hắn vẫn ngủ, mê muội không biết gì khi cô đứng lên. Đầu gối run rẩy, cô đứng nhìn hắn, cố gắng vuốt chiếc váy nhăn nhúm cho phẳng lại. Tiếng ngáy của hắn to hơn, đã chuyển thành tiếng rống. Rachel nhận ra là giấc ngủ của hắn không bắt nguồn từ sự thỏa mãn nhục dục. Hắn đã mệt lử do uống quá nhiều whiskey.
Trong một thoáng, cô phải kiềm chế mình để không đá hắn.
Tay hắn giang quá đầu, những ngón tay hơi cong xuống tấm thảm. Đôi chân dài của hắn khép lại với nhau, có lẽ vì chiếc quần jean và quần soóc Jockey đã bị tụt xuống đùi bó lại. Mông hắn để trần, đẹp, tròn lẳn, và từ kinh nghiệm cô có, chạm vào đó cũng có cảm giác cứng như vẻ bề ngoài ấy. Cặp mông mịn và không có lông, sáng màu hơn những múi cơ trên đùi hắn. Đùi hắn sẫm màu hơn nhiều vì trên đó rải rác ít lông màu đen. Khe hở giữa hai bờ mông thu hút ánh mắt cô. Rachel nhớ mình đã đưa những ngón tay vào khe hở đó, liền đỏ mặt rồi đưa mắt đi chỗ khác.
Chiếc áo phông trắng, chỉ bị xoắn lại một chút trên vòng eo nhỏ của hắn. Rachel nghĩ rằng vì nó bó quá nên đã không được cởi ra, cũng giống như chiếc váy của cô. Ngó qua một bên vai rộng, cô thấy một sợi dây màu hồng: áo lót của cô. Cúi xuống để lấy nó, Rachel gần như phải nhấc vai hắn lên khỏi mặt đất. Nếu bản thân chưa nếm trải thì cô không bao giờ tin một người đàn ông gầy với cơ bắp rắn chắc như vậy lại có thể nặng đến thế.
Cô phát hiện ra tay mình không được vững khi phải cố túm lấy dây áo lót hai lần. Cuối cùng cô cũng thành công và đưa quai áo lên vai, chỉnh cho bầu ngực trở về đúng vị trí.
Suy nghĩ chợt nảy ra trong đầu cô là dường như hắn không thất vọng trước kích cỡ bộ ngực của cô. Ngược lại, hắn đã mơn trớn và hôn chúng với sự thích thú đến mức khi nhớ lại cô vẫn còn cảm thấy xấu hổ.
Rachel ngần ngại trước ký ức ấy, cảm thấy màu đỏ lại lan lên cổ và mặt mình. Làm sao cô có thể đối diện với hắn được nữa, khi mà giữa họ đã có sự ám ảnh về đêm nay?
Câu trả lời là cô không thể. Ít nhất là trong một thời gian.
Cô biết mình không thể tránh mặt hắn cả đời, nhưng có lẽ cô có thể làm thế trong vài tuần. Trường học khai giảng vào thứ Năm – chỉ còn hai ngày nữa thôi đúng không? Cô sẽ bận rộn đến mức một thời gian sau đó sẽ không thể ghé qua cửa hàng. Cô phải thuê người quản lý mới, nhưng có lẽ Olivia sẽ giải quyết được công việc trong vài tuần. Hoặc cô có thể thuyết phục Ben ở lại lâu hơn một chút.
Quỷ tha ma bắt Johnny Harris đi! Từ khi hắn xuất hiện, cuộc đời cô đã bị đảo lộn hoàn toàn.
Thời gian sẽ xóa dần những kỷ niệm dù là đau khổ nhất, như kinh nghiệm của Rachel cho thấy. Cô chỉ mong nó sẽ xóa đi kỉ niệm này trước khi cô nhìn vào đôi mắt màu xanh khói đó lần nữa.
Chiếc áo phông in hình quả mâm xôi của cô nằm ở góc ghế gần chân hắn. Rachel đi men theo cơ thể nằm sấp của Johnny, cầm cái áo lên rồi kéo qua đầu. Nhét áo vào trong cạp váy nhanh nhất có thể, cô nhìn quanh để tìm thứ đồ duy nhất còn chưa tìm thấy: quần lót.
Khi nhớ đến cách mình làm mất nó như thế nào, cô chỉ muốn chui xuống đất.
Không thấy nó đâu cả. Sau khi tìm kiếm cẩn thận, Rachel nghĩ chắc hẳn Johnny đang nằm đè lên nó. Không thể còn chỗ nào khác.
