Năm sau, trong triều đình xảy ra một chuyện lớn.
Lưu Triệt nghe theo kiến nghị của Trương Canh và Đại tư nông Nhan Dị, quyết định thi hành một loạt cải cách lớn về quản lý thu chi của cải.
Trương Canh và Nhan Dị chỉ đưa ra kiến nghị, còn cụ thể thực thi ra sao còn phải nhờ đến đại thần quản lý của cải của Lưu Triệt, Tang Hoằng Dương.
Năm mười ba tuổi, Tang Hoằng Dương đã làm tới chức Thị trung. Lưu Triệt vô cùng tín nhiệm cao thủ do một tay hắn đào tạo này. Quả nhiên Tang Hoằng Dương không phụ sự tín nhiệm của Lưu Triệt, một mình gánh vác quản lý thu chi của cải của cả Đại Hán kéo dài hơn bốn mươi năm.
Tang Hoằng Dương từ nhỏ đã làm bạn bên người hoàng đế nên y vô cùng hiểu rõ hoài bão cùng lý tưởng của Lưu Triệt, y cũng biết người quân vương này sẽ tự dựa vào bản thân, chống đỡ cả giang sơn thịnh thế này.
Từ nhỏ Lưu Triệt đã phung phí xa hoa, yêu thích sự phô trương, không tính đến mấy năm chinh chiến liên miên, mà chỉ cần dựa vào việc xây dựng cung Kiến Chương đã khiến cả Đại Hán này nghèo rớt mùng tơi.
Khi cải cách được ban bố, tầng lớp giàu có ở Đại Hán đều đứng ngồi không yên. Việc này rõ ràng là Lưu Triệt muốn chèn ép người giàu để mở rộng quốc khố cho mình. Trương Canh, Tang Hoằng Dương cùng tất cả những người liên quan đến kiến nghị này đều bị họ hận thấu xương.
Kỳ thực, Lưu Triệt làm vậy cũng là có một chút bất đắc dĩ. Mấy năm nay, Đại Hán liên tục tiến hành các cuộc chiến tranh lớn với Hung Nô, hao phí rất nhân lực và tài lực, khiến quốc khố rơi vào tình trạng trống rỗng. Có người thậm chí còn suy đoán, quốc khố Đại Hán sớm đã nhập bất phu xuất (số vào chẳng bằng số ra).
Đối với tình cảnh túng quẫn nghèo khó này, Lưu Triệt không thể không áp dụng một số biện pháp cứng rắn để lấp đầy quốc khố.
Tang Hoằng Dương dựa vào ý nghĩ “Muốn làm nước giàu không chỉ có một con đường”, “Muốn làm nước giàu hà tất chỉ trọng nông”, “Không có thương nghiệp thì nông nghiệp làm sao có thể phát triển” của y, chủ trương tiến hành công thương nghiệp lấy tăng mức sống tính thu nhập.
Y cho rằng giữ độc quyền về muối sắt làm thống nhất mức thu vào của cả nước, có thể “Đủ chi phí cho quân đội, ắt có thể dự trữ để đề phòng sự thiếu hụt”, mà không cần tăng thuế, phòng ngừa thương nhân giàu có lũng đoạn sản xuất kinh doanh, thao túng giá cả, chặn lại “con đường làm giàu” của họ, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, an dân, hòa hoãn mâu thuẫn giữa những tầng lớp. Trên thực tế, nhờ vào việc tiến hành độc quyền muối, sắt, rượu,..., y lợi dụng việc lũng đoạn giá cả, thu được khoản lợi nhuận kếch xù.
Mặt khác, y kiến nghị thi hành bình chuẩn pháp, thiết lập quân thâu pháp, điều tiết lưu thông hàng hóa, bình ổn giá cả. Những biện pháp này đả kích thế lực của các phú thương lớn, giảm bớt gánh nặng của người dân, đồng thời tăng thêm nguồn thu cho triều đình. Ở một mặt nào đó, những chính sách này đã hoàn thành việc “Không những tăng thêm lợi ích cho người dân mà tăng thêm nguồn thu cho quốc gia.”
