“Các ngài, là bọn lính!” Fanfulla kêu lên. “Chúng ta bị lộ rồi!”
Mọi người trao đổi ánh mắt cứng cỏi, lo lắng nhưng không ai lộ vẻ hoảng hốt khiếp sợ.
Bá tước Aquila từ tốn đứng dậy, cả đám quý tộc cùng đứng lên, nhất loạt với lấy vũ khí của mình. Chàng Bá tước khẽ thốt ra một cái tên – “Masuccio Torri.”
“A,” Lodi thốt lên cay đắng, “giá mà chúng tôi lưu tâm đến lời cảnh báo của ngài! Không còn ai khác ngoài Masuccio, thế thì theo gót gã hẳn là năm mươi tên lính đánh thuê.”
“Tôi có thể thề là không ít hơn đâu, cứ nghe tiếng bước chân thì biết,” Ferrabraccio tiếp lời. “Còn chúng ta chỉ có sáu người, không có áo giáp.”
“Bảy chứ,” chàng Bá tước thản nhiên đính chính, vừa với lấy chiếc mũ rộng vành vừa tuốt kiếm ra khỏi vỏ.
“Không được đâu, thưa ngài,” Lodi kêu lên, đưa tay giữ chàng lại. “Ngài không thể ở lại đây. Ngài là hi vọng duy nhất của chúng tôi – hi vọng duy nhất của Babbiano. Cho dù chúng tôi bị bại lộ thật – mặc dù tôi không hiểu nổi vì đâu – và chúng đã biết có sáu kẻ mưu phản hẹn gặp nhau ở đây đêm nay để lật đổ ngai vàng của Gian Maria, tôi xin thề rằng ít nhất không ai có thể biết ngài đến đây gặp chúng tôi. Công tước có thể sẽ nghi ngờ, nhưng ông ta không thể biết chắc. Và chỉ cần ngài trốn thoát, ông ta sẽ không làm gì được cả – chỉ trừ với chúng tôi, nhưng cũng chẳng đáng tiếc. Xin hãy đi ngay, thưa đức ngài! Hãy nhớ ngài đã hứa với chúng tôi rằng sẽ yêu cầu anh họ ngài trao cho ngài quyền chỉ huy quân đội, cầu Chúa và các Thánh thần giúp Bá tước thành công.” Viên quý tộc già nâng bàn tay chàng Bá tước trẻ lên, cúi đầu xuống, mái tóc dài bạc trắng xõa xuống che kín mặt, ông hôn tay chàng cung kính. Nhưng Bá tước Aquila không dễ bỏ cuộc.
“Các ngài buộc ngựa ở đâu?” chàng hỏi.
“Phía sau lều. Nhưng ai dám cưỡi ngựa lao xuống sườn dốc đang khi tối tăm thế này chứ?”
“Tôi dám,” chàng Bá tước trẻ đáp quả quyết. “Và tất cả các ngài cũng sẽ dám. Gãy cổ là chuyện tệ hại nhất có thể xảy đến với chúng ta, và đối với tôi, gãy cổ vì vách đá ở Sant’ Angelo hay lìa đầu dưới tay đao phủ ở Babbiano cũng chẳng khác gì nhau cả.”
“Thề có Đức Mẹ đồng trinh, ngài quả đáng mặt anh hùng!” Ferrabraccio hô to. “Lên ngựa thôi, các quý ông!”
“Nhưng đường xuống duy nhất cũng chính là con đường bọn lính đang đi lên,” Fanfulla băn khoăn. “Các phía khác toàn là vách đá dựng đứng.”
“Thế sao, anh bạn trẻ bảnh trai, vậy chúng ta đi chào mừng chúng nào,” Ferrabraccio hồ hởi đáp. “Bọn chúng đi bộ, và chúng ta sẽ cuốn phăng chúng đi như một cơn lũ quét vậy. Đi thôi, các ngài, khẩn trương lên chứ! Bọn chúng đang lại gần kìa.”
“Chúng ta có bảy người, nhưng chỉ có sáu con ngựa,” một người phản đối.
“Tôi không có ngựa,” Francesco lên tiếng. “Vậy tôi sẽ đi bộ theo sau các ngài.”
“Cái gì?” Ferrabraccio, người lúc này có vẻ đang chỉ huy cả nhóm, kêu lên. “Để vị cứu tinh của chúng ta lại phía sau ư! Không, không đời nào. Ông bạn Lodi này, ông bạn quá già để làm vụ này rồi.”