Trong một thoáng cô đã muốn để nó lại. Nhìn bên ngoài, cô vẫn ăn mặc chỉnh tề. Cô vẫn có thể về nhà như trước, và không ai biết được.
Cho đến khi Johnny Harris quyết định trả lại quần lót cho cô, và cô biết hắn rất có thể sẽ làm điều đó công khai trước mặt nhiều người.
Rachel không thể để chuyện đó xảy ra. Ý nghĩ đó làm mặt cô nóng bừng.
Quỳ xuống cạnh hắn, cô nắm lấy một bên vai và cố kéo lên. Gần như không có gì suy chuyển, ngoại trừ việc hắn càu nhàu làm đứt quãng tiếng ngáy. Hắn nặng quá, cô không thể nhấc lên nổi mà còn ngã lên lưng hắn.
Từ đâu đó sau cô vang lên tiếng khụt khịt và tiếng ư ử khe khẽ. Con vật bị nhốt đang ẩn trong phòng ngủ, chỉ có một cánh cửa gỗ mỏng manh ngăn giữa cô và nó. Rachel bị kích động. Johnny đang mê mệt và không thể dậy nổi ngay cả khi cô bị xé ra thành từng miếng trên người hắn. Nếu con chó thoát ra, số phận cô không biết sẽ ra sao.
Cô lại nhấc vai hắn lên. Có lẽ nó nhích lên được hai ba phân rồi rơi uỵch xuống. Hắn lại càu nhàu, và con chó lại rên rỉ. Đến lúc này Rachel đành chịu thua vì sợ. Cô sẽ không dịch chuyển nổi hắn, hắn nặng như chì thế này.
Tiếng khụt khịt lại vang lên, sau đó là một tiếng gầm thay vì tiếng rên rỉ. Rõ ràng là con chó đã đánh hơi được cô và đang bộc lộ sự khó chịu của mình. Rachel quyết định bỏ đi khi vẫn còn có thể, dù có quần lót hay không.
Trên đường ra cửa, cô thấy chiếc quần lót nằm trên một quả bóng dưới chiếc bàn để đèn. Khẽ lẩm bẩm vì nhẹ nhõm, Rachel lôi nó ra và mặc vào.
Sau đó, không quay lại nhìn Johnny, cô ra khỏi cửa.
Mặc dù đêm rất ấm nhưng Rachel vẫn run lên khi lái xe về nhà. Dù sao thì mấy tiếng đồng hồ ngắn ngủi vừa rồi cũng là những giờ phút mệt mỏi nhất cả về thể chất và tinh thần trong cuộc đời cô. Đầu tiên, Johnny đã tấn công vào cảm xúc của cô, cào xé trái tim cô cho đến khi nó rỉ máu rồi chiếm đoạt cơ thể cô. Cô đã đầu hàng, cả thể xác lẫn tâm hồn. Do đó việc cô khó trở lại trạng thái bình thường cũng là điều dễ hiểu.
Tylerville vào ban đêm tối như hũ nút. Ánh trăng lưỡi liềm mờ ảo trên đầu đã xua đi những bóng tối kỳ dị trên con đường nhỏ uốn lượn. Rachel lái xe về nhà, đi qua những cánh đồng vắng và qua con đường đôi hai hàng cây thông cao chót vót – con đường mà ngày nào cô cũng đi qua mấy lần – và cố không để cho trí tưởng tượng của mình lất át lý trí. Có rất nhiều câu chuyện ma quái ở vùng Tylerville đến nỗi nếu ai đó tin vào chúng thì họ sẽ không bao giờ ra ngoài vào buổi tối. Vấn đề là, một số chuyện là có thật, cô biết thế. Cô chỉ không biết là chuyện nào thôi.
Ví dụ, bác cả Virginia của cô thường kể một câu chuyện về nhà thờ Tin Lành cũ kỹ đã bị bỏ hoang từ lâu, nhà thờ mà Kay và những thành viên khác của hội Bảo tồn đang nóng lòng muốn tân trang lại. Nóc nhà thờ chĩa thẳng lên trời trên một cái đồi nhỏ không xa nhà Rachel lắm. Rachel lái xe qua đó mỗi lần cô đi vào thị trấn hoặc từ đó quay về, và hiếm khi cô nghĩ đến bóng ma của nữ nhạc công chơi piano trong nhà thờ – người được cho là vẫn đang chơi ở đó. Nhưng đêm nay, khi đến gần nhà thờ, câu chuyện đó lại tự hiện lên trong đầu cô. Có lẽ là vì thần kinh cô đã căng thẳng từ trước, Rachel rầu rĩ nghĩ và đạp mạnh hơn vào chân ga. Nhưng tòa nhà nhỏ với nước sơn trắng mới được hội Bảo tồn sơn lại theo định kỳ dường như đang rực sáng lên trong bóng tối. Nhưng dù thế nào đi nữa, Rachel cũng không thể không đưa mắt ra tìm kiếm và cảm thấy mình như đang lao ra khỏi đường vậy.
