Mùa Hè

Chương 2: Chương 2




Thư viện Hatchard Memorial mở cửa từ 3 giờ đến 5 giờ, điều đó có nghĩa là công việc thường giữ Charity Royall ở bàn giấy cho đến gần 4 giờ rưỡi.

Nhưng nàng chưa bao giờ nhận thấy có bất cứ một lợi ích thực tế nào cho North Dormer cũng như cho nàng. Nàng đã không đắn đo trong việc quyết định thư viện nên đóng cửa sớm hơn một tiếng đồng hồ. Sau khi chàng thanh niên tên Harney ra đi được một vài phút, nàng cương quyết để dây ren qua một bên, đóng sập cửa chớp, và khóa cửa “đền thờ tri thức” lại.

Vào lúc nàng đi ra, con đường vẫn vắng tanh: và sau khi nhìn tới nhìn lui nàng bắt đầu đi về phía nhà mình. Nhưng thay vì vào nhà, nàng đi luôn, quẹo ra cánh đồng, trèo lên đồng cỏ cạnh sườn đồi. Nàng đặt những thanh chắn cổng xuống, men theo một con đường mòn dọc theo bức tường đổ nát trên đồng cỏ, và đi cho tới tận một cái gò đất nơi có những bụi cây mỡ lợn với những chùm bông giống như đuôi sóc tung bay trong gió. Nàng nằm trên sườn dốc, ném mũ một bên và giấu mặt mình trong cỏ.

Nàng mù quáng và mê muội về nhiều thứ, chỉ biết chúng một cách mập mờ, nhưng đối với nàng tất cả là ánh sáng và không khí, mùi hương và màu sắc, mỗi giọt máu trong người nàng trả lời như thế. Nàng yêu ngọn Núi cao gồ ghề lởm chởm, yêu đám cỏ khô trong lòng bàn tay nàng, yêu mùi cỏ xạ hương mà nàng vùi mặt mình vào trong đó, yêu ngọn gió đang ve vuốt mái tóc, rồi len vào chiếc áo vải của nàng, và yêu tiếng kẽo kẹt của những cây mỡ lợn khi chúng dập dờn theo gió.

Nàng thường leo lên đồi và nằm đó một mình để tận hưởng cảm giác được gió hôn lên má và vùi mặt mình vào đám cỏ. Những lúc đó nàng không nghĩ đến bất cứ điều gì, chỉ nằm trong tư thế hoàn toàn thoải mái. Hôm nay cái cảm giác thư giãn được tăng lên bởi nàng đã trôn khỏi thư viện. Nàng thích có một người bạn ghé thăm và nói chuyện khi nàng đang làm việc, nhưng nàng ghét bị quấy rầy về việc sách vở. Làm sao nàng có thể nhớ nổi là chúng nằm ở đâu khi thỉnh thoảng có người hỏi tới? Orma Fry đôi khi lấy ra một quyển tiểu thuyết, còn anh trai nó thì thích cái gì đó gọi là “đại lý” (địa lý), và những cuốn sách liên quan đến thương mại hay việc quản lý một thương hiệu, nhưng không ai hỏi một thứ gì khác ngoại trừ thỉnh thoảng cũng có người hỏi quyển “Uncle Tom's Cabin (Túp lều của chú Tom)” hay quyển “Opening of a Chesnutt Burr” hay quyển “Longfellow (Tình đồng chí).” Nàng có những quyển này trong tay và có thể tìm thấy chúng trong bóng đêm, nhưng những nhu cầu đột xuất rất hiếm khi đến như vậy đã làm nàng phát điên lên giống như một sự bất công.

Nàng thích những cái nhìn của chàng trai trẻ, và đôi mắt cận thị của anh ta, cách nói chuyện kỳ quặc, rời rạc tuy nhiên nhẹ nhàng, chỉ có đôi bàn tay thì rám nắng và gân guốc nhưng những chiếc móng thì bóng mượt như móng tay của một phụ nữ. Tóc anh ta cũng cháy nắng hay gần như cái màu cây dương xỉ sau mùa đông lạnh giá, đôi mắt màu xám, với cái nhìn cận thị thu hút, cái mỉm cười e thẹn nhưng đầy vẻ tự tin như thể anh ta biết nhiều thứ mà nàng chưa từng mơ tới. Tuy nhiên nàng sẽ không để cho thế giới có được cái cảm giác là anh ta mạnh mẽ hơn nàng. Nàng đã nghĩ như thế và thích cái cảm giác ấy, vì đó là điều mới mẻ đối với nàng.