“Quá già?” Bị chạm tới lòng kiêu hãnh của một hiệp sĩ, ông lão đứng thẳng dậy, thân hình vẫn vạm vỡ hiên ngang, đôi mắt như tóe lửa. “Nếu vào lúc khác, Ferrabraccio, tôi sẵn sàng cho ngài thấy còn bao nhiêu sức trai tráng trong tấm thân già nua này. Nhưng...” Ông ngừng lời. Đôi mắt đang bừng lửa giận của ông bỗng dịu hẳn đi khi nhìn về phía chàng Bá tước đang đứng bên ngưỡng cửa, và vẻ mặt ông thay đổi hẳn. “Ngài có lí, Ferrabraccio, tôi thực sự đã già rồi – một kẻ vô dụng. Hãy dùng ngựa của tôi đi mau đi.”
“Nhưng còn ngài?” Bá tước lo lắng hỏi lại.
“Tôi sẽ ở lại đây.
Nếu các ngài thu hút sự chú ý của chúng thì chúng sẽ không để ý đến tôi đâu. Chúng không thể ngờ vẫn còn một người ở lại. Tất cả bọn chúng sẽ chỉ đuổi theo các ngài một khi các ngài đã đánh thốc qua chúng. Đi mau, các ngài, kẻo muộn mất.”
Họ khẩn trương làm theo lời ông lão. Fanfulla và một người nữa cuống cuồng chạy đi tháo dây buộc ngựa, chỉ lát sau cả sáu người đều đã lên ngựa, sẵn sàng cho cuộc đào thoát liều lĩnh. Màn đêm đã buông xuống hẳn, tuy vậy trời cũng không tối lắm. Bầu trời đầy sao, trong vắt không một gợn mây, vầng trăng đầu tháng tỏa ánh sáng mờ mờ xuống con đường núi họ chuẩn bị đi. Nhưng bóng đêm phủ trên lối mòn hiểm trở đầy bất trắc vẫn thừa đủ để biến việc xuống núi trở thành chuyện thí mạng.
Ferrabraccio, biết rõ hơn các chiến hữu về con đường mòn, bèn đi xuống đầu tiên, chàng Bá tước đi song song. Sau họ, lần lượt hai người một, bốn người còn lại thúc ngựa theo. Toán người dừng ngựa lại ở một đoạn đường ăn sâu vào dưới vách núi dựng đứng lù lù bên tay trái họ. Từ vị trí đó, ánh trăng đủ để toàn bộ sườn núi hiện rõ trong tầm mắt. Tiếng bước chân nặng nề rõ dần lên và mỗi lúc một gần, lẫn trong đó đã có thể nghe thấy tiếng áo giáp va vào nhau. Phía trước là con đường mòn chạy thoai thoải xuống đến đoạn rẽ đầu tiên, cách họ chừng trăm thước. Dưới chân họ, về bên tay phải, con đường mòn ngoằn ngoèo xuất hiện trở lại trong tầm mắt, nhô ra ngoài sườn núi một đoạn chừng sáu thước, Fanfulla thoáng nhận ra ánh trăng phản chiếu lấp lánh trên áo giáp. Chàng trai liền kéo Ferrabraccio lại quan sát, và lập tức người chiến binh gan góc ra lệnh xuất phát. Nhưng Francesco ngăn lại.
“Nếu làm vậy,” chàng phản đối, “chúng ta sẽ phải vòng qua đoạn rẽ trước khi giáp mặt chúng, mà ở đoạn rẽ, chúng ta sẽ phải hãm ngựa để tránh bị quá đà lao xuống vực. Hơn nữa, nếu phải rẽ ngoặt đột ngột, ngựa của chúng ta có thể bị vấp chân. Cho dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng không thể có được lợi thế như khi lao vào chúng lúc chúng đã ở trên đoạn đường thẳng đối diện được. Bóng của vách núi ở đây sẽ làm chúng không phát hiện được chúng ta.”
“Ngài có lí, ngài Bá tước. Chúng ta đợi chúng ở đây vậy,” Ferrabraccio lập tức đồng ý. Trong khi họ chờ đợi, ông cứ cằn nhằn bực bội.