Câu chuyện như sau: Nhạc công chơi piano của nhà thờ – một người phụ nữ trẻ đã bị lãng quên tên sau bao năm tháng – đã yêu cha xứ. Vợ ngài, người đã trồng khu vườn trong cái nghĩa trang mà Kay đang muốn phục hồi, phát hiện ra chuyện đó và phục trong vườn để chờ hai người họ. Nhưng điều ngạc nhiên nhất là hai người đó lại thực hiện hành vi sai trái của mình trong nhà thờ. Một đêm, vị cha xứ được giáo dân gọi đi vì có người ốm, và nữ nhạc công xinh đẹp ở trong nhà thờ chờ người tình. Nhưng không phải ông mà là vợ ông đến, và bằng cách nào đó giết tình địch của mình, rồi giấu cái xác đi. Vị cha xứ có thể đã nghi ngờ, nhưng những người khác thì không.
Sự biến mất của người phụ nữ trẻ là một trong số những câu chuyện huyền bí góp phần làm phong phú thêm những câu chuyện phiếm ở thị trấn trong bao nhiêu năm trời. Vợ của cha xứ sống lâu và rõ ràng là không bị kết tội bên người chồng lầm lỗi của mình, và trong suốt cuộc đời bà, không ai biết được tội lỗi đó. Sơ suất duy nhất của bà là giữ một quyển nhật ký trong đó mỗi ngày bà đều viết vô cùng chân thực. Những công thức nấu ăn, những câu chuyện của nhà thờ, đến cả vụ giết người và hậu quả của nó, và vì thế câu chuyện ra đời. Tất nhiên, cuốn nhật ký đó sau này đã biến mất đầy bí ẩn.
Chứng cứ duy nhất là việc phát hiện ra bộ xương của một người phụ nữ trẻ không nằm trong quan tài ở một hầm mộ đằng sau nhà thờ vào thế kỷ mười chín. Đến lúc đó, vị cha xứ và vợ ông ta đã chết từ lâu. Bộ xương đó cùng với câu chuyện về vụ ngoại tình và giết người đã làm xôn xao dư luận hơn là gây ra sợ hãi. Những người già trong thị trấn thề là có chuyện phát hiện ra bộ xương đó. Còn những chuyện khác, theo như Rachel được biết, đơn thuần chỉ là suy đoán.
Nhưng phần đáng sợ là, trong một đêm mưa giống với cái đêm mà người ta cho rằng tội ác đã xảy ra, những người hay đùa ở địa phương đã nói rằng người ta vẫn nghe thấy tiếng cô nhạc công đã chết chơi đàn, ngồi chờ người tình tội lỗi của mình đến.
Bác Vir, người chưa bao giờ nói dối trong đời – theo như Rachel biết – đã thề là bác từng nghe thấy tiếng đàn ma quái đó hồi còn bé. Bác và vài người bạn đã rón rén vào sân nhà thờ, vừa sợ vừa thích thú, để nhìn tận mắt con ma – và quả nhiên, khi họ trèo lên một cửa sổ, tiếng đàn của bài “Amazing Grace” đã vang lên bên tai họ. Mấy cô gái sợ hãi chạy bán sống bán chết về nhà.
Nhiều năm sau, khi bác Vir đã kể câu chuyện đó không biết đến lần thứ bao nhiêu cho những đứa cháu gái mắt tròn xoe của mình, nó vẫn làm Rachel sợ đến dựng tóc gáy.
Lúc này ánh trăng đã trải lên nóc nhà thờ, làm cho nó như đang phát sáng. Trong bóng tối bên cạnh tòa nhà, một hình dáng ma quái dường như đang chuyển động, Rachel nhìn, rồi lại nhìn lần nữa, tưởng như trong giây phút đáng sợ ấy cô đã nhìn thấy thứ gì đó. Nhưng tất nhiên là chẳng có gì rồi. Cô biết điều đó rõ như là biết tên mình vậy. Tuy nhiên, cô vẫn suýt nữa đâm vào một cái cây khi ôm một đường cua trên đường.
Tưởng tượng thôi, tất nhiên rồi, Rachel kiên quyết bảo mình, mặc dù trong lòng bàn tay mồ hôi đang rịn ra. Chẳng có gì ngoài trí tưởng tượng cả.
