Tôi ngồi bên bàn làm việc, chúi mũi vào đống sách giáo trình kiến trúc mà Sophie đã ưu ái cho tôi mượn. Tôi giương đôi mắt đã bắt đầu lờ mờ của mình nhìn chăm chăm vào một ví dụ khác về bệ lò sưởi Adamesque, cái này hoàn tất với các trụ và những lớp màn hoa văn trang trí chung quanh. Hay là chúng nên được gọi là gỗ chạm khắc và vữa trát có trang trí bằng sơn xịt hình hoa?
Nhắm mắt lại, tôi vươn người lên bàn cho đến khi dập trán trên những hình ảnh minh họa chi tiết một trán tường thời cuối thế kỷ mười tám kiểu Mỹ và một trán tường khác cùng thời kiểu Anh, tôi thấy cả hai trông giống hệt nhau trong khi tôi đã bỏ ra cả bốn mươi lăm phút để tìm đọc về chúng trên những trang sách có dán những mảnh giấy nhỏ ghi chú trong sách của Sophie. Cứ cho là như thế đi, tôi đã biết đủ những thuật ngữ mơ hồ để có thể bán một ngôi nhà cổ cho những người chủ tương lai chẳng biết ngờ vực gì, nhưng rõ ràng là không hề đủ một tẹo nào cho công việc trùng tu thật sự. Và bằng cách nào đó, việc tôi nhìn vô hồn khi Sophie giảng giải và hướng dẫn cách gỡ bỏ những lớp sơn trên bệ lò sưởi trong phòng khách trên lầu (bao gồm cả những chiếc cọ và dao cạo tí hon) đã khiến nó càng ra vẻ lên lớp với tôi hơn và còn bảo với tôi rằng tôi phải học xem cái nào trong nhà là quan trọng và quý hiếm trước khi tôi được phép đến gần bất cứ cái gì với một chiếc cọ trong tay, đừng nói chi đến một con dao cạo.
Ngoài ra, nó tiếp tục giải thích, rằng tôi không thể trông như một con ngố nếu tôi có phải đứng trước cái Hội đồng Thẩm định Kiến trúc đầy khiếp đảm ấy trong suốt quá trình trùng tu ngôi nhà.
Miệng nói tay đấm, tôi đưa tay tìm cốc cà phê sữa của mình thì nó đã cạn từ đời nào. Cái túi bánh tiêu đặt cạnh đấy cũng trống không. Tôi ngồi thẳng dậy, định dò tay dưới chồng sách để tìm điện thoại và gọi hỏi Nancy xem cô ta đã pha cà phê hay chưa. Từ sáng đến giờ tôi chưa thấy Nancy, nhưng tôi biết cô nàng đang ở trong văn phòng vì tôi có thấy chiếc xe dạng thể thao có nhãn dán vào đuôi xe với dòng chữ “Bạn đã ôm ấp gậy đánh golf của mình hôm nay chưa?” trong bãi đậu xe.
Trước khi tôi kịp nhấn nút gọi thì điện thoại của tôi reo vang. Tôi bắt điện thoại. “Chào Nancy.”
“Chào buổi sáng, cô Middleton. Cô có khách ạ.”
Tôi chau mày và nhìn vào ống nghe. “Nancy đấy hả? Tại sao chị lại nói chuyện như một tiếp tân thực thụ vậy? Nghe kỳ quá.”
“Vâng thưa cô. Tôi sẽ bảo ông ấy chờ một chút cho đến khi cô làm việc xong với khách hàng.”
“Cái gì thế hả Nancy? Có phải Jack ở ngoài đấy không?”
Cô ta chờ vài giây và tôi đoán người khách ấy đang bước ra khu vực chờ dành cho khách. Rồi tôi phải ép tai vào ống nghe mới nghe được vì cô nàng giờ đây đang thì thào. “Ðó là anh ấy. Cái anh chàng Marc nào đấy mà cứ gọi liên tục và chẳng bao giờ để lại số điện thoại. Anh chàng đang ở đây và muốn gặp chị. Và tên họ anh ấy là Longo.”
Tôi ngồi thẳng hơn lên. Theo linh cảm của Jack là trên đời không hề có sự trùng hợp ngẫu nhiên nên tôi và anh đã cố tìm hiểu thêm về tay Marc Longo này, thậm chí hai đứa đã còn ngồi trong quán cà phê gần văn phòng của anh ta để được nhìn thoáng qua xem anh ta trông như thế nào, nhưng cái ngài Longo hay lảng tránh công chúng này rõ là chẳng hề muốn bị bắt gặp ngoài đường.
“Thế thì tại sao chị lại thì thầm hở?”
Một thoáng im lặng. “Chờ đến khi chị nhìn anh ta. Anh này chẳng phải là loại người có thể tha thứ cho sự tùy tiện cẩu thả đấy nhé.”
“Cám ơn chị đã cảnh báo. Và đừng để anh ta đi vào được chứ? Tôi sẽ đi ra đón anh ta.”
Tôi lấy ra chiếc gương nhỏ cầm tay đặt trong ngăn kéo để soi và phủi đi những vụn bánh hay những hạt đường còn sót lại trên mặt rồi tô lại son môi trước khi bước ra khu vực chờ dành cho khách. Tôi đang mặc bộ veston bằng lụa màu xanh biển hiệu Elie Tahari cùng với đôi giày bít rất khêu gợi hiệu Manolo Blahnik nên tôi biết rằng mình trông rất được mắt và đương nhiên, tôi đã sẵn sàng gặp một anh chàng mà bề ngoài của anh ta đã đủ làm Nancy Flaherty hoảng vía.
Nancy nhướn mày khi tôi đi vòng quanh bàn tiếp tân và hướng về dãy bàn và ghế bành xếp chung quanh cửa sổ. Marc Longo đang bận gõ cái gì đấy vào điện thoại Blackberry của mình nhưng anh đã nhìn lên và đứng dậy khi thấy tôi bước vào.
Anh này rất cao, tóc đen mắt cũng đen; anh chàng vận một bộ veston may hiệu với khuy cài măng-sét và giày da Gucci. Hàng hiệu đây! Nếu lần gặp này mang tính thân mật riêng tư thì có lẽ tôi sẽ lắp bắp tên của chính mình khi tự giới thiệu và rồi sẽ trượt ngã trên đôi giày Manolo của mình mất. Chưa kể, có lẽ tôi sẽ còn chảy dãi nữa cơ. Nhưng đây là công việc, thế là tôi lại khoác lên mình vẻ ngoài của một nữ doanh nhân nghiêm túc rồi chìa tay ra.