Y chỉ ra: “Nguồn lợi từ muối, sắt cung cấp đủ cho sự bức thiết của người dân, nhu cầu của quân đội, tích cóp dự trữ đề phòng thiếu hụt ngân khố, cung cấp quá mức cho số đông, hữu ích với đất nước, vô hại với mọi người”, thực hiện xong bình chẩn, quân thâu thì hoàn thành “Mọi bách tính đều bình đẳng“.
Vì bảo hộ nền tiểu nông và nguồn thuế của quốc gia, Tang Hoằng Dương chủ trương áp chế thủ đoạn của cường hào, hạn chế “Sản xuất không đủ, phân phối không đủ, phân chia không đồng đều, cấm việc quá dư thừa làm hạn chế con đường làm giàu”, phòng ngừa “Người dân tự cản trở con đường làm giàu của nhau“.
Y cho rằng, thực hiện độc quyền về muối, sắt, bình chuẩn, quân thâu chính là vì “Tìm ra lối thoát khi đi vào tuyệt lộ”, “Mọi bách tính đều được no đủ”; “Không xuất chinh đến nơi xa xôi thì quân thần cùng lợi, không cấm đao tệ (loại tiền thời Xuân Thu) thì gian trung song hành, “Quan lại phú thương cùng nhau phung phí, không độc quyền thì sẽ cùng nhau cạnh tranh.”
Tư tưởng và chính sách về quản lý tài sản của Tang Hoằng Dương đương nhiên bắt đầu từ việc duy trì lợi ích của nhóm cầm quyền cao nhất, nhưng lúc đó bởi vì tài chính của Đại Hán đang rơi vào khủng hoảng do nhiều năm chinh chiến liên miên, có thể làm được “dân không cần đóng thêm thuế mà quốc gia vẫn thu thêm được lợi”, hạn chế sự dư thừa cường hào, giảm sự tăng lên của dân nghèo, ở một mức độ nào đó giảm bớt gánh nặng của người dân, nên điều này đối với quốc gia mà nói là một chuyện tốt.
Những chính sách của Tang Hoằng Dương vừa được ban hành, thuế của quốc gia đã nhanh chóng tăng mạnh, nhưng nhóm bị thiệt hại nặng nề nhất lại là nhóm cường hào thương nhân. Nhất là nhóm thương nhân buôn bán muối, sắt, rượu trong nháy mắt bị tước đoạt đến mức trắng tay.
Lần này Lưu Triệt dốc sức đả kích nhóm cường hào thương nhân, còn chưa tính về phương diện kinh tế, thì hễ động một cái hắn lại điều người đi trấn thủ biên cương. Chính sách này khiến cho nhóm cường hào thương nhân vừa nghe đã biến sắc, vừa chứng kiến đã sợ hãi, vừa nói đến đã chua sót.
Sau khi bốn chính sách được ban hành, thứ nhất, tất cả muối, rượu, sắt thuộc về quan doanh (quan phụ trách việc kinh doanh buôn bán cho nhà nước; thứ hai, thực hiện toán mân pháp (nhằm vào thương nhân, người cho vay nặng lãi để thu thuế tài sản, nhằm tăng thu nhập cho quốc khố); trưng thu thương thuế; thứ ba, cải cách chế độ tiền tệ, cấm đúc tiền riêng; thứ tư, thực hiện quân thâu pháp (các quận quốc đem các sản vật nộp lên trên cùng với chi phí để vận chuyển quy thành tiền theo giá cả ở địa phương rồi giao cho các “quân luân phú”. Họ đem các sản vật này, một phần nộp cho triều đình, một phần đưa tới các nơi có nhu cầu để bán, rồi nộp số tiền đó cho triều đình. Như vậy, các sản vật này đã được luân chuyển thành hàng hóa trên thị trường, triều đình lại có thêm tiền để chi phí cho việc quân sự khi cần.), bình chuẩn pháp (Khi giá cả trên thị trường Trường An quá cao, Bình chuẩn trưởng sẽ đem hàng hóa trong kho ra bán với giá thấp, khi giá các sản phẩm đã hạ, Bình chuẩn trưởng sẽ tiến hành thu mua để bù đắp vào số hàng hóa thiếu hụt. Thông qua chính sách này, giá cả đảm bảo tương đối ổn định. Nó cũng đánh vào hành động đầu cơ trục lợi của một số thương nhân.) thì nhóm cường hào thương nhân dự đoán, bước tiếp theo Lưu Triệt nhất định sẽ cho bọn họ đi trấn thủ biên cương.