Đến khi Rachel đến được cổng của Walnut Grove và rẽ vào đường dành cho ô tô, tim cô gần như đã trở về nhịp đập bình thường. Cô thấy toàn bộ ngôi nhà sáng bừng ánh đèn. Gần như mọi ô cửa sổ ở tầng dưới đều sáng, cả tầng trên cũng thế, chỉ có phòng ngủ đằng trước nơi bố cô thường ngủ là tối.
Có chuyện gì đó đã xảy ra. Điều đó làm Rachel kinh hãi.
Cô phanh kít xe lại, rồi nhảy ra và lao vào cửa trước. Cửa mở ra đúng lúc cô vừa đưa tay lên nắm đấm.
“Con đã ở chỗ quái quỷ nào thế?” Mẹ cô tức giận thì thào, mắt bà quét lên người Rachel và trợn lên trước những gì trông thấy.
“Có chuyện gì thế ạ? Bố làm sao ạ?” Rachel bỏ qua ánh mắt của Elisabeth, mặt cô trắng bệch, trong tim dâng đầy nỗi khiếp sợ phải đối diện với điều không thể tưởng tượng nổi.
“Bố con ổn.” Elisabeth có vẻ chán nản khi nhìn Rachel từ đầu đến chân một lần nữa. Dưới ánh sáng ở sảnh trước, bà không bỏ lỡ một chi tiết nào trong bộ dạng của con gái, từ chiếc váy màu xanh lục nhàu nhĩ, mái tóc rối bù, cho đến môi dưới hơi sưng. “Là Becky.
Con bé về nhà cách đây một tiếng cùng ba đứa trẻ. Nó khóc như mưa, và mẹ không thể hiểu được tại sao lại thế. Có thể con làm được đấy.”
“Becky.” Rachel nói, cảm thấy nhẹ nhõm hẳn. Dù là chuyện gì làm con bé phiền não thì cũng không ai chết. Máu cô đã đông cứng lại trước các khả năng có thể xảy ra. Mặc dù cô biết rất rõ rằng bố mình sẽ không bao giờ khỏe lại mà sẽ chỉ tiếp tục suy giảm thể lực cùng trí tuệ cho đến khi cái chết giải thoát cho ông, nhưng cô vẫn rùng mình trước ý nghĩ rằng ông đã rời khỏi cõi đời này.
“Con bé đâu ạ?” Rachel vừa giũ suy nghĩ sầu muộn đó ra khỏi đầu vừa hỏi.
“Trong thư viện. Mẹ đã làm cho nó món chocolate nóng. Nhưng nó không nói với mẹ. Nó chỉ khóc thôi.”
“Con sẽ đến xem sao.”
“Chờ chút,” Elisabeth nói và túm lấy tay Rachel. “Trước khi con đi, mẹ muốn biết con đã ở đâu. Đã quá nửa đêm rồi. Không có nơi nào trong thị trấn mở cửa muộn đến thế, và đừng nói với mẹ là con đi với Rob vì cậu ấy đã gọi điện để rủ con đi picnic vào ngày nghỉ lễ Lao động [1] rồi.”
[1] Ngày thứ hai đầu tiên của tháng 9 được chọn làm ngày lễ Lao động của Hoa Kỳ từ năm 1894, thường được coi như ngày lễ đánh dấu mùa hè đã kết thúc.
Mắt bà lại chiếu lên Rachel lần nữa ra vẻ thấu hiểu và đánh giá làm xương sống Rachel cứng lại còn cổ cô nóng bừng.
“Con lớn rồi, mẹ ạ. Nếu con muốn ở ngoài quá nửa đêm, đó là vấn đề của riêng con.”
Mặt Elisabeth căng thẳng, để lộ ra khuôn xương xinh đẹp đồng thời làm mặt bà trở về đúng với tuổi thật của mình. “Mẹ không còn hiểu con nữa, Rachel ạ”, bà nói. “Trước đây con luôn luôn khôn ngoan, đáng tin, thông minh về tất cả mọi chuyện. Nhưng gần đây, mẹ cảm thấy như thể mẹ không quen biết con vậy. Từ khi thằng Harris đó về thị trấn, con đã thay đổi. Tối nay con đã ở với nó. Đúng không?”
Elisabeth nhìn thẳng vào mắt con gái như thể bà có thể đọc được bí mật ẩn sâu trong đó.
“Nếu đúng thì sao hả mẹ?” Rachel khẽ đáp. “Chuyện đó khủng khiếp lắm ạ?”
Không chờ câu trả lời, cô rút tay ra khỏi tay mẹ và đến chỗ đứa em gái trong thư viện.