“Ông Longo phải không? Tôi là Melanie Middleton. Tôi có thể giúp gì cho ông không?”
Cái bắt tay của anh chàng thật chắc, da tay anh ta mềm mại khiến tôi nghĩ có lẽ anh này thuộc loại hay đi cắt sửa móng tay. Chẳng phải là việc không hay gì, nhưng tôi thật sự không thích những anh chàng nào có bàn tay mềm mại hơn bàn tay của tôi.
“Cám ơn chị đã tiếp tôi mà không có hẹn trước.” Anh ta mỉm cười, để lộ hàm răng trắng thật hoàn hảo và sáng bóng trên nền da rám nắng. “Tôi muốn được bàn luận với chị về bất động sản. Tôi nghe rằng chị là người giỏi nhất.”
Tôi đỏ mặt trước lời nịnh bợ lộ liễu của anh ta. “Tôi không biết mình có phải là người giỏi nhất hay không, nhưng tôi luôn làm việc cật lực cho khách hàng của mình. Hay là chúng ta vào văn phòng của tôi và chúng ta sẽ thảo luận thêm nhé? Tôi quay sang Nancy. “Chị vui lòng mang cà phê cho chúng tôi nhé? Và xin đừng chuyển các cuộc gọi cho tôi.”
“Phải, thưa cô Middleton,” cô nàng nói và lại nhướn một bên mày và cười nhếch mép vì nghĩ rằng ông Longo không nhìn thấy.
Tôi đi trước và cảm thấy anh ta đang nhìn vào lưng mình, khiến tôi hơi bồn chồn nhưng cũng rất mừng vì hôm nay tôi mặc loại quần lót không gấp mép. Lần trước khi Sophie phát hiện ra tôi mặc những thứ này thì nó làm ra vẻ tội nghiệp cho tôi, và tôi đã chế giễu nó, nhắc nhở nó rằng thậm chí những cô gái gầy nhom cũng có thể phô ra những lằn quần lót.
Tôi ngồi xuống sau bàn mình và lôi ra một tập giấy viết mới rồi chỉ định cho vị khách của tôi ngồi ở ghế đặt phía bên kia bàn. Tôi để ý thấy anh ta có vẻ quan tâm đến những cuốn sách về kiến trúc trên bàn tôi khi anh ta ngồi xuống. “Tôi có thể giúp gì cho ông, thưa ông Longo?”
“Xin vui lòng,” anh ta nói và rướn người lên, “gọi tôi là Marc.”
“Ðược rồi, Marc.” Tôi mỉm cười, không hiểu tại sao anh chàng lại làm cho tôi cảm thấy hồi hộp. Có lẽ vì đôi mắt đen của anh ta chẳng hề rời khỏi mặt tôi. Hoặc có lẽ vì anh ta là người đàn ông đẹp trai nhất mà tôi từng được kề cận như thế này, ngoại trừ những bức ảnh trong tạp chí. Hoặc cũng có thể vì tên họ của anh ta và khả năng anh ta có liên hệ gì đó đến người đàn ông được xem là đứng sau vụ mất tích của Louisa. Dù là gì đi nữa, tôi thật sự mất hết bình tĩnh, và tôi cứ luôn phải tự nhắc nhở mình rằng tôi là một nữ doanh nhân thành đạt. “Tôi có thể làm gì cho anh nào?”
Anh ta ngồi xuống ghế, vẫn cứ nhìn chằm chặp vào mặt tôi. “Tôi muốn đầu tư vào nhà ở.”
Tôi cảm nhận sự phấn khởi thường gặp mỗi khi ngửi được hơi hướng của một nhà đầu tư lớn đầy tiềm năng như thế này. Trong đầu tôi thậm chí đã bắt đầu điểm mặt danh sách những tòa nhà cao cấp mới xây trên đảo Daniel Island và đảo Isle of Palms mà tôi muốn trưng ra cho anh ta xem. Tôi chớp mắt, nhận ra rằng mình đã hiểu nhầm phần cuối trong câu anh ta vừa nói. “Xin lỗi?”
“Tôi nói rằng tôi đặc biệt quan tâm đến nhà cổ.”
“Ồ,” tôi nói, đầy ngạc nhiên. Với phong cách ăn mặc cao cấp và sự tự tin rõ ràng như thế, anh ta đã tạo ấn tượng nơi tôi rằng anh ta thuộc loại người thích những gì mới, với kiểu dáng đẹp và trau chuốt, và dĩ nhiên, hiện đại. Thật nhiều đồ bằng thép và những bức tường trắng. Giống như căn hộ của tôi vậy.
“Chị ngạc nhiên à?”
Tôi mỉm cười để che giấu sự bối rối của mình. “À, chỉ là, trông anh không giống tuýp người ấy.”
“Thì ra là thế.” Anh ta dựa hai khuỷu tay lên hai bên thanh vịn của ghế và gõ lóc cóc các ngón tay. “Theo cách nào?”
Tôi cảm thấy chân của mình đang đánh đu dữ dội bên dưới bàn, và rồi tôi bắt nó phải dừng lại. “À, trước hết, anh còn độc thân.”
Anh ta nhướn hàng lông mày đen lên.
Tôi hơi đỏ mặt, tự hỏi làm cách nào mà tôi lại có thể thốt ra thông tin nhỏ đầy thú vị ấy và cố tìm cách thoát ra khỏi tình huống khó xử mà tôi vừa tự tạo cho mình. “Tôi để ý rằng anh không đeo nhẫn cưới.”
Anh ta nở một nụ cười dễ mến và duyên dáng. “Không phải người đàn ông có vợ nào cũng đeo nhẫn cưới đâu nhé. Còn gì nữa nào?”
Tôi bắt đầu khép nép. Thậm chí tôi còn có biết rất nhiều đàn ông có vợ và không hề đeo nhẫn cưới. “Phải, trang phục của anh khiến tôi nghĩ rằng anh có thể thiên hơn về... xu hướng tân thời. Chẳng hạn dạng căn hộ cao cấp hoặc một ngôi nhà hướng biển có tường bằng kính.”
Lúc này anh ta đã bắt đầu vỗ nhẹ những ngón tay lên nhau. “Nhưng tôi đã có những thứ ấy rồi. Tôi muốn cái gì khác hơn.”
“Nhưng mà...” Tôi ngừng nói, bắt đầu cảm thấy lúng túng nhưng vẫn không thể không cố moi thêm.
