Mùa Hè

Chương 17: Chương 17




Charity nằm trên một cái nệm để trên sàn nhà giống như cái nệm mà xác mẹ mình được đặt trên đó. Căn phòng lạnh, tối và trần nhà thì thấp, nghèo hơn và trần trụi hơn cảnh nhà của Mary Hyatt trong cuộc lữ hành trần ai này. Bên cạnh bếp lò không có lửa, mẹ của Liff Hyatt ngủ trên một cái mền với hai đứa bé, bà nói chúng là hai đứa cháu của mình. Chúng đang nằm co rút tựa vào bà như hai chú chó con. Chúng nó chỉ có những miếng vải mỏng phủ lên vì đã nhường chiếc mền duy nhất cho khách.

Qua cửa kính hình vuông trên bức tường đối diện, Charity ngồi phía dưới ống khói nhìn ra bầu trời, quá đen, quá xa xôi, quá hồi hộp với những ngôi sao lạnh giá mà chính linh hồn nàng bị nhấn chìm trong đó. Trên một cõi xa xôi kia, nàng nghĩ, Thượng Đế mà ngài Miles đã cầu khẩn đang chờ đợi Mary Hyatt.

Chuyến đi dài bao lâu? Không biết mẹ nàng sẽ nói gì khi bà gặp Thượng Đế?

Đầu óc rối bời của Charity cố gắng làm việc để hình dung dĩ vãng của mẹ mình và kết hợp nó trong một cách nào đó để nhận được lòng khoan dung của Chúa, nhưng không dễ gì tưởng tượng được những mối liên quan giữa hai sự việc. Tự bản thân nàng đã thấy rất xa lạ với sinh vật đáng thương nghèo khổ đó. Chính mẹ nàng đã được hạ xuống lỗ huyệt một cách vội vã, và trời cao đã chia lìa hai mẹ con nàng. Nàng đã thấy cảnh nghèo khổ và sự bất hạnh về cuộc sống của mẹ mình, nhưng trong một cộng đồng xã hội nơi bà Hawes tằn tiện đáng thương và Ally cần cù đại diện cho sự gần giống nhất cảnh thiếu thốn, nhưng cũng không thể nào so sánh được với cảnh khốn cùng hoang dại của những người nông dân ở Núi này.

Khi nằm đó, choáng váng vì sự khởi đầu đầy bi kịch của mình, nàng cố gắng nghĩ về cuộc sống xung quanh. Nhưng nàng không thể hiểu rõ mối quan hệ của mình ra sao với mỗi người ở đây và cũng không biết sự liên hệ của họ với người mẹ vừa chết của mình. Dường như họ tụ tập sống thành đàn trong cái loại pha tạp thụ động, trong đó sự khốn cùng chung là mối dây liên kết mạnh nhất. Nàng cố gắng hình dung cuộc sống của mình nếu được lớn lên ở Núi: chắc là cũng chạy nhảy hoang dại trên những mảnh vải tả tơi trên người lúc ban ngày. Đêm đến ngủ chò co trên sàn nhà, đầu tựa vào mẹ mình giống như những đứa trẻ mặt mày tái mét nằm ngổn ngang cạnh bà già Hyatt, và quay mặt về phía cô gái dữ tợn đã buông ra những lời lẽ rất ư lạ lùng với mình. Nàng sợ mình có mối quan hệ thầm kín với cô gái này.

Những sự vật xung quanh cho nàng tia sáng để quyết định những bước khởi đầu của riêng mình. Nàng nhớ lại những gì mà ông Royall đã nói với Harney buổi tối hôm nào: “Phải, nó có một người mẹ, nhưng bà thích cho con gái mình đi. Bà ta phải cho nó đi với bất cứ người nào.”