Nghèo và dốt nát như nàng, nàng tự biết bản thân mình: hèn mọn nhất trong sự hèn mọn ngay cả khi nàng ở North Dormer, nơi đó đã dung chứa nàng sau khi nàng đến từ Núi đã là một sự đáng thương nhất rồi. Nhưng trong cái thế giới bé nhỏ của mình, nàng luôn luôn theo qui tắc. Dĩ nhiên, theo một chừng mực nào đó, sự thật là bởi vì luật sư Royall là một người lớn nhất ở North Dormer, thật là lớn đấy, sự thật là những người bên ngoài không biết và luôn luôn tự hỏi làm sao ông giữ được địa vị như vậy. Cho dù mọi thứ, ngay cả bà cô Hatchard thì cũng phải tuân lệnh luật sư Royall vì ông điều hành vùng North Dormer. Còn Charity thì điều hành trong nhà luật sư Royall. Nàng không bao giờ đặt mình vào trong những thuật ngữ này, nhưng nàng biết mình có quyền, biết nó được làm bằng gì, và cũng ghét nó. Chàng trai trẻ trong thư viện làm cho nàng cảm thấy bôi rối và lần đầu tiên cảm nhận được cái gì gọi là sự ngọt ngào và sự dựa dẫm.

Nàng ngồi dậy, lấy ra những cọng cỏ dính trên tóc, rồi nhìn xuống ngôi nhà mà mình cai quản. Nó ở ngay dưới chân nàng, ủ rũ và không được giữ gìn, mặt tiền màu đỏ đã phai màu nằm cách con đường bởi một cái sân với một lối đi có những cây lí gai, một cây hạch quả um tùm làm vui mắt người đi qua và một cây leo màu đỏ thắm đong đưa đeo vào một vật chống đỡ hình cái quạt mà một lần ông Royall đã mang từ Hepburn về để làm vui lòng nàng. Miếng đất không bằng phẳng phía sau nhà lủng lẳng các dây phơi treo ngang qua bức tường khô khốc, và bên kia bức tường là một đám bắp rải rác sát nách vùng hoang vu của đá và cây dương xỉ.

Charity không thể nhớ lại cảnh tượng đầu tiên của ngôi nhà. Nàng được kể lại rằng nàng bị bệnh sốt vàng da khi nàng được mang từ trên Núi xuống, và nàng nhớ đã tỉnh lại trong một chiếc giường trẻ con dưới chân giường của bà Royall trong một căn phòng lạnh lẽo, sạch sẽ mà sau này nó thuộc về nàng.

Bà Royall đã chết bảy hay tám năm sau đó vào thời điểm này Charity tự lo hầu hết mọi việc cho mình. Nàng biết bà Royall buồn phiền, nhút nhát và yếu đuối, nàng biết rằng luật sư Royall lỗ mãng, hung dữ và còn yếu đuối hơn. Nàng biết rằng mình đã được rửa tội tại một ngôi thánh đường màu trắng ở cuối con đường làng để kỷ niệm tính không cầu lợi của ông Royall “trong việc mang nàng xuống” và cứu sống nàng. Trong nàng dâng lên cảm giác dựa dẫm; nàng biết ông Royall là người bảo hộ nàng nhưng ông không nhận nàng là con nuôi một cách hợp pháp mặc dù mọi người đều gọi nàng là Charity Royall; nàng cũng biết tại sao ông quay trở về sống ở North Dormer, thay vì hành nghề ở Nettleton nơi ông bắt đầu sự nghiệp luật pháp của mình.

Sau khi bà Royall qua đời có một vài người nói hãy gửi nàng đến một ngôi trường nội trú. Cô Hatchard đề nghị điều đó, đã có một cuộc trao đổi lâu và ông Royall đồng ý thực hiện kế hoạch của cô ấy. Rồi một ngày họ đã khởi hành đến Starkfield để thăm ngôi trường mà cô ấy giới thiệu. Đêm hôm sau, ông trở về với gương mặt âm u, tồi tệ hơn bao giờ hết, và kể từ giây phút ấy nàng đã có một chút kinh nghiệm cho mình.