“Nhưng mà gì?” anh ta lại công kích.
“Rõ ràng anh là một người thành đạt, do đó chắc là anh đã có những quyết định đầu tư đúng đắn trước đây. Mà như thế thì, nói thật, chỉ càng khiến cho tôi thắc mắc là làm sao mà...”
“Cứ nói tiếp đi.” Anh ta có vẻ vui thích. Gần như thể anh ta đã đoán biết trước tôi định nói gì.
Tôi hít một hơi thật sâu, không tự kềm mình lại được. “Làm sao mà anh lại muốn bỏ ra khá nhiều tiền cho một ngôi nhà cổ vốn sẽ cứ tiếp tục đòi rót vốn vào ngày càng nhiều chỉ để giữ cho nó không bị xuống cấp. Loại đầu tư này sẽ hút cạn kiệt anh cả về thể xác lẫn tinh thần, và dù cho anh có quẳng bao nhiêu tiền của công sức cho nó thì anh vẫn sẽ có thể đi đến kết thúc với một cái lỗ thủng trên mái nhà cùng sự phá hoại tung hoành của mối mọt.”
Anh ta chau mày. “Tôi tưởng chuyên ngành của chị là bán nhà cổ ấy chứ.”
“Ðúng là như thế,” tôi nói và cảm thấy lúng túng. Tại sao tôi lại cố can ngăn một khách hàng tiềm năng nhỉ? Tôi không rõ phải trả lời thế nào, nhưng tôi biết chắc nó phải có liên can đến những kinh nghiệm trùng tu nhà gần đây của tôi. Và chẳng hiểu sao tôi lại không thể hình dung rằng có thể giao phó một ngôi nhà cổ Charleston cho Marc Longo được. Có phải tôi thật sự vừa nghĩ ra điều đó không?
Tôi tiếp tục nói, cố gắng lấy lại lập trường của mình. “Tôi xin lỗi nếu anh nghĩ rằng tôi hơi quá đáng. Nhưng thật sự bởi vì hầu hết những người thích nhà cổ thường ít khi nào có thể dự liệu được những điều thực tế khi sống trong ấy. Tôi chỉ muốn trình bày cho rõ trắng đen tất cả những điều có thể tiên liệu được trong lúc này để khách hàng của mình không bị bất ngờ về sau.”
Anh ta gật đầu. “Tôi cảm kích việc ấy - nhưng anh của tôi hiện đang sở hữu ngôi nhà cổ của gia tộc trên phố Montagu nên tôi không lạ gì về nhu cầu bảo tồn cho nó. Và sự thật thà của chị có lẽ là lý do tại sao chị có được danh tiếng làm ăn như thế.”
Tôi cảm thấy đỏ mặt lần nữa và cố tập trung vào tập giấy viết vẫn còn trống trước mặt. “Giờ thì cả hai chúng ta đã cùng hiểu đúng vấn đề, anh cứ vui lòng cho tôi biết anh muốn tìm loại nhà với diện tích, địa điểm và giá cả như thế nào xem sao. Hiện giờ thì không có nhiều nhà cổ để xem lắm đâu, nhưng nếu tôi biết rõ anh đang cần gì thì tôi sẽ có thể để mắt đến một khi có nhà nào được rao bán - và đôi khi còn sớm hơn nữa.”
Anh ta mỉm cười. “Việc ấy dễ thôi. Tôi biết chính xác mình muốn gì.”
Tôi cầm cây bút ở vị trí sẵn sàng trên trang giấy trắng, và mỉm cười rạng rỡ. “Cứ nói ra xem.”
“Năm mươi lăm phố Tradd.”
Tôi bắt đầu viết và khi đã viết gần xong địa chỉ ấy, tôi khựng lại. “Khoan đã. Có phải anh nói Năm mươi lăm phố Tradd?”
“Phải, đúng thế.”
Tôi nhìn chằm chằm vào anh ta trong một lúc rồi đặt bút xuống. “Ông Longo này, à, Marc. Tôi nghĩ rằng anh sẽ không đến đây trừ phi anh đã biết rõ tôi là người sở hữu ngôi nhà ấy.”
Anh ta lại mỉm cười và gật đầu chầm chậm. “Tất nhiên rồi. Cũng như mọi người khác, tôi đã có đọc báo và biết tin ấy. Nhân tiện, tấm hình trên báo của chị trông rất xinh.” Anh ta liếc nhìn vào mái tóc của tôi nhưng cố nhịn không nhận xét gì. “Tôi phải nói rằng lúc đầu câu chuyện của chị đã gợi nên sự thích thú trong tôi khi tôi đọc về chủ sở hữu trước đây của ngôi nhà. Gia tộc Vanderhorst và gia đình tôi ngày xưa có quen biết nhau.”
“Tôi có biết việc ấy.” Tôi thật thỏa mãn được nhìn thấy sự ngạc nhiên trên mặt anh.
“Thú vị nhỉ,” anh ta nói. “Quả thật tôi rất ấn tượng vì chị chỉ vào ngôi nhà ấy một lần duy nhất trước khi thừa kế nó.”
“Ðúng thế. Nhưng tôi cũng có một cuộc nói chuyện khá hay với ông Vanderhorst về lịch sử của ngôi nhà, bao gồm cả sự mất tích của mẹ ông ấy.”
“À, phải. Ông Vanderhorst tội nghiệp.” Anh ta chéo chân ngang gối một cách tao nhã rồi dựa lại vào lưng ghế.
“Ông Vanderhorst tội nghiệp? Tại sao anh lại nói thế?”
Marc nhún vai. “Từ những gì ba tôi kể lại, ông Vanderhorst chưa bao giờ có thể tin rằng mẹ của mình lại có thể bị quyến rũ bởi một người như ông nội tôi.”
“Và anh có bằng chứng nào đi ngược lại với niềm tin của ông già ấy không?” Tôi cảm thấy những chiếc bánh tiêu tôi ăn hồi sáng bắt đầu nhào lại thành một cục. Tôi muốn anh ta nói không. Tôi lại hình dung ra hình ảnh ông Vanderhorst khi ông đang nhìn vào biểu đồ tăng trưởng bên cạnh chiếc đồng hồ cổ, và nhận ra rằng tôi thà chẳng bao giờ biết được việc gì thật sự đã xảy ra cho bà Louisa còn hơn là biết chắc chắn bà ấy đã bỏ trốn với ông nội của Marc.