Quả nhiên không lâu sau, Lưu Triệt nghe theo kiến nghị của Tang Hoằng Dương và Trương Thang, hạ chiếu đưa sáu mươi vạn người đi trấn giữ biên cương, đề phong Hung Nô.
Đại bộ phận cường hào thương nhân đều có trong danh sách này.
Lưu Triệt dứt khoát mạnh mẽ, đưa ra chính sách quyết liệt sấm rền gió cuốn, khiến cho Chu gia khổ sở không thể tả hết được.
Đầu tiên, hơn một nửa sản nghiệp của Chu gia đều là muối, sắt, rượu, sau khi chính sách mới được ban hành, trong nháy mắt Chu gia mất đi nửa giang sơn; thứ hai, cô gia duy nhất của Chu gia, cũng là phụ thân của Triệu Minh Hột, bị người ta vạch trần tội chưa trình báo đúng số tài sản với quan phủ, coi thường toán mân pháp, không những bị tịch thu nửa gia sản để phục vụ thương thuế, mà còn bị phạt đến biên cương ba năm.
Triệu gia dốc hết tài sản đút lót Đình úy thự, để mong cả gia đình không phải đến biên cương chịu phạt. Nhưng Đình úy thự cân nhắc quyết định xử lý cũng không nhẹ hơn bao nhiêu, cả gia đình có thể không đi, nhưng toàn bộ nam đinh của Triệu gia phải đến biên cương, còn lại nữ quyến có thể ở lại địa phương. Cách này không khác nào tách Triệu gia ra làm đôi, khiến cho trên dưới Triệu gia vô cùng đau khổ.
Triệu Minh Hột theo mẫu thân về Lỗ quốc, nương nhờ nương gia.
Vẻn vẹn trong vòng ba tháng, Chu gia cũng không còn phồn hoa giàu có như xưa.
Cảnh xuân ở đại trạch Chu gia vẫn tươi đẹp, xuân sắc dào dạt nhưng lại có chút thê lương.
Lúc Chu Nghiệp Quyết quyết định đem một phần tài sản quyên tặng cho quốc khố Hán triều, từ trên xuống dưới Chu gia đều ngạc nhiên. Triều đình đã khiến sản nghiệp Chu gia bị hao tổn nặng nề, Chu Nghiệp Quyết lại còn tặng thêm phần lễ cho người khác, đền đáp quốc gia.
Bởi vì bị chính sách của triều đình chèn ép, Chu thái gia tức giận đổ bệnh đến mức không dậy nổi, nhưng sau khi nghe được quyết định của Chu Nghiệp Quyết, thân thể mới có chuyển biến tốt.
“Không bỏ được món lợi nhỏ sao có thể thu được lợi ích lớn hơn!”
Chu thái gia không thể không bội phục tài trí của tôn tử này.
Trải qua cơn biến động lớn này, tài lực bây giờ của Chu gia chỉ còn lại chưa được một nửa so với trước kia.
Nhưng lại có điều may mắn là vì Chu Nghiệp Quyết hào phóng đóng góp một lượng lớn của cải cho triều đình nên Chu gia mới có thể an toàn ở lại Lỗ quốc, bằng không cả nhà họ sẽ phải đến biên ải giống như Triệu gia.