Khi nàng hỏi lúc nào nàng sẽ đi, ông trả lời cụt ngủn: “Cháu sẽ không đi đâu hết”, và vào phòng mà ông gọi là văn phòng của mình rồi đóng cửa lại. Ngày hôm sau bà quản thủ trường ở Starkfield viết rằng “Do điều kiện của trường bà sẽ không thể làm thêm phòng cho một học sinh nào nữa.”

Charity thất vọng, nhưng nàng hiểu. Điều này không phải là những sự cám dỗ của Starkfield mà là sự tổn hại đến thanh danh của ông Royall, đó là ý nghĩ sẽ mất nàng. Ông là một người đàn ông quá đỗi cô đơn; nàng hiểu được điều ấy vì nàng cũng hết sức cô đơn. Ông và nàng, mặt đối mặt trong ngôi nhà buồn bã đó, trong tình trạng ngập tràn sự cô độc, mặc dầu nàng cảm thấy không có cảm giác đặc biệt nào đối với ông và cũng không có mảy may biết ơn. Nàng chỉ thương hại ông bởi vì nàng nhận ra một cách tỉnh táo rằng ông là người có quyền trên mọi người và rằng nàng chỉ là kẻ đứng giữa ông và sự cô đơn. Vì vậy vài ngày sau, khi cô Hatchard nói với nàng về chuyện trường học ở Nettleton, cô nói rằng có một người bạn của cô “sẽ sắp xếp mọi việc cần thiết”, thì Charity cắt ngang lời cô và tuyên bố rằng nàng đã quyết định không đi Nettleton.

Cô Hatchard trình bày lý do một cách tử tế, nhưng không có chủ đích gì, cô nói: “Tôi đoán là ông Royall sẽ cô đơn lắm.”

Cô Hatchard chớp mắt một cách bối rối sau cặp mắt kính của cô. Gương mặt dài mỏng mảnh đầy vết nhăn, cô chồm về phía trước, để hai bàn tay trên tay vịn của chiếc ghế bành bằng gỗ gụ với một mong muốn rõ ràng được nói những gì phải nói.

“Cảm xúc tạo niềm tin cho con, bé cưng.”

Nàng nhìn quanh những bức tường xanh nhợt trong phòng khách, theo dõi sự bàn bạc rập khuôn theo kiểu truyền thống và mô phạm, nhưng dường như họ phát biểu có vẻ khó khăn hơn.

“Sự thật là không chỉ - không chỉ vì những lợi ích mà còn có những lý do khác nữa. Con còn quá nhỏ để hiểu.”

“Ôi, không, cháu không!” - Charity nói cộc lốc; cô Hatchard thì đỏ bừng mặt tới tận chân tóc. Nhưng nàng hiểu lờ mờ câu nói của cô trong việc giải thích ngắn gọn bằng cách kết luận rằng: “Dĩ nhiên là ta luôn luôn làm những điều ta có thể làm cho cháu trong trường hợp... trường hợp... cháu biết là cháu có thể luôn luôn đến tìm ta.”

Luật sư Royall đứng ở ngưỡng cửa đang chờ Charity về từ cuộc thăm viếng này. Ông đã cạo râu và chải chuốt trong chiếc áo choàng màu đen, và trông ông giống như một tượng đài tráng lệ. Ở khoảnh khắc đó nàng thật sự ngưỡng mộ ông.

“Nè!” - ông nói - “Mọi việc xong như đã định rồi chứ?”

“Dạ, đã xong rồi. Cháu sẽ không đi.”

“Không đến trường học ở Nettleton hả?”

“Không đi đâu hết.”

Ông hắng giọng và hỏi một cách nghiêm nghị: “Tại sao?”

“Cháu không thích đi!” - nàng nói, rồi nhún nhẩy ngang qua ông và chạy thẳng về phòng mình. Một tuần sau ông mang về cho nàng loại hoa leo màu đỏ thắm từ vùng Hepburn. Ông chưa bao giờ cho nàng bất cứ thứ gì trước đó.