Ừ! Sau cùng thì mẹ mình có đáng bị phê phán không nhỉ? Kể từ ngày đó Charity luôn nghĩ về tình cảm của con người đang sống trong cảnh bần hàn; bây giờ mẹ mình chỉ là một kẻ đáng thương. Làm sao một người mẹ có thể giữ con mình lại trong cuộc sống như thế này chứ? Charity nghĩ đến tương lai của đứa con mình, và lệ tuôn ra như suôi trên đôi má tê buốt. Nếu nàng không quá kiệt sức và ít nặng nề cơ thể hơn thì ắt hẳn nàng sẽ lao ra và cao chạy xa bay khỏi nơi đó.

Những giờ khắc ác nghiệt và bóng đêm chầm chậm trôi đi. Cuối cùng bầu rời cũng ló dạng ánh bình minh và một chùm tia sáng xanh, lạnh rọi vào phòng. Nàng nằm trong góc, nhìn trân trân vào sàn nhà bẩn thỉu, những bộ quần áo tả tơi treo lủng lẳng.

Bà già vứt bừa bãi các thứ vào lò, và dần dần ánh sáng bùng lên trong cái thế giới ảm đạm lạnh lẽo này. Một ngày mới bắt đầu mà trong đó nàng sẽ phải sống, lựa chọn, hoạt động và tạo cho mình một nơi ở, hoặc giữa những người này hay là phải trở về cuộc sống mà nàng vừa rời bỏ.

Một sự mệt mỏi chết người đè nặng trên nàng. Có những khoảnh khắc nàng cảm thấy tất cả những gì mình đòi hỏi là được tiếp tục nằm ở đó mà không bị phát hiện. Rồi trí óc nàng nổi dậy: mình phải rời khỏi nơi này để tránh cho đứa con khỏi số phận sống bầy đàn, khốn cùng. Vì vậy nàng cố gắng lấy lại sức mạnh để đi quãng đường xa dù là vạn dặm và dù có bất cứ gánh nặng nào đè xuống đôi vai mình.

Những ý tưởng lờ mờ về Nettleton thoáng qua óc nàng. Nàng nói với mình rằng nàng sẽ tìm một nơi nào đó yên tĩnh và có thể cưu mang đứa bé và nhờ người nào đứng đắn trông coi nó, rồi nàng sẽ đi tìm Julia Hawes và kiếm tiền để nuôi sống hai mẹ con. Nàng biết những cô gái loại này đôi khi chỉ kiếm đủ tiền để cho con cái họ được sống một cách chu đáo: con nàng sạch sẽ, tóc tai gọn gàng, mặt mũi hồng hào, và trốn đâu đó khi nàng có thể chạy vào vào ôm hôn nó, và mang nhiều quần áo đẹp về cho nó mặc. Bất cứ điều gì, bất cứ điều gì tốt hơn là cuộc sống trong cái tổ bần cùng như trên Núi.

Bà già và những đứa trẻ vẫn đang ngủ khi Charity nhổm dậy. Thân cứng đờ vì lạnh và mệt mỏi, nàng bước đi nhè nhẹ để không gây tiếng động làm họ thức giấc. Nàng lả đi vì đói, và cũng không còn gì trong túi xách của mình, nhưng nàng thấy có nửa ổ bánh mì cũ, ôi thiu trên bàn. Chắc là bữa ăn sáng của bà già Hyatt và lũ trẻ, nhưng Charity không cần biết, nàng đã có con trong bụng nên cần thứ thực phẩm này ngay bây giờ. Nàng xé một miếng bánh mì cho vào miệng và nhai ngấu nghiến, rồi nàng nhìn xuống những gương mặt ôrn nhom của hai đứa bé đang ngủ, lòng đong đầy hôi hận, nàng lục trong túi xách tìm xem có thứ gì đó để trả cho cái mình đã lấy. Nàng lấy ra một trong những chếc áo sơ mi mà Ally đã may cho nàng có dây ruy băng chạy viền trên mép áo. Nó là một trong những chiếc áo thanh nhã mà nàng đã lãng phí món tiền dành dụm của mình, và khi nhìn nó thì máu nàng chạy dồn lên trán. Nàng đặt chiếc áo sơ mi lên bàn và rón rén đến bên cửa như kẻ trộm, nhấc then cài cửa và đi ra.