Lúc Triệu Minh Hột đến Chu phủ được một thời gian dài, nàng phát hiện tất cả mọi thứ đều trở nên vô cùng xa lạ.
Vì để tiết kiệm chi tiêu hàng ngày, Chu Nghiệp Quyết phân tán một lượng lớn người hầu, chỉ để lại một số người thạo việc, vì vậy cả phủ đệ rộng lớn trở nên trống trải. Chu Nghiệp Quyết cho xây các bước tường ngăn giữa đại trạch Chu gia và các phòng trống, rồi cho thuê và mở các cửa tiệm buôn bán. Tuy người hầu bị phân tán không ít, nhưng bởi vì phủ đệ được thu hẹp lại nên cũng không còn cảm giác quạnh quẽ như ban đầu.
Nhưng Triệu Minh Hột lại nhận ra rằng tất cả đều đã thay đổi.
Tòa phủ đệ này đã không còn là tòa phủ đệ mà nàng quen thuộc trước kia nữa.
Sau khi, mẫu thân của Triệu Minh Hột đến Chu gia liền dốc lòng chăm sóc Chu thái gia nên Triệu Minh Hột chỉ có thể buồn chán đi tìm các biểu ca, biểu đệ để chơi đùa nhưng những vị thiếu gia nhà giàu trước đây chỉ biết hoa tiền nguyệt hạ, uống rượu làm thơ, nay cũng đã ra ngoài mưu sinh, kiến lập sự nghiệp.
Triệu Minh Hột thở dài, bây giờ có lẽ người ăn không ngồi rồi chắc chỉ còn lại mình nàng.
Lúc dạo chơi trong vườn hoa, Triệu Minh Hột gặp lại Thức Tranh.
Nàng nghe nói nhị biểu ca của nàng chưa cưới vợ đã nạp một người thiếp, nhưng nàng không ngờ người thiếp này lại là Thức Tranh.
Gương mặt của Thức Tranh vẫn thanh lãnh như vậy, nhưng nét mặt rạng rỡ trước kia đã hoàn toàn biến mất.
Triệu Minh Hột nhìn Thức Tranh, trong nháy mắt lại có cảm giác người nữ ngang ngược này có chút gì đó khiến người khác thương cảm.
Vận mệnh đúng là đáng buồn cười. Mấy tháng trước, nàng còn vì biểu tẩu Đổng Nhập Khanh mà giương cung bạt kiếm với người phụ nữ mà Hoắc Quang gọi là tẩu tẩu, hiện tại, người phụ nữ này lại trở thành biểu tẩu của nàng.
Lúc Triệu Minh Hột đi tới lương đình, mới phát hiện Thức Tranh đang mang thai.
Mái tóc dài của nàng xõa tung, chỉ đến gần đuôi tóc mới dùng trâm cài lại. Nàng khoác trên mình bộ thâm y thùng thình màu tím, trong tay cầm một chiếc quạt tròn làm bằng lụa mỏng.
Gương mặt thanh lãnh.
Thần sắc lạnh nhạt.
Hoàn toàn không còn sự quật cường rạng rỡ trước kia.
Triệu Minh Hột nhìn Thức Tranh mặc bộ y phục của nữ tử người Hán điển hình, không khỏi có chút ngẩn người. Nàng miễn cưỡng nở nụ cười, nói: “Nhị biểu ca của ta còn giữ lại cái lương đình vô tích sự này, thật là một chuyện lạ.”
Mấy tháng qua, Chu Nghiệp Quyết cho tháo bỏ không ít các kiến trúc không có ích trong phủ, hắn không muốn những kiến trúc này hao tốn quá nhiều phí tổn vì chỉ tính đến việc quét dọn, duy trì mỹ quan cũng hao tốn khá nhiều nhân lực và vật lực. Nhưng duy chỉ có cái lương đình gần hồ nước này, hắn lại không cho dỡ bỏ.
“Như vậy không phải vô cùng tốt hay sao, chí ít còn một nơi an tĩnh để hóng mát.” Thức Tranh ngẩng đầu nở nụ cười nhạt nhòa với Triệu Minh Hột.