Marc lại nhún vai một lần nữa. “Việc ấy giờ đây đâu còn quan trọng gì nữa, phải không nào? Quá khứ là quá khứ. Tôi thà tập trung vào hiện tại, bao gồm việc mua ngôi nhà cổ tuyệt đẹp của cô trên phố Tradd. Tôi thấy thật là một sự may mắn tình cờ khi ngôi nhà có liên hệ đến gia đình mình lại thật sự có thể được rao bán ngay đúng lúc tôi quyết định đầu tư vào thị trường này.”
Tôi nghĩ đến những đường ống nước cũ kỹ, những sàn gỗ đã bong rộp, và những lớp vữa tường rời rạc, thế là chân của tôi lại bắt đầu bập lên bập xuống, viễn cảnh của việc không phải lo gì đến những việc này nữa khiến tôi chếnh choáng. Tôi nhấn mạnh lòng bàn tay lên đầu gối, cố giữ cho nó yên, hy vọng Marc không để ý. Và rồi tôi nhớ lại những điều khoản thừa kế, cũng có nghĩa là tôi không thể bán đi bất cứ món gì, thậm chí cả một cái nắm cửa, cho đến một năm sau.
Tôi chau mày. “Marc à, tôi xin lỗi vì đã làm mất thời gian của anh, nhưng ngôi nhà này không bán được. Không phải vì tôi không muốn bán nó đi - tin tôi đi - nhưng chỉ vì tôi không thể. Những điều khoản thừa kế rất rõ ràng. Tôi phải dùng quỹ để trùng tu ngôi nhà, và tôi không được quyền bán nhà hay những vật thuộc về ngôi nhà trong vòng một năm. Do đó, trừ khi anh muốn tôi giúp anh tìm nhà khác, tôi e rằng anh sẽ phải quay lại sau một năm.”
Anh ta suy nghĩ trong một thoáng, tập trung nhìn vào hai bàn tay mình. “Nhưng nếu chị không muốn ngôi nhà ấy thì họ cũng không thể bắt chị phải nhận nó, phải không nào?”
“Về mặt pháp lý, đúng là như thế. Tôi có thể cứ bỏ đi và bỏ mặc ngôi nhà cho chính quyền địa phương tìm ra người có quyền sở hữu nó. Và, tôi thật muốn nói thêm câu này, nếu tôi làm thế, thì tôi sẽ không bao giờ tìm ra được việc gì đã xảy ra cho mẹ của ông Vanderhorst quá cố. Ý nghĩ tình cảm ấy khiến tôi ngạc nhiên. Ðối với tôi, những ngôi nhà trong khu phố cổ chỉ luôn luôn liên quan đến tiền bạc mà thôi. Chưa bao giờ tôi có ý nghĩ mình sẽ nhúng tay vào chỉ vì những tình cảm ủy mị như việc duy trì một di sản gia đình hay tìm ra một câu trả lời nào đó cho một ông già.
Marc lại bắt đầu gõ nhẹ các ngón tay vào nhau. “Ra là thế. Thôi thì, tôi nghĩ chị cần đưa tôi đi xem những ngôi nhà khác vậy.”
Tôi dò xét gương mặt anh ta. “Marc, trước khi chúng ta tiến xa hơn vào công việc, thật lòng tôi phải hỏi anh câu này - tại sao lại là tôi? Tôi biết về danh tiếng của anh trong lĩnh vực đầu tư bất động sản, dĩ nhiên là anh sẽ có những người môi giới bất động sản làm việc cho anh và họ biết rõ về những nhu cầu của anh hơn tôi nhiều.”
Anh ta không hề chớp mắt. “Ðúng thế. Nhưng họ không biết về Charleston hay những ngôi nhà cổ và khu phố cổ như chị. Chị nổi tiếng là có chuyên môn trong ngành này, và nếu tôi có học được gì trong những năm tháng trong thế giới làm ăn này, đó là luôn luôn tìm người giỏi nhất khi muốn hoàn tất một giao dịch.”
Tôi cảm thấy ấm lòng khi được anh ta khen ngợi như thế. “Cám ơn anh. Tôi chắc chắn rằng anh sẽ không thất vọng với những gì tôi có thể làm cho anh.” Tôi ngồi dậy, cảm thấy vui vì cuối cùng thì tôi chẳng hề mất đi một khách hàng đầy triển vọng. “Bây giờ, tôi bảo đảm chúng ta có thể tìm được một ngôi nhà nào đó cũng có thật nhiều lịch sử gia đình như ngôi nhà Vanderhorst - hy vọng là sẽ ít phải trùng tu hơn.” Tôi kéo tập giấy viết lại gần mình hơn và lại đặt bút lên. “Ðược thôi. Ðể bắt đầu, anh vui lòng cho tôi biết anh cần loại diện tích bao nhiêu mét vuông và bao nhiêu phòng ngủ và phòng tắm?”
Anh ta liếc nhìn vào đồng hồ đeo tay và nói, “Thật ra, đã sắp đến giờ tôi phải đi cho một cuộc hẹn gặp khác. Hay là chúng ta thảo luận việc này sau nhé?” Anh ta mỉm cười. “Có thể vào buổi ăn tối ngày mai được không?”
Tôi nhận ra mình đang há hốc mồm và biết rằng cần phải ngậm nó lại ngay. Tôi khá chắc chắn rằng anh ta muốn hẹn hò với tôi, nhưng vì anh ta đang ngồi trước bàn làm việc nên tôi không thể giả vờ xem qua lịch buổi tối vốn luôn trống rỗng của mình. “Tôi... à... Phải, tối mai tôi rảnh.”
Anh ta đứng lên và vươn người qua bắt tay tôi, bằng cả hai tay. “Tôi sẽ đến đón chị vào bảy giờ vậy. Chị có thích nhà hàng Magnolia không?”
Tôi mỉm cười, nhẹ nhõm vì anh ta không nói đến quán Râu Ðen. “Ðó là một trong những nhà hàng ưa thích của tôi. Hẹn gặp anh lúc bảy giờ nhé. Anh đã có địa chỉ nhà tôi thì phải.”
“Ðể tôi tự ra về, chị không cần tiễn. Melinie, thật hân hạnh được gặp chị hôm nay và hẹn sớm gặp lại chị nhé.”
Tôi nhìn anh ta bước ra cửa, đã bắt đầu nghĩ đến việc sẽ mặc gì cho tối mai. Và khi ngồi xuống, tôi lại nghĩ đến tất cả những đảo lộn mà ngôi nhà đang mang đến cho tôi, nhưng cũng bằng cách nào đó mà nó cũng đã mang đến cho tôi hai người đàn ông để tôi hẹn hò, hai người đầu tiên trong rất nhiều năm qua.