Một sự kiện đáng nhớ kế đến gắn liền vào cuộc đời nàng đã xảy đến hai năm sau khi nàng mười bảy tuổi. Luật sư Royall, người ghét đi đến Nettleton, đã được triệu tập đến đó trong sự liên quan đến một vụ án. Ông vẫn còn trau dồi nghề nghiệp của mình mặc dầu những vụ kiện tụng hiếm khi có ở North Dormer hay ở những ngôi làng nhỏ ngoại ô, có một lần ông có một cơ hội mà ông không đủ sức từ chối. Ông ở Nettleton ba ngày, thắng vụ kiện và trở về trong tâm trạng vui vẻ. Tâm trạng đó hiếm khi thấy ở ông. Ông tự bộc lộ mình trong cái dịp ông nói chuyện một cách gây ấn tượng ở bàn ăn tối và các bạn ông đã phấn khích chào đón ông ra sao. Rồi ông nói một cách tự tin rằng: “Tôi là một thằng khờ đáng nguyền rủa vì đã rời bỏ Nettleton. Chính bà Royall đã bảo tôi làm thế.”

Tức khắc Charity nhận ra rằng một điều gì đó cay đắng hơn đã xảy đến với ông, và rằng ông đang kiềm chế sự hồi tưởng đó. Nàng đứng lên vào giường sớm, để ông một mình ngồi đó trong suy tư ủ rũ, hai cùi chỏ chống trên bàn ăn mà vải phủ đã sờn mòn và dính đầy dầu mỡ. Trên đường đi lên lầu, nàng rút từ túi chiếc áo khoác ra chiếc chìa khóa tủ - nơi cất giữ một chai rượu uých ky.

Nàng tỉnh giấc do có tiếng kêu lạch cạch ở cửa và nhảy phắt ra khỏi giường. Nàng nghe tiếng ông Royall, nhỏ và kiên quyết, rồi nàng mở cửa, nhưng khi nhìn thấy ông ở khung cửa, một ánh trăng thu rọi trên gương mặt lo âu, bối rối của ông, nàng hiểu.

Họ nhìn nhau một lúc trong im lặng, rồi khi ông ta dợm bước qua ngưỡng cửa, nàng dang rộng tay ra ngăn ông lại.

“Ông ra ngay!” - nàng nói trong một âm sắc the thé làm chính nàng cũng phải hoảng sợ - “Ông sẽ không có được chìa khóa đó đâu.”

“Charity, hãy để ta vào. Ta không muốn chìa khóa. Ta là một người đàn ông cô đơn!” - ông bắt đầu trong một giọng nói rất buồn mà đôi khi đã làm nàng mủi lòng.

Trái tim nàng giật thót như có ai đâm vào, nhưng nàng vẫn tiếp tục giữ ông lại với vẻ khinh khỉnh. “Vâng, thưa ông, cháu nghĩ ông đã phạm sai lầm. Đây không còn là căn phòng của vợ ông lâu lắm rồi.”

Nàng không sợ nhưng chỉ vì nàng thấy quá gớm ghiếc. Có lẽ ông cũng nhận ra được điều đó trên gương mặt của nàng, sau khi nhìn trừng trừng vào nàng một lúc, ông rút lui và quay đi chầm chậm khỏi ngưỡng cửa phòng nàng. Đặt tai vào lỗ khóa nàng nghe ông đi xuống những bậc thang tối om và hướng về phía nhà bếp. Nàng chờ đợi tiếng loảng xoảng của cái cửa tủ, nhưng sau một lúc thay vì đập phá, ông mở cửa nhà và bước những bước nặng nề trong tĩnh lặng đi xuống con đường mòn. Nàng rón rén đến bên cửa sổ và thấy ông cúi mình sải bước dưới ánh trăng. Rồi cảm giác sợ hãi muộn màng đến với nàng sau sự tỉnh táo chiến thắng, nàng chui tọt vào giường, cảm thấy lạnh thấu xương.

Vài ngày sau Eudora Skeff đáng thương, người mà đã hai mươi năm trông coi thư viện Hatchard đã đột ngột qua đời do bệnh viêm phổi. Một ngày sau tang lễ, Charity đến gặp cô Hatchard, và xin được bổ nhiệm làm quản thủ thư viện. Lời thỉnh cầu dường như làm cho cô Hatchard ngạc nhiên: rõ ràng là cô ấy cần những ứng viên mới và có khả năng.