“Vì sao, vì sao... ngươi lại đến Chu gia? Ngươi không phải là Hoắc phu nhân sao? Không phải Hoắc Quang luôn miệng gọi ngươi là tẩu tẩu sao?” Cuối cùng, Triệu Minh Hột không nhịn được, ấp a ấ úng hỏi.
“Từ trước đến nay, ta chưa bao giờ là Hoắc phu nhân. Ta và Hoắc Khứ Bệnh, vốn dĩ không có bất cứ quan hệ nào cả!” Thức Tranh vẫn nở nụ cười nhạt, bình tĩnh nói với Triệu Minh Hột.
Hừ, không có quan hệ gì ư, Triệu Minh Hột cười lạnh một tiếng.
Trước kia không phải Đổng Nhập Khanh cũng nói không có quan hệ gì với Hoắc Khứ Bệnh, kết quả, không phải cũng chết trong ngực chàng đấy thôi.
Những lời nói này, Triệu Minh Hột sẽ không bao giờ tin nữa.
“Được rồi, hai ngày này ta chưa nhìn thấy nhị biểu của ta, ngươi có biết huynh ấy đi đâu không?” Triệu Minh Hột không tiếp tục truy hỏi Thức Tranh, tùy tiện đổi sang chủ đề khác.
“Chàng nói chàng ấy đi Chung Sơn một chuyến, chắc là đi gặp đại ca Chu Nghiệp Tu.” Thức Tranh thản nhiên nói.
“Chắc huynh ấy đi gọi đại biểu ca quay về gặp ngoại tổ phụ lần cuối.” Triệu Minh Hột mặt không đổi sắc nói.
Thức Tranh nhìn Triệu Minh Hột, không ngờ rằng một hài tử lại có thể nhìn thấy được sinh tử, nàng so ra còn kém một tiểu hài tử.
Quả thực là Chu Nghiệp Quyết đến Chung Sơn mời Chu Nghiệp Tu về Chu gia gặp Chu thái gia lần cuối. Nhưng khi hai người gặp nhau, chuyện đầu tiên nhắc tới lại là về Đổng Nhập Khanh, gỡ bỏ lớp mặt nạ giả tạo của cả hai.
“Hải tử trong bụng Nhập Khanh là của ngươi?” Chu Nghiệp Tu chất vấn Chu Nghiệp Quyết.
Lời chất vấn này đến muộn nửa năm.
Chu Nghiệp Tu đã im lặng nửa năm, thanh tu nửa năm, nhưng cuối cùng vẫn không kiềm chế được xé toang cái chân tướng tàn nhẫn này.
“Nếu đã biết rõ, huynh hỏi ta thì còn ích gì nữa?” Chu Nghiệp Quyết lười biếng nở nụ cười, xoay chiếc nhẫn bạch ngọc trên tay, không nói gì cả.
“Thực sự vào Trung thu năm ngoái hay sao?” Chu Nghiệp Tu run rẩy, sắc mặt trắng bệch.
“Đúng vậy. Hóa ra ca ca đã biết tường tận sự tình như vậy!” Chu Nghiệp Quyết tiếp tục lười biếng vừa cười vừa nói.
Đêm Trung thu năm ngoái, hạ nhân không cẩn thận làm vỡ mất chiếc vòng tay lam ngọc của Đổng Nhập Khanh. Đổng Nhập Khanh vô cùng giận dữ, thậm chí còn tự tay dùng côn trượng đánh người. Tuy khí lực của nàng không đủ mạnh để đánh hạ nhân thành cái gì, nhưng cũng khiến cho bọn hạ nhân bị dọa không nhẹ. Thẳng cho đến khi Chu Nghiệp Tu về mới miễn cưỡng khuyên nhủ được vị đại tiểu thư này.
“Nếu chiếc vòng này quan trọng như vậy, ngày mai đích thân ta sẽ đi tìm cho nàng cái giống y hệt.” Chu Nghiệp Tu ôn nhu an ủi Đổng Nhập Khanh.”