Buổi sáng trời lạnh như băng và mặt trời mờ mờ đang mọc trên phía đông của Núi. Những mái nhà không bốc khói, nằm lạnh lẽo, lẻ tẻ bên cạnh đồi dưới những cụm mây xen lẫn những đốm sáng mặt trời. Không có một sinh vật nào trong khung cảnh đó. Charity dừng lại ở ngưỡng cửa và cố tìm con đường mà nàng đã đi tối qua.

Băng qua cánh đồng quanh căn chòi của bà Hyatt, nàng thấy một căn nhà đổ nát, nàng cho đó là nơi dành để phục vụ tang lễ. Giữa hai căn nhà, đường mòn chạy băng qua dải đất biến mất trong rừng thông trên hông Núi. Có một lối nhỏ ăn thông bên phải phía dưới một bụi gai bị gió thổi quần quật, có một ụ đất còn mới tinh lởm chởm gốc rạ tạo thành những chấm nâu vàng thẫm.

Charity băng qua cánh đồng đến dải đất. Khi đến gần, nàng nghe tiếng hót líu lo trong không gian tĩnh mịch, khi nhìn lên nàng thấy một chú chim sẻ đang đậu trên nhánh cây gai cao trên ngôi mộ. Nàng đứng yên một phút để lắng nghe bài ca cô đơn của nó; rồi nàng tiếp bước trên đường mòn và bắt đầu leo lên ngọn đồi vào rừng thông.

Tận đáy lòng, nàng bị thúc ép bởi bản năng mù quáng về chuyến đi. Nhưng mỗi bước chân dường như mang nàng đến gần sự thật hơn mà trong đêm vừa qua vì bồn chồn không ngủ đã cho nàng những hình ảnh không rõ rệt. Bây giờ nàng lại bước đi trong thế giới đầy ánh sáng ban ngày, trên con đường trở lại những thứ quen thuộc, sự tưởng tượng của nàng trở nên chín chắn hơn. Cùng một quan điểm, nàng vẫn còn quyết định là mình không thể ở lại North Dormer, và càng sớm xa rời nó thì càng tốt hơn. Nhưng ở một nơi nào đó thì vẫn còn mờ mịt tối tăm.

Nàng tiếp tục leo lên trong bầu không khí càng lúc càng trở nên lạnh thấu xương. Khi đi khỏi rặng thông, ngọn Núi đầy cỏ mở ra trong gió lạnh của đêm trước đã cách xa nàng. Nàng rụt đôi vai để chông cái lạnh trong một lúc, nhưng chẳng mấy chốc hơi thở lụn tàn, nàng ngồi trên một ghềnh đá có những cây bu-lô đong đưa bên dưới.

Từ chỗ ngồi, nàng thấy một đường mòn ngoằn ngoèo trong đám cỏ nhuộm trắng theo hướng đi đến Hamblin, và bức tường gra nit của Núi trải dài xa tít. Phía bên kia, một dải thung lũng vẫn còn nằm trong bóng râm lộng gió, nhưng trên đồng bằng, mặt trời ve vuốt những mái nhà và các tháp chuông nhà thờ trong làng bằng những tia nắng vàng óng trong cõi mờ sương trải dài đến tận những thành phố xa xôi mà mắt thường không nhìn rõ.