***
Không có ai ở nhà khi tôi về nhà khoảng chín giờ tối. Bà Houlihan đã để bữa tối trong một chiếc đĩa sứ có bọc giấy nhôm cho tôi trên bếp lò, và tôi để ý thấy những tấm vải bạt đã được dán băng dính trên sàn nhà ngay bên dưới chân cầu thang uốn lượn. Những chiếc mặt nạ giấy, giống như loại nha sĩ thường dùng, và những tấm giấy chà nhám được sắp chồng lên nhau trên bậc thang cuối. Rõ ràng có người đã chú ý đến bảng phân công của tôi, vì tôi có thể thấy thanh cầu thang đầu tiên đã được cạo sạch sơn và để lộ ra màu gỗ nguyên thủy của nó. Tôi lại liếc nhìn lên thành cầu thang và đếm. Vẫn còn phải cạo sơn thêm cỡ một trăm lẻ sáu cái nữa. Bằng tay. Tôi thở dài, phát ốm khi nghĩ đến tất cả những công việc cần làm. Và đó chỉ mới là phần nội thất.
Tiếng bước chân tôi đi nghe vang vọng khi tôi bước vào đại sảnh và nghĩ đến lời Sophie khi nó bảo phần ngoại thất cũng cần phải được bảo dưỡng. Rõ ràng là tôi không được phép làm bất cứ việc gì cho phần ngoại thất của ngôi nhà - bao gồm cả việc thay mái nhà - cho đến khi tôi nhận được đèn xanh từ cái Ủy ban Phê bình Kiến trúc Charleston khét tiếng kia. May mắn cho tôi, Sophie bảo rằng nó sẽ lo việc nộp đơn gồm ba giai đoạn giúp cho tôi, còn tôi chỉ cần thong thả ngồi chơi và gặm nhấm cái mái nhà dột nát này khi trong lòng thì mơ tưởng đến một cửa hàng tạp hóa hay ho hay một cây xăng nào đấy trên khu đất mà ngôi nhà này chiếm đóng. Thế thì cũng hay vì Sophie sẽ đối phó với cái Ủy ban ấy thay cho tôi.
Những gì còn sót lại của chiếc đèn chùm giờ đã được mắc lên tường trong đại sảnh, trong đó có cả sự cần cù góp nhặt những mảnh thủy tinh vỡ vụn kéo dài gần suốt cả đêm trước của tôi và Jack. Vẫn chưa hết, khi tôi bước qua sàn nhà bằng đá hoa cương trầy xước này, tôi cảm thấy bàn chân mình đang giẫm đạp lạo xạo trên những mảnh vỡ li ti, giống như lời nhắc nhở về thảm họa của đêm qua và cũng như về bóng ma của một thiếu phụ đã tự biến mất gần như cùng lúc với khi bà ấy vừa hiện ra.
Tôi ăn bữa tối nguội lạnh của mình, không còn hơi sức nào để hâm nóng đồ ăn trong lò nữa. Rõ ràng, ông Vanderhorst đã không kịp phát hiện ra niềm vui của việc sử dụng lò vi sóng, trong khi phòng bếp và các thiết bị nhà bếp đã mắc kẹt lại đây từ thời những năm một chín bảy mươi, hệ thống sưởi và máy lạnh trung tâm cùng đường ống nước cũng cùng chung số phận.
Tôi kiểm tra cửa chính lại vì muốn biết chắc nó đã được khóa cẩn thận, rồi bật lên hệ thống báo trộm trước khi lê bước leo lên cầu thang. Tôi chiến đấu với những cái vòi nước trong bồn tắm để tránh không bị bỏng và rồi cũng tắm được nước ấm và đánh răng mà không bị thương tích gì.
Cho đến mười giờ thì tôi lên giường và tắt đèn đi ngủ, nằm lắng nghe sự yên ắng xung quanh mình và cảm thấy rất rõ là tôi không hề chỉ một mình. Tôi cứ trăn trở, rồi lắng nghe tiếng điểm chuông của chiếc đồng hồ cổ cách mỗi một phần tư giờ, và tự nhắc nhở mình rằng tôi cần phải hỏi Jack xem anh đã tìm được gì mới từ những tấm hình ấy. Khi đồng hồ điểm mười một giờ, tôi ngồi bật dậy, cảm nhận một ý nghĩ thúc bách vốn chỉ bật lên trong tích tắc khi tôi còn thức tỉnh và mang một ấn tượng rõ mồn một rằng nó chẳng phải do tôi tự nghĩ ra. Cuốn album hình. Tôi ngồi trên mép giường và căng tai lên, cố lắng nghe giọng nói mà tôi biết chắc mình đã nghe lần đầu tiên. Tôi nhớ lại thời tôi còn nhỏ, trước khi tôi học được cách phớt lờ những thứ như thế này, nếu tôi chú ý thật kỹ, lúc nào tôi cũng có thể nghe những tiếng rì rầm của những tiếng nói rất nhẹ như thể có ai đó đã mở radio và đặt nó trong một căn phòng hơi xa nào đấy. Nhưng tối nay, tôi chẳng nghe thấy gì ngoài sự yên lặng, trong khi ý nghĩ nài ép ấy đến từ trong xương sọ của mình. Cuốn album hình.
Tôi choàng vào người chiếc áo khoác ngủ và dép lê rồi hướng về phía phòng ngủ dành cho khách, đi đến đâu tôi bật đèn đến đó. Không tính bao nhiêu lần tôi đã thấy họ, nhưng ta sẽ dễ nhìn thấy người chết hơn khi đèn được bật sáng.
Tôi từ từ đẩy nhẹ cửa, trượt tay vòng quanh khung cửa mò tìm và bật công tắc đèn trước khi thật sự bước vào trong. Bóng đèn cũ kỹ trên trần nhà nổ nhẹ, rồi tắt phụp, như thể báo với tôi rằng căn phòng thích bóng tối hơn. Một vệt sáng hình tam giác từ hành lang hắt vào giống như ánh đèn chiếu điểm trên giường ngủ, làm hiển hiện những cánh tay đòn của khung màn treo bên trên và, ngay chính giữa tấm nệm lùm lùm, là cuốn album hình của bà Louisa.