“Khi không lại đi rúc đầu vào bẫy! Quỷ tha ma bắt! Thật đúng là rồ dại, khi không đi hẹn với gặp ở cái lều hũ nút chỉ có mỗi một lối vào.”
“Hoặc chúng ta cũng có thể trèo xuống vách đá phía sau lều,” Francesco đáp.
“Cái đó thì hẳn rồi... nếu chúng ta là chim sẻ hay linh miêu. Nhưng đã trót là người, chúng ta chỉ còn mỗi con đường này thôi – một tử lộ thì đúng hơn. Ngài Bá tước này, tôi vẫn muốn mai đây được an táng ở Sant’ Angelo,” ông tiếp tục với giọng bông lơn. “Kể cũng gần, tiện quá; một khi đã lao ra khỏi sườn núi, tôi dám cược là không gì có thể ngăn nổi tôi tới khi tôi xuống đến tận thung lũng – thành một cái túi da đựng xương gãy.”
“Các bạn của tôi, sẵn sàng nào,” Bá tước thấp giọng. “Chúng đến rồi.”
Vòng qua quãng ngoặt định mệnh đó, một toán lính đang tiến lại gần – tất cả đều đội mũ sắt, mặc áo giáp, giáo vác trên vai. Chợt toán lính dừng lại giây lát, nhóm người đang chờ đợi gần như tin chắc mình đã bị phát hiện. Nhưng rồi họ cũng nhận ra bọn lính dừng lại để đợi những đồng bọn còn rớt phía sau. Masuccio là kẻ thận trọng; gã sẽ không liều lĩnh tấn công trước khi năm chục tên lính đánh thuê có mặt đầy đủ.
“Lên,” chàng Bá tước khẽ phát lệnh, đồng thời kéo sụp chiếc mũ rộng vành xuống sát lông mày để che bớt mặt. Rướn người trên bàn đạp, kiếm vung cao, chàng phát lệnh một lần nữa. Nhưng lần này không còn là lời nói thầm nữa. Lanh lảnh như tiếng kèn hiệu, tiếng hô xung trận của chàng vang vọng theo sườn núi.
“Xông lên! Có Thánh Michael và Đức Mẹ đồng trinh che chở chúng ta!”
Tiếng hô vang rền, cộng với tiếng vó ngựa rầm rập theo cùng khiến bọn lính đánh thuê khựng lại. Tiếng Masuccio vang lên ra lệnh cho bọn lính đứng sát lại thành hàng rồi quỳ một gối, chống giáo xuống đất chĩa về phía trước; vừa chửi thề gã vừa trấn an thủ hạ rằng chúng chỉ phải đối phó với sáu người. Nhưng âm thanh vọng lại bị vách núi khuếch đại lên, tựa hồ không phải chỉ sáu người mà là cả một trung đoàn kị binh đang lao tới. Bất chấp sự ngăn cản của Masuccio, những tên lính tiên phong bèn quay đầu bỏ chạy, và đúng lúc đó đoàn kị sĩ liền ập tới, lao qua đám lính, đúng như Ferrabraccio đã nói, một cơn lũ.
Trước khi đoàn kị sĩ gặp sự chống trả đầu tiên thì một tá lính Thụy Sĩ đã gục ngã dưới vó ngựa, cũng chừng ấy tên bị dạt sang bên rồi lộn cổ xuống vực. Khi đã nhận ra số lượng ít ỏi của những người tấn công, đám lính còn lại của Masuccio mới ra sức lao lên cản họ lại. Bọn lính giương ngọn giáo lên tấn công, và trong khoảnh khắc, trận chiến diễn ra ác liệt trên con đường hẹp ấy. Không gian ngập tràn tiếng binh khí chém vào nhau chan chát, tiếng chân người và vó ngựa, tiếng la thét và chửi rủa của những kẻ trúng thương.
Bá tước Aquila, luôn xông lên hàng đầu, xả thân chiến đấu. Chàng tấn công đối phương không chỉ với thanh kiếm, mà cả bằng con ngựa chàng đang cưỡi. Ghì cương kéo ngựa đứng dựng lên bằng hai chân sau, chàng thúc nó xoay tròn rồi thình lình đạp xuống vào những lúc không ngờ, đồng thời vung kiếm chém xả xuống. Một cách vô ích, bọn lính cố gắng dùng giáo đâm gục con ngựa của chàng; những đòn tấn công của chàng Bá tước bất thần và dữ dội đến mức chưa kịp thực hiện ý định thì chúng đã phải dạt ra để bảo toàn tính mạng.