Charity cảm thấy mình chỉ là hạt bụi của vòng quay đơn độc trong bầu trời. Những sự kiện xảy ra trong hai ngày vừa qua dường như đã hoàn toàn chia cách nàng vĩnh viễn với giấc mộng hạnh phúc ngắn ngủi của mình. Ngay cả hình ảnh của Harney cũng bị lu mờ do những việc trải qua làm cho liểng xiểng: nàng nghĩ anh ta đang ở một nơi quá xa xôi đến nỗi hình ảnh anh ta khó tồn tại trong ký ức. Trong trí óc mỏi mệt và bềnh bồng chỉ có cảm giác nặng nề là thực tế, đó là cơ thể đang mang nặng đứa con mình. Nhưng vì việc này nàng ước gì mình giống như một nùi bông được gió mang đi. Con nàng là một khối nặng kéo trì nàng xuống, và như có một bàn tay nào đó kéo giữ bước chân nàng. Nàng tự nói với mình là phải đứng dậy và chiến đấu.

Nàng ngoái lại nhìn con đường mòn băng ngang qua đỉnh Núi, từ đằng xa nàng thấy một chiếc xe độc mã nổi bật trên nền trời. Nàng biết dáng bên ngoài đóng theo kiểu cổ của nó và một con ngựa gầy gò đầu thấp cúi về phía trước. Sau một lúc, nàng thấy một người to xác, nặng nề cầm dây cương. Chiếc xe ngựa theo đường mòn và lao thẳng vào rừng thông mà nàng đã leo lên, nàng biết chắc người lái xe đang tìm nàng. Ý nghĩa đầu tiên là núp vào một tảng đá bên dưới cho đến khi ông ta chạy ngang qua, nhưng bản năng trốn tránh bị chế ngự bởi cảm giác muốn có ai đó gần mình trong nơi hoang vắng kinh khủng này. Nàng đứng lên và đi thẳng về hướng xe ngựa.

Ông Royall nhìn thấy nàng nên dừng ngựa. Một vài phút sau ông đến bên cạnh Charity; đôi mắt họ gặp nhau nhưng không nói lời nào, ông nghiêng mình và giúp nàng lên xe.

Nàng cố gắng nói nhưng cà lăm, không giải thích nên lời. Ông Royall vừa kéo tấm vải che đôi gối nàng vừa nói một cách đơn giản: “Mục sư nói với tôi: ngài để em ở đây nên tôi đến đón.”

Ông quay đầu ngựa và họ bắt đầu đi chậm về hướng Hamblin. Charity ngồi lặng thinh, nhìn đăm đăm về phía trước, còn ông Royall thỉnh thoảng nói vài lời để khuyến khích con ngựa: “Đi dọc theo hướng đó, Dan. Tôi sẽ cho nó nghỉ một lúc ở Hamblin, nhưng tôi sẽ cho nó chạy nhanh hơn một chút để chống lại gió rít thổi lên đây.”

Nàng nghĩ, để đến tận đỉnh Núi lúc này ắt hẳn ông Royall phải rời North Dormer rất sớm trong cái giờ lạnh nhất ban đêm, phải đi không ngừng và chỉ tạm nghỉ ở Hamblin. Khi ông nói chuyện, lần đầu tiên nàng có lại một cảm giác dịu dàng trong tim mà lâu rồi nó không còn rung động dành cho ông, kể từ khi ông đã mang về cho nàng loại dây leo màu đỏ thẫm, sau ngày nàng không nhập học ở trường nội trú mà ở lại với ông.

Sau một lúc, ông lại nói: “Một ngày xa xưa giống như vầy, chỉ có tuyết lún phún rơi, khi tôi đến đón em lần đầu tiên ở đây.” Rồi như thể sợ rằng nàng có thể nhận ra lời bình luận của ông như là một sự nhắc lại quá khứ nhằm lấy lòng nàng, ông nhanh nhẩu nói thêm: “Tôi không biết em có nghĩ việc như vậy là tốt hay không?”

“Vâng, có.” - nàng thì thầm, nhìn thẳng phía trước.

“Ừ,” - ông nói - “tôi cố...”

Ông không nói hết câu, còn nàng thì cũng không nghĩ được điều gì để nói.