Tôi ngập ngừng bước vào phòng, hít thở thật sâu, và nhẹ nhõm khi tôi không ngửi thấy mùi thối rữa độc hại hay mùi hoa hồng nào cả. Tuy nhiên, khi tôi bước gần hơn đến chiếc giường, tôi bắt đầu thoáng bắt được mùi cỏ tươi vừa được cắt, và từ xa xa, tôi nghĩ hình như mình có nghe tiếng em bé khóc. Lần đầu tiên trong một thời gian thật dài, tôi ước gì có mẹ mình bên cạnh. Xem đấy là một ý nghĩ kỳ quặc, nhưng nhớ khi tôi còn nhỏ thì mẹ tôi đã từng luôn luôn làm vật đệm giữa tôi và những thứ mà tôi không hiểu được.
Tôi nhìn vào những ngón tay nhợt nhạt của mình, đè bẹp chúng trên cuốn album vẫn chưa mở, và nhớ lại rằng mẹ tôi đã từng luôn mang găng tay. Nó đã trở thành một phần đặc trưng tính cách quý phái của bà ấy, nhưng tôi luôn luôn biết sự thật: chúng là một cái màn lọc để làm dịu bớt sức mạnh của những thứ mà bà ấy gặp phải một khi bà tình cờ chạm tay vào một vật thể hoặc bàn tay của một ai đó. Giờ đây thì, thậm chí trong thời tiết lạnh, tôi vẫn không chịu nổi ý nghĩ phải đeo găng tay nữa là.
Hít một hơi thật sâu, tôi cầm cuốn album lên, các giác quan của tôi bỗng dưng bị quá tải với những mối xúc cảm và mùi hương vốn chẳng liên quan gì đến tôi cả, hay đến căn phòng ngủ nằm ở cuối dãy hành lang, hoặc ngay cả thời khắc này. Tôi mở cuốn album ra trang đầu tiên với tấm hình cưới của Louisa và Robert, mắt tôi bỗng tràn ngập nước mắt. Ðây là những kỷ niệm của Louisa, chứa đựng trong cuốn album này, chính xác như một tấm hình trắng đen. Khi tôi ngồi bệt xuống sàn với cuốn album trên đùi, tôi có cảm giác chèn ép của chiếc áo nịt ngực thời xưa sau lưng mình và nhìn thấy một người đàn ông đội nón rơm rộng vành đang đẩy máy cắt cỏ ở phía cuối vườn. Thậm chí khi tôi rùng mình ở tư thế ngồi trên sàn, dựa vào giường, tôi vẫn có thể cảm nhận được cảm giác cưng cứng của chiếc bút máy trong bàn tay tôi, và lớp giấy dày của cuốn album trượt xuống dưới lòng bàn tay tôi khi tôi viết những chữ này trên trang album lúc này đã trống trơn.
Ngày 5 tháng 6 năm 1921 - Ngày cưới của chúng tôi - Robert Nevin Vanderhorst và Louisa Chisholm Gibbes. Mặc dù cuốn album này được tặng cho tôi hơn một năm sau ngày cưới nhân dịp ra đời của con trai chúng tôi, thì tôi vẫn muốn bắt đầu câu chuyện đời chúng tôi bằng tấm hình này bởi vì nó chính là sự khởi đầu của cuộc đời tôi và anh ấy. Ðối với cả hai chúng tôi, đấy là ngày hạnh phúc nhất đời của cả hai người. Tôi chưa bao giờ có thể tưởng tượng được cảm giác khi yêu là sẽ như thế này, cảm giác thật no nê thừa mứa đến mức đồ ăn thức uống cũng trở nên không còn cần thiết nữa. Chúng tôi đã trao đổi lời thề ước tại nhà thờ thánh Michael, và sau lễ cưới là tiệc mừng tại nhà của Robert trên phố Tradd - giờ đây đã trở thành nhà của tôi, dĩ nhiên. Anh ấy đã làm tôi ngạc nhiên bằng việc chiết nhánh một trong những bụi hồng Louisa ở nhà ba mẹ tôi và mang về nhà anh ấy, và đối với tôi đó thực sự là cảm giác được quay trở về nhà cũ của mình. Anh ấy biết rõ từng ước muốn và khát khao của tôi ngay trước khi tôi thổ lộ điều ấy ra, và đó cũng là điều mà tôi muốn làm cho anh ấy. Robert và tôi, cả hai là một sự hòa hợp tuyệt vời, và tôi có thể thấy rằng chúng tôi sẽ cùng chung sống hạnh phúc mãi mãi về sau trong ngôi nhà tuyệt đẹp này cho đến khi răng long đầu bạc. Mặc dù đã có những việc xảy ra ngoài tầm kiểm soát vốn sẽ có thể làm tổn hại đến hạnh phúc lứa đôi, nhưng tôi biết rằng cả hai chúng tôi đều sẽ kiên gan bền chí.
Tôi nhìn thấy những bàn tay không phải là của tôi bắt đầu lật sang trang khác có tấm hình của ngôi nhà chụp từ bên hông. Vườn hồng vẫn còn đó, những bông hoa nở to nặng và chín mọng như trái cây, những giọt mực đỏ nhiễu lên trên tấm hình đen trắng. Nhưng cái vòi phun nước không có ở đấy, có lẽ khi ấy nó chưa được xây, và tôi lại nghe thấy tiếng nói bảo tôi hãy để ý đến khu vườn và nhìn vào những bông hoa hồng, và hãy nhúng hai bàn tay vào lớp đất màu mỡ. Tôi nhìn kỹ hơn, ngửi thấy mùi hoa hồng cùng với mùi cỏ vừa được cắt xén cùng mùi đất ẩm, và nhìn thấy khoảnh đất nơi mà hiện giờ đang có cái đài phun nước, cỏ vàng nâu bên dưới bóng cây sồi khổng lồ. Nhìn xem, tôi lại nghe tiếng nói ấy và bắt đầu nhìn tổng thể bức tranh của ngôi nhà, khi ấy thậm chí trông vẫn là nhà xưa từ chín mươi năm về trước. Nhưng chẳng hề có những hàng hiên ọp ẹp hay vài tấm ngói bị mất trên mái nhà, cũng như không có dấu vết của cỏ dại bày bừa ra khu vườn. Những nhánh cây đầu xuân và hoa cúc đại đóa bám vào những bụi cây ở bên hông ngôi nhà, nhưng chính những bông hồng của Louisa mới là nổi trội hơn cả trong tấm hình trắng đen vì tôi có thể mường tượng ra màu sắc ngoài đời của chúng khi chúng vẫn còn mới so với ngôi nhà. Nhìn này, tôi lại nghe tiếng nói ấy một lần nữa.