“Chiếc vòng này là do Hoắc Khứ Bệnh lấy cho ta từ chỗ Vệ hoàng hậu, ngài làm sao có thể tìm cho ta chiếc thứ hai giống như thế.” Đổng Nhập Khanh vừa khóc, vừa tức giận nói.
Hoắc Khứ Bệnh!
Nghe được cái tên này, Chu Nghiệp Tu cười thảm, hóa ra đó là chiếc vòng tay Hoắc Khứ Bệnh tặng cho nàng.
Cũng đúng, có bao giờ Đổng Nhập Khanh quan tâm đến đồ trang sức của bản thân. Chẳng qua là nàng quan tâm đến người tặng nàng chiếc vòng mà thôi?!
Chu Nghiệp Tu kìm xuống sự bi thương, đưa cho Đổng Nhập Khanh chiếc vòng tay làm bằng hồng ngọc, vừa cười vừa nói “Năm đó, khi mẫu thân của ta qua đời, người đã để lại cho ta và Nghiệp Quyết mỗi người một chiếc vòng ngọc, của ta là hồng ngọc, còn Nghiệp Quyết là lam ngọc. Ta thấy chiếc vòng bị vỡ của nàng giống hệt chiếc của Nghiệp Quyết, bằng không, ngay mai ta đi lấy cho nàng xem qua một chút?”
“Quên đi, chỉ là một chiếc vòng tay thôi mà, vỡ rồi thì thôi. Hơn nữa, ta không muốn đồ của người khác.” Đổng Nhập Khanh ngừng khóc, lạnh lùng thản nhiên nói.
Đêm đó, Chu Nghiệp Tu và Đổng Nhập Khanh không tham gia bữa tiệc đoàn viên của Chu gia, khiến cho bầu không khí của Chu phủ vô cùng sầu não.
Người từ trước đến nay luôn ôn tồn lễ độ, giáo dưỡng vô cùng cao như Chu Nghiệp Tu lại chạy đến tửu quán uống đến say mèm.
Đêm đó bởi vì là đêm Trung thu, nên trong tửu quán chỉ có mấy người thất ý nghèo túng, không có nhà để quay về. Khi bọn họ nhìn thấy Chu đại thiếu gia lại có thể trong đêm Trung thu một mình chạy đến quán rượu giải sầu, bỗng nhiên cảm thấy vui vẻ, kỳ thực thế giới này không có hỏng bét như vậy, ông trời đối với mỗi người đều rất công bằng.
Chu Nghiệp Tu cũng không nhớ rõ bản thân cùng mọi người trong quán nói những gì, y chỉ mơ hồ nhớ rằng lúc y uống rượu với bọn họ, sau khi say mèm, y đã nhìn vầng trăng tròn vĩnh cửu không biết đến ưu sầu của nhân gian rất lâu, rồi thất thanh khóc rống.
Đổng Nhập Khanh đã sớm nói rõ ràng với Chu Nghiệp Tu rằng tình yêu của nàng đối với Hoắc Khứ Bệnh có bao nhiêu say đắm, nhưng Chu Nghiệp Tu nói rằng y không để bụng.
Y tin tưởng, cuối cùng có một ngày, Đổng Nhập Khanh sẽ quên đi hồi ức thanh mai trúc mã kia, bình bình an an cùng y sống qua ngày.
Từ khoảnh khắc, y gặp gỡ Đổng Nhập Khanh, Chu Nghiệp Tu đã biết rõ, đóa hoa tường vi này cất giấu quá nhiều chiếc gai nhọn, nhưng hắn nguyện ý mất mười đầu ngón tay để làm bạn cùng nàng.
Chỉ là, đêm nay, y mới phát hiện cái gai đâm vào trong lòng có bao nhiêu đau xót.
Thậm chí, y không biết, khi tâm của y bị nàng đâm tràn đầy vết thương, bản thân có còn sức lực để yêu nàng nữa không?