“Hô, đằng kia Dan, bước ra,” - ông càu nhàu, giật mạnh dây cương. “Chúng ta chưa đến nhà, em lạnh hả?” - ông thình lình hỏi.

Nàng lắc đầu nhưng ông kéo miếng đắp cao hơn, và cúi xuống để ấn nó vào xung quanh hai mắt cá chân. Nàng tiếp tục nhìn thẳng về phía trước. Những giọt lệ ràn rụa và sự mệt rũ làm mờ đôi mắt, nhưng nàng không dám lau chúng đi vì sợ ông phát hiện ra cử chỉ của mình.

Họ lái xe trong im lặng, theo sau những con đường vòng xuống Hamblin, và ông Royall không nói chuyện cho đến khi họ đến tận vùng ngoại ô của ngôi làng. Rồi ông để dây cương trên cái chắn bùn phía trước và xem đồng hồ.

“Charity!” - ông nói - “Em làm đúng. North Dormer là nơi đáng để lìa xa. Tôi thấy chúng ta nên dừng lại ở đây để em có đủ thời gian ăn một bữa điểm tâm no nê rồi lái xuống Creston để đón xe lửa.”

Nàng nhổm dậy từ sự mơ màng thờ ơ: “Xe lửa? Xe lửa nào?”

Ông Royall không trả lời và để ngựa đi chậm cho đến khi họ đến ngôi nhà đầu tiên trong làng: “Đây là nhà bà Hobart.” - ông nói - “Bà ấy sẽ cho chúng ta uống thức gì đó cho ấm lòng.”

Charity nửa mê nửa tỉnh, tự mình xuống khỏi xe ngựa và theo sau ông vào cửa đang mở. Họ vào một nhà bếp tươm tất có lửa đang cháy tí tách trong lò. Một bà già có khuôn mặt phúc hậu đang đặt những chiếc tách vào những chiếc đĩa nhỏ trên bàn. Bà nhìn lên gật đầu chào khi họ bước vào, ông Royall tiến về phía lò sưởi, vỗ vỗ hai bàn tay lạnh cóng của mình lại với nhau.

“Này, bà Hobart, bà có món điểm tâm nào cho cô gái trẻ này không? Bà xem, cô ấy vừa lạnh vừa đói.”

Bà Hobart mỉm cười với Charity và lấy bình cà phê trên bếp lửa. “Ôi Chúa ơi, nom cô tiều tụy quá!” - bà ta nói một cách xót thương.

Charity đỏ mặt, ngồi vào bàn. Một cảm giác hoàn toàn thụ động một lần nữa đến với nàng, giờ đây nàng hiểu rõ những cảm giác vui vẻ của con người khi được ấm áp và nghỉ ngơi.

Bà Hobart để bánh mì và sữa trên bàn, rồi ra khỏi nhà: Charity thấy bà dẫn ngựa ra vựa thóc ngang sân nhà. Bà không trở lại, ông Royall và Charity ngồi trơ trọi ở bàn với khói cà phê nghi ngút giữa họ. Ông rót ra một tách cà phê cho nàng, và để bánh mì vào đĩa nhỏ. Nàng bắt đầu ăn.

Khi hơi nóng cà phê lan dần trong mạch máu, ý nghĩ của nàng rõ ràng hơn và nàng bắt đầu cảm thấy như mình là một sinh vật được sống lại lần nữa; nhưng việc quay về cuộc sống quá đau đớn đến nỗi nàng nghẹn trong cổ họng và ngồi nhìn xuống bàn trong im lặng ê chề.

Sau một lúc ông Royall đẩy ghế ra phía sau. “Nào!” - ông nói - “Nếu em nghĩ mình phải lên đường thì...” Nàng không nhúc nhích và ông nói tiếp: “Chúng ta có thể đón chuyến xe trưa đến Nettleton nếu em muốn thế.”