Tôi lại cảm nhận được cây bút trong bàn tay không phải của mình khi nó bắt đầu viết những lời chú giải bên dưới tấm hình của ngôi nhà.
55 phố Tradd - Tổ ấm của chúng tôi. Tôi chọn tấm hình này làm tấm thứ hai trong album bởi vì đây là nơi mà cuộc sống chung của chúng tôi đã bắt đầu. Tôi yêu ngôi nhà này như thể nó là nhà của chính mình. Robert kể cho tôi nghe những câu chuyện về những người phụ nữ của dòng họ Vanderhorst vốn đã từng sống ở đây qua nhiều thế hệ và tôi kế thừa di sản của họ như thế nào khi tôi lấy anh ấy. Ðó là một di sản mà tôi ôm ấp trong tim, và là một người mới lấy chồng, tôi mong mỏi được đóng dấu ấn của mình lên ngôi nhà này để các thế hệ sau lại có thể nhớ về tôi. Khi tôi mới dọn vào, mẹ của Robert đã qua đời gần mười năm, và khi ấy tôi e ngại ngôi nhà sẽ mang dáng vẻ là nhà của một người đàn ông độc thân. Thậm chí là khu vườn này, dù được chăm sóc tốt thì vẫn cho thấy thiếu vắng bàn tay phụ nữ. Ngay sau khi cưới nhau, tôi đã quyết định mình sẽ mang đến cho khu vườn một luồng sinh khí mới. Bởi vì một khu vườn cũng giống như trái tim của một ngôi nhà, nơi yêu thương là những hạt giống còn đất đen là người mẹ luôn nuôi dưỡng cây non cho đến khi chúng trưởng thành, và rồi chờ đợi chúng trở về với vòng tay rộng mở. Ðó là câu chuyện mà chúng tôi được nghe đi nghe lại nhiều lần từ khu vườn này: cát bụi là nơi khởi đầu, và chúng ta cũng sẽ lại trở về cát bụi. Có lẽ đó là tại sao khu vườn là nơi tôi yêu nhất trong ngôi nhà mới này - có lẽ cũng là vì khi tôi nhúng tay vào đất ẩm, tôi cảm thấy đã ở bên tổ ấm của mình.
Tôi bỏ cuốn album ra và giơ hai bàn tay lên mặt, ngửi mùi đất và dần dần bắt đầu làm quen với căn phòng chung quanh tôi, với chiếc giường ngủ có bốn cột và chiếc bàn viết thư Hepplewhite ở bức tường xa nhất. Và của tiếng bước chân trong đại sảnh dưới nhà. Nhẹ nhàng, tôi trượt cuốn album ra khỏi đùi và đứng dậy, đầu tôi quay mòng mòng như thể tôi vừa thức dậy sau một giấc ngủ sâu. Thấy trên bàn trang điểm có vật gì đó trông giống như bức tượng nhỏ có thể dùng làm vũ khí, tôi nắm lấy nó rồi nhẹ nhàng bước ra cửa phòng.
Và rồi tôi chợt nhớ ra rằng tôi đã bật lên hệ thống báo trộm và nhận thấy rằng bất cứ ai hay vật gì đấy đã tạo nên những tiếng bước chân ấy sẽ không bị hạ gục chỉ bởi một bức tượng sứ nhỏ bé. Mặc kệ, tôi vẫn lặng lẽ bò ra hành lang còn sáng đèn trên lầu rồi ló mặt nhìn qua các chấn song cầu thang và nhìn xuống đại sảnh bên dưới. “Ai đấy?” tôi la lớn, giọng tôi nghe bình tĩnh hơn rất nhiều so với cảm giác thật của tôi lúc này. “Tôi có vũ khí và tôi đã gọi chín-một-một.” Tôi tự hỏi mình có nên chạy lại vào phòng để lấy điện thoại hay không nhưng rồi rõ là tôi chẳng muốn quay lưng lại với bất cứ vật thể nào đang ẩn nấp dưới nhà. Tôi xem lại bước tượng sứ nhỏ thì thấy đó là một chú bé chăn cừu bên cạnh con cừu con, thế là tôi nhét nó vào bên dưới ve áo choàng ngủ để nó trông giống như một vũ khí thật sự.
Tôi lại nghe tiếng bước chân, lần này nghe giống như từ phòng khách dưới nhà, rồi tiếng bước chân dừng lại, trong đầu tôi bắt đầu hình thành ý nghĩ rằng kẻ đột nhập này có thể là người thật rồi đây. Nhưng tôi nhớ mình đã bật hệ thống báo trộm lên rồi cơ mà. Tôi dựa vào thành cầu thang rồi cố nhìn qua đại sảnh tối om bên dưới để tìm cửa chính nơi có hệ thống báo trộm đặt sát đấy. Nút đèn xanh báo hiệu “SẴN SÀNG” tỏa sáng trong bóng tối, cho thấy hệ thống chưa được bật lên.
Tôi nhanh chóng thẳng người lên, tưởng chừng như tim tôi đã nhảy lên đầu, nơi tôi có thể nghe nó đập loạn xạ.
“Ai đó?” tôi lại nói to. “Tôi có vũ khí và tôi sẽ không ngại sử dụng nó đấy. Bước ra cho tôi thấy để tránh thương tích nhanh lên.” Tôi thậm chí không kịp xem xét việc kẻ đột nhập có thể đã bắt bài tôi rồi sẽ xuất đầu lộ diện. Thế là tôi phải hợp lý hóa rằng tôi có thể giữ chân hắn lại với cái tượng sứ nhỏ lấp ló bên trong áo choàng cho đến khi tôi gọi được cho cảnh sát.
Một hình hài đen ngòm bắn ra từ phòng khách và vọt qua đại sảnh ngay trước mặt tôi, khiến tôi loạng choạng vì bất ngờ và làm rơi cái tượng sứ cùng lúc tôi nghe tiếng cửa trước dập mạnh. Tôi nhảy nhanh xuống bốn bậc thang cuối, những mảnh sứ vỡ vụn rào rạo dưới đôi dép lê, rồi tôi lao nhanh ra cửa trước. Tôi lần tìm cái nắm cửa, nhưng những ngón tay của tôi chỉ có thể vuốt nhẹ lên cái nắm cửa bằng đồng trước khi có cái gì đó thật khỏe và quyết tâm chặn đứng tôi lại, sức đẩy của chuyển động tiến tới của tôi đã vật tôi ngã ngược lại xuống sàn nhà.