Nhưng ít ra hiện tại y khẳng định, cho dù bị thương, y cũng nguyện ý đem đóa hoa tường vi này nâng niu trên tay.
Hôm sau, khi y trở lại Chu gia, y phát hiện Đổng Nhập Khanh không có ở trong phòng. Y đang định hỏi hạ nhân xem Đổng Nhập Khanh đi đâu thì Chu Nghiệp Quyết đã nói cho y biết Đổng Nhập Khanh ở trong phòng của hắn.
“Tại sao nàng lại ở trong phòng của đệ?” Chu Nghiệp Tu có chút kỳ quái hỏi.
Chu Nghiệp Quyết lười biếng nở nụ cười, thản nhiên nói: “Ca ca huynh có thời gian hỏi Nghiệp Quyết, còn không bằng nhanh chóng đưa tẩu tẩu về, miễn cho mọi người nhìn thấy lại bàn tán không hay?” Chu Nghiệp Quyết nói xong, vân đạm phong khinh rời đi.
Khi đó, Chu Nghiệp Tu chỉ cho là Đổng Nhập Khanh say rượu nên mới ngủ lại trong phòng của Nghiệp Quyết. Y chưa bao giờ nghĩ đến việc, đệ đệ của y lại có thể quang minh chính đại cướp đoạt tẩu tẩu ngay tại Chu gia.
“Tại sao ngươi có thể làm ra cái chuyện như vậy?” Chu Nghiệp Tu nghe chính miệng đệ đệ song sinh của mình thừa nhận, nắm chặt tay, áp chế cơn giận trong lòng.
Chu Nghiệp Quyết ngắm nhìn cảnh xuân tươi đẹp của núi Chung Nam, lười biếng nhàn nhã ngồi xuống ghế.
“Vì sao phải làm như vậy? Nguyên nhân rất đơn giản, ta muốn cướp đoạt mọi thứ thuộc về Chu Nghiệp Tu huynh, toàn bộ mọi thứ!” Chu Nghiệp Quyết nhãn nhã nhưng lạnh lùng nói.
“Mà nhắc đến mới nhớ, huynh có biết lúc Đổng Nhập Khanh và ta hòa làm một, Đổng Nhập Khanh đã gọi tên của ai hay không?”
Chu Nghiệp Tu ngẩn người, không cần nói y cũng biết đó là ai.
Ngoại trừ Hoắc đại tướng quân, thanh mai trúc mã luôn khiến cho Đổng Nhập Khanh tâm tâm niệm niệm, thì còn ai nữa?
Chu Nghiệp Tu cười thảm, rốt cuộc y cũng phải thừa nhận, bất luận y nỗ lực ra sao, cũng không thể mảy may đi vào trong lòng của Đổng Nhập Khanh.
Chu Nghiệp Quyết nhìn Chu Nghiệp Tu đang mất hết hy vọng, đứng dậy nói: “Ước chừng, gia gia cũng không còn sống được quá hai tháng nữa, có trở về hay không tùy ở huynh!”
Nói xong, Chu Nghiệp Quyết rời đi.
Đi chưa được bao xa, Chu Nghiệp Quyết tựa hồ nghĩ được cái gì đấy, quay đầu nói với Chu Nghiệp Tu vẫn đang ngơ ngẩn ở chỗ cũ “À, còn một việc chưa thông báo với huynh, ta mới nạp một tiểu thiếp, nàng là Hoắc Y Y, trước đây là phu nhân của Hoắc Khứ Bệnh.”
Nói xong, Chu Nghiệp Quyết vui vẻ quay đầu, tiếp tục tiến về phía trước.
Chung Sơn đúng là một chốn thích hợp để thanh tu, nhưng đối với Chu Nghiệp Tu mà nói mọi chuyện không có đơn giản như vậy.
Ở thế gian này, nơi có thể khiến người ta chặt đứt mọi tình duyên nơi trần thế, ước chừng chỉ có thể là âm tào địa phủ mà thôi.