Những lời lẽ đó đưa máu dồn lên mặt nàng, nàng giật mình nhướn cặp mắt lên nhìn ông đang đứng phía bên kia bàn nhìn nàng say đắm và buồn buồn. Nàng hiểu ra những gì mà ông sắp sửa nói. Nàng vẫn ngồi bất động.

“Em và tôi đã nói những điều khó chịu cùng nhau trong thời gian qua, Charity, và không có gì tốt để nói thêm bây giờ. Nhưng tôi sẽ không bao giờ cảm thấy có cách gì khác hơn là “vì em”. Nếu em muốn , chúng ta sẽ còn kịp giờ để đáp xe lửa rồi đến thẳng nhà vị mục sư, và khi em trở về nhà em sẽ có danh phận là bà Royall.”

Giọng ông có âm điệu buồn, thuyết phục mà đã làm cảm động người nghe ở buổi lễ Trở về Mái Nhà Xưa, nàng cảm thấy có sự khoan dung cực kỳ thương đau dưới cái giọng dễ chịu đó. Toàn thân nàng bắt đầu run lên lầy bẩy trong nỗi lo sợ sự mềm yếu của riêng mình.

“Ôi, tôi không thể!” - nàng bật ra tiếng kêu thất vọng.

“Không thể gì chứ?”

Bản thân nàng cũng không biết: nàng không chắc nàng nên nhận những gì ông sẵn sàng trao tặng hay là chiến đấu chống lại sức cám dỗ của việc nhận những gì mà nàng không còn có quyền nhận. Nàng đứng lên, run rẩy, bối rối và bắt đầu nói:

“Tôi biết tôi luôn luôn không công bằng với ông, nhưng bây giờ tôi muốn được...Tôi muốn ông biết... Tôi muốn...” - giọng nàng trở nên yếu và dừng lại.

Ông Royall tựa vào vách nhà. Ông tái xanh hơn bao giờ hết, nhưng gương mặt vẫn điềm tĩnh, tử tế và sự chông đối của nàng không làm xáo trộn ông.

“Tất cả những cái muốn đó là gì?” - ông nói khi nàng ngập ngừng - “Em có thật sự biết em muốn gì không? Tôi sẽ nói em nghe. Em muốn được đưa về nhà, được chăm sóc ân cần. Và tôi đoán đó là tất cả những gì em muốn.”

“Không... đó không phải tất cả...”

“Không phải sao?” - Ông nhìn đồng hồ - “Ừ để tôi nói cho em một điều khác. Tất cả mọi điều tôi muốn là em sẽ lấy tôi. Nếu có việc gì khác thì tôi sẽ cho em biết, nhưng không có. Ở vào tuổi tôi, một người đàn ông biết việc gì nên làm và việc gì không nên làm, đó là cách làm cho cuộc sống của chúng ta tốt hơn.”

Giọng của ông chắc nịch và cương quyết mà nó giống như cánh tay nâng đỡ quanh nàng. Nàng cảm thấy sự kháng cự của mình tan chảy, sức mạnh của nàng trôi xa khi ông nói.

“Đừng khóc, Charity!” - ông nói giọng run run. Nàng nhìn lên, giật mình vì sự xúc cảm của ông, và đôi mắt họ gặp nhau.

“Nhìn nè!” - ông nói một cách dịu dàng - “Con Dan già nua đã đi những dặm dường dài, và chúng ta đã để cho nó nghỉ ngơi giữa chặng đường.”

Ông ta lấy áo khoác của mình đã để trên ghế và choàng nó quanh vai nàng. Nàng theo sau ông ta ra khỏi nhà, và băng qua sân đến kho nơi con ngựa cột ở đó. Ông Royall đi ra đường mà không áo choàng. Charity vào xe và ông kéo tấm vải choàng phủ quanh nàng rồi lắc lắc dây cương. Khi họ đến cuối làng, ông quay đầu ngựa về hướng Creston.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.