Tấn công dữ dội, chàng dần dần mở được một con đường máu, và vận may luôn mỉm cười với chàng, những nhát giáo điên giận dành cho chàng khi chàng xông tới đều lao vào không khí. Cuối cùng chàng gần như đã vượt qua được vòng vây của đám lính đánh thuê, chỉ còn ba gã đứng cản mũi. Một lần nữa con ngựa của chàng lại đứng dựng lên, thở phì phì, hai chân trước vung lên đạp ra trước liên tiếp, hai tên lính liền nhào sang bên để tránh. Nhưng tên còn lại, một gã can trường cứng cỏi, bèn quỳ một gối xuống đất, chĩa thẳng vào bụng ngựa. Francesco cố hết sức để cứu con vật đã vì chàng mà can đảm đến thế, nhưng đã quá muộn. Con ngựa ập xuống ngọn giáo đã đợi sẵn. Hí lên một tràng thê thảm, nó đổ sập xuống kẻ thù, đè bẹp gã dưới thân hình nặng nề, trong khi chàng kị sĩ bị hất văng về phía trước lộn xuống đất. Ngay lập tức chàng đứng phắt dậy, cho dù bị choáng bởi cú ngã, kiệt sức vì mất máu từ vết thương do giáo đâm vào vai – vết thương mà chàng vẫn không hề nhận ra trong cơn ác chiến. Hai tên lính lao lại phía chàng – chính là hai gã vừa bỏ chạy trước mặt chàng. Tin chắc giờ phút cuối cùng đã tới, chàng Bá tước quay lại đối đầu, đúng lúc đó Fanfulla degli Arcipreti, vẫn luôn luôn theo sát chàng suốt trận kịch chiến, liền đổ ập xuống hai kẻ tấn công từ phía sau, xéo gục cả hai tên dưới vó ngựa. Đến bên cạnh Bá tước, chàng trai ghìm cương, cúi xuống đưa tay ra.
“Đức ông, xin hãy leo lên ngồi sau lưng tôi,” chàng trai trẻ giục.
“Không kịp đâu,” Francesco đáp, chàng đã nhìn thấy sáu tên lính đang lao tới gần. “Tôi sẽ nắm lấy dây bàn đạp của cậu, thế này được rồi. Chạy mau!” Rồi không đợi Fanfulla tuân lời, chàng dùng kiếm đập mạnh vào mông ngựa khiến nó lao vọt đi. Cứ như vậy giờ đây họ lại tiếp tục cuộc lao dốc liều lĩnh, Fanfulla cưỡi ngựa, còn chàng Bá tước lúc chạy, lúc bị kéo lê, bám chặt vào dây bàn đạp. Cuối cùng, sau khi đã vượt qua nửa dặm trong tình trạng như vậy, và con đường cũng đã bằng phẳng hơn, họ dừng lại để Bá tước có thể lên ngựa ngồi sau lưng người bạn đồng hành, lúc này, khi cả hai đi tiếp với nhịp độ thong thả hơn, Francesco mới nhận ra chỉ có chàng và Fanfulla chạy thoát khỏi cái chỗ kinh khiếp ấy. Quý ngài Ferrabraccio can đảm, người đã từng trải qua hàng trăm trận chiến hào hùng, đã kết thúc cuộc đời một cách thảm hại đúng như cách mà ông đã châm biếm tự tiên đoán cho mình. Con ngựa ông cưỡi đã làm hại ông ngay từ lúc cuộc chiến bắt đầu, quá hoảng loạn, nó đã lồng ra bên mép đường bất chấp cố gắng ghìm lại của ông cho đến lúc bị hẫng chân, cả người lẫn ngựa cùng lao xuống vực. Fanfulla cũng đã nhìn thấy Amerini bị giết tại trận, trong khi hai người còn lại bị ngã ngựa, không còn nghi ngờ gì, họ đã bị Masuccio bắt làm tù binh.
Đi quá Sant’ Angelo chừng ba dặm, con ngựa đã kiệt sức của Fanfulla bì bõm lội qua một khúc cạn của sông Metauro, thế là vào khoảng hai giờ sáng, họ đã đặt chân lên lãnh thổ công quốc Urbino, nơi giúp họ tạm thời có thể tránh được mọi sự truy đuổi.