“Tại sao, cô không hiểu, cháu yêu. Không phải cháu còn quá trẻ hay sao?” - cô ấy ngập ngừng.

“Cháu muốn kiếm một ít tiền!” - Charity trả lời một cách đơn giản.

“Ông Royall không cho cháu tất cả những gì cháu cần hay sao? Không ai giàu có hơn ông ở North Dormer.”

“Cháu muốn kiếm đủ tiền để ra đi.”

“Ra đi ư?” - Cô Hatchard bối rối làm cho những vết nhăn càng sâu hơn, và có một sự ngập ngừng đầy đau đớn. “Cháu muốn rời bỏ ông Royall ư?”

“Phải. Cháu muốn có một phụ nữ khác ở chung nhà với cháu.” - Charity nói một cách dứt khoát.

Cô Hatchard siết chặt hai bàn tay vào tay vịn chiếc ghế cô đang ngồi, hồi hộp. Đôi mắt của cô nhìn lên bức tường đầy vẻ nghiêm nghị, và sau một tiếng ho nhỏ trong sự thiếu quả quyết cô nói: “Việc nhà quá vất vả cho cháu, ta tin là như vậy, có phải không?”

Trái tim Charity nhói lạnh. Nàng hiểu rằng cô Hatchrad đã không có cách gì giúp nàng và có lẽ cô sẽ phải đuổi nàng đi trong cảnh khó khăn cô độc. Một sự thấm thía về sự cô độc bao phủ lấy nàng; nàng cảm thấy điều này từ lâu lắm rồi. “Cô ấy chẳng biết gì nên nói giống như một đứa trẻ.” nàng có lòng trắc ẩn dành cho cô Hatchard, hèn chi người ta nói cô ấy già nhưng chưa trưởng thành. “Vâng, đúng vậy.” - nàng nói to. “Công việc nhà quá vất vả với cháu. Cháu thật sự ngất ngư muốn ngã quỵ đây này.”

Nàng nhận ra hiệu quả tức thời của lời đề nghị này. Cô Hatchard vẫn còn bàng hoàng trong cái ký ức về sự ra đi của Eudora và hứa sẽ làm những gì cô có thể. Nhưng dĩ nhiên là còn có những người mà cô cần bàn bạc như: vị giáo sĩ, những nhân vật có trách nhiệm ở North Dormer và những người có liên quan xa với cô Hatchard ở Springfield. “Nếu cháu muốn đi học!” - cô ấy thở dài. Cô theo Charity ra cửa và ở đó trong sự an toàn của ngưỡng cửa, cô ấy nói như để lảng tránh với một cái liếc nhanh: “Cô biết ông Royall đã... nhiều lần... vợ ông đã khổ sở vì ông, và cháu phải nhớ, Charity, rằng ông Royall đã mang cháu từ trên Núi xuống.” Charity trở về nhà và mở cửa “văn phòng” của ông Royall. Ông đang ngồi đó bên cạnh lò sưởi đọc các bài phát biểu của Daniel Webster. Họ cũng gặp nhau trong các bữa ăn suốt năm ngày đã trôi qua từ khi ông đến cửa phòng nàng, và nàng đã đi cạnh ông trong ngày tang lễ của Eudora, nhưng họ không nói với nhau lời nào.

Ông nhìn lên trong sự kinh ngạc khi nàng bước vào, và nàng nhận thấy ông không cạo mặt nên trông già hơn mọi ngày, nhưng vì nàng luôn luôn nghĩ ông là một ông già nên sự thay đổi dung mạo không làm nàng cảm động. Nàng bảo cho ông biết nàng đã đến gặp cô Hatchard với mục đích gì. Nàng thấy ông ngạc nhiên, nhưng ông không có một lời bình luận nào.

“Cháu đã bảo với cô ấy là việc nhà quá vất vả cho cháu, và cháu muốn kiếm đủ tiền để trả tiền thuê một cô gái. Nhưng cháu sẽ không trả cho người ta mà ông phải trả. Cháu muốn có một ít tiền cho riêng cháu.”

Đôi lông mày đen rậm rạp của ông Royall nhíu lại, những chiếc móng tay dính mực thì gõ gõ trên mép bàn.

“Cháu muốn kiếm tiền để làm gì?”

“Để ra đi khi nào cháu muốn.”

“Tại sao cháu muốn ra đi?”

Sự khinh miệt của nàng bộc phát: “Bộ ông nghĩ ai cũng muốn ở North Dormer sao nếu họ không thể sống được? Ông cũng không muốn đâu, người ta nói vậy đó!”

Với cái đầu cúi thấp ông hỏi: “Cháu sẽ đi đâu?”

“Bất cứ nơi đâu mà cháu có thể kiếm sống. Cháu sẽ cố ở đây trước, và nếu cháu không kiếm được gì ở đây thì cháu sẽ đi một vài nơi khác. Cháu sẽ lên Núi nếu cháu phải đi.” Nàng dừng lại một lát rồi nói tiếp: “Cháu muốn ông nói với cô Hatchard và những người trong ủy ban để cháu làm ở thư viện và muốn một người phụ nữ ở trong căn nhà này với cháu.” - nàng lặp lại.

Ông Royall trở nên cực kỳ bối rối. Khi nàng dứt câu ông đứng lên một cách chậm chạp, tựa mình vào bàn, và trong vài giây cả hai nhìn vào nhau.

“Này em!” - ông nói kéo dài như thể sự phát âm rất khó khăn - “Có một vài điều ta muốn nói với em mà trước đây lẽ ra ta phải nói. Ta muốn cưới em.”

Cô gái vẫn nhìn trừng trừng vào mặt ông không chút cảm xúc. “Anh muốn em lấy anh!” - ông lặp lại, hắng giọng - “Ngài giáo sĩ sẽ đến đây vào Chủ Nhật tới và rồi chúng ta sẽ sắp xếp mọi thứ. Hay là để anh đưa em đến văn phòng công chứng ở Hepburn, và mọi việc sẽ diễn ra ở đó. Anh sẽ làm bất cứ điều gì em muốn.” Đôi mắt ông cụp xuống dưới cái nhìn chằm chằm đầy nhẫn tâm mà nàng tiếp tục dành cho ông, rồi ông chuyển sức nặng không dễ chịu gì của chân này sang chân kia. Khi ông đứng trước mặt nàng, với dáng vẻ đồ sộ, tiều tụy, bối rối, những chiếc gân tím ấn xuống mặt bàn và chiếc quai hàm dài của nhà hùng biện rung lên trong sự cố gắng để tuyên bố, ông nhại văn của ông bà cha chú nào đó mà nàng đã biết rồi.

“Lấy ông ư, tôi hả?” - Nàng ưỡn ngực ra cười khinh bỉ - “Có phải đêm hôm trước ông đến để hỏi tôi việc đó phải không? Tôi tự hỏi ông là cái thứ người nào vậy? Đã bao lâu rồi ông không nhìn mình trong gương hả?” Nàng đứng thẳng người, tỉnh táo một cách xấc láo của tuổi trẻ đầy sức mạnh: “Tôi cho là, ông nghĩ rằng cưới tôi sẽ rẻ hơn là mướn người làm phải không. Mọi người đều biết ông là một người gần gũi với tôi nhất ở hạt Eagle này, nhưng ông không còn cơ hội hàn gắn nó lần thứ hai đâu.”

Ông Royall bất động trong lúc nàng nói. Gương mặt u ám như bị tro bao phủ và đôi lông mày đen của ông ta giật giật như thể cơn cuồng nộ khinh bỉ của nàng trùm lấy ông. Khi nàng dừng lại, bàn tay ông nắm chặt.

“Thôi được, sẽ làm như thế” - ông nói rồi quay ra cửa, và lấy cái nón trên móc. Trên ngưỡng cửa ông ngập ngừng: “Người ta không công bằng với anh - từ lúc đầu họ đã bất công với anh rồi.” Sau đó ông đi ra ngoài.

Một ít ngày sau cả vùng North Dormer rất kinh ngạc vì Charity đã được bổ nhiệm làm quản thủ thư viện Hatchard Memerial với mức lương 8 đô la một tháng và bà Verena Marsh, từ Creston Almshouse đến ở nhà luật sư Royall lo việc nấu nướng.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.