Dưỡng khí trong phổi tôi phọt mạnh hết ra ngoài, tôi nằm trên sàn nhà và cố hít thở trong khi điên cuồng lùng sục chung quanh đại sảnh lờ mờ tìm xem cái quỷ gì đã vật tôi ngã xóng soài như thế này. Sau đó thì tôi bỗng nhận ra cái mùi ôi thiu ấy, nồng nặc và hôi thối đến nỗi tôi bắt đầu nôn ọe trong khi nỗ lực ngồi dậy. Hai gót chân tôi chới với tìm điểm tựa trên sàn nhà bằng đá trơn láng nhưng tôi không tài nào cử động được. Có cảm giác như tôi đang bị đè xuống bằng hai bàn tay cực kỳ khỏe nhưng vô hình.
Ta mạnh hơn ngươi, ta mạnh hơn ngươi, tôi lặp đi lặp lại những từ ấy trong đầu, cố tìm lại sức lực mà những từ ấy sẽ mang đến. Tôi bắt đầu đá loạn xạ và lăn lộn, vị mật đắng và khủng hoảng khiến tôi nghẹt họng. “Thả tôi ra!” tôi kêu gào, cảm thấy thật bất lực và cô độc như cảm giác của tôi sáng hôm ấy khi tôi mới sáu tuổi, thức dậy vào một buổi sáng và biết rằng mẹ mình đã bỏ đi. Sự giận dữ mà ký ức gợi lại đã khiến tôi lại gắng sức vùng vẫy một lần nữa, vị mặn của nước mắt bắt đầu xốn xang trong vòm họng tôi. “Thả tôi ra!” tôi nửa la hét nửa thổn thức, cong lưng lên trong cơn giận dữ đầy tuyệt vọng.
Và rồi những cánh tay vô hình đang giữ tôi tự nãy giờ bỗng dưng thả ra, nhờ đấy tôi có thể lảo đảo ngồi dậy và tôi ấn vào vật gì đó mà lúc này không còn đấy nữa. Tôi rùng mình, lần đầu thực sự cảm thấy sự lạnh giá của căn phòng, thở phù ra những sợ hãi lẫn nhẹ nhõm khi tôi đã ngồi được trên sàn nhà. Mùi thối rữa từ từ dịu đi, thay thế bằng hương hoa hồng ngào ngạt.
Từ chỗ đang ngồi, tôi có thể nhìn thấy bảng điện tử của hệ thống báo trộm, đèn xanh báo hiệu SẴN SÀNG vẫn sáng chói. Tôi biết chắc mình đã bật hệ thống lên, nhớ rằng mình đã làm việc ấy đến từng chi tiết nhỏ. Thế thì tại sao nó lại bị tắt? Tôi chẳng hề nghe tiếng bíp báo động rằng có người đã vào nhà, thế thì chắc chắn nó đã bị tắt từ bên trong. Một sự rùng mình chạy suốt cả cơ thể khi tôi nhớ lại hình người đen chạy ngang trước mặt tôi và rồi ra khỏi cửa. Kẻ đột nhập ấy là người bằng xương bằng thịt, một người nào đó vốn có thể gây thương tích cho tôi hay có thể tệ hơn thế nữa, nhưng kẻ ấy đã không muốn làm gì tôi cả. Và rồi tôi nhớ lại hai bàn tay đã đè tôi xuống, như thể muốn chắc chắn rằng tôi không thể chạy theo kẻ đột nhập ấy. Giống như cả hai tên ấy đã có âm mưu với nhau rồi.
Tôi đứng lên, vẫn còn run rẩy và bám vào tường cho đến khi tôi thấy chân mình có thể đứng vững được. Rồi tôi khóa chốt lại cẩn thận và lại bật lên hệ thống báo trộm, từ từ đi vào phòng khách và nhấc điện thoại lên. Tôi bật sáng đèn bàn và nhìn chung quanh xem có mất gì không, chỉ cần liếc sơ qua thì tôi có thể nói không có gì bị xáo trộn: những cái đĩa sứ Trung Hoa vẫn nằm trên bệ lò sưởi, bộ ấm tách trà bằng bạc, những bức tranh sơn dầu treo tường vẽ những người trong gia tộc Vanderhorst chết đã lâu vẫn nằm đâu ra đó.
Tôi tiến lên một bước, và chân tôi vướng vào cái gì đấy khiến tôi ngã dúi dụi ra phía trước. Nhìn xuống, tôi nhận thấy góc tấm thảm đã bị lật lên như thể có ai đó đã cố tìm vật gì giấu bên dưới.
Nhìn qua khóe mắt, tôi thấy có vật gì đấy bay vụt qua căn phòng, rơi ầm xuống tấm thảm ngay trước mặt tôi. Ðó là một cái khung hình, chính xác là cái khung có tấm hình của Louisa và đứa con trai bé nhỏ của bà ấy. Cái khung hình rơi ngay sát bàn chân tôi, hai gương mặt trong ấy nhìn lên tôi chằm chằm. Tôi cầm nó lên và suýt nữa lại làm rơi cái khung hình khi nghe tiếng chuông cửa reo vang.
Ôm điện thoại vào lòng, tôi bò trườn ra cửa chính, sẵn sàng gọi chín-một-một. Tôi ghé mắt nhìn qua những ánh đèn bên hông thì nhận thấy một hình hài quen thuộc.
Chuông cửa lại reo. “Tôi đây, Mellie - Jack đây. Nếu cô muốn gọi tôi vào lúc nửa đêm thì làm ơn chờ ngay ở cửa khi tôi đến nhé.”
Tôi quá đỗi vui mừng khi thấy anh đến nỗi tôi chẳng buồn hỏi anh đang nói về cái quái quỷ gì nữa. Tôi giật mạnh cái then cửa và tắt báo trộm trước khi mở cửa và nhào người vào anh.
“Woa, Mellie - cũng rất mừng được gặp cô đấy, nhưng cô không thể chờ đến khi tôi cởi đồ ra trước à?”
Tôi vùi mặt vào chỗ hõm trên cổ anh, hít thở mùi hương trên ấy, và đấm vào lưng anh.
“Em đang run rẩy kìa.” Giọng anh đầy lo lắng rồi anh bế tôi lên và mang tôi vào nhà, dùng chân đá cửa cho đóng lại sau lưng anh. “Việc gì đã xảy ra? Trông em như vừa thấy ma ấy.”
Tôi cố kềm lại tiếng cười cuồng loạn của mình, sợ rằng một khi tôi bắt đầu cười thì sẽ không thể nào dừng lại được. Một cảm giác ngờ ngợ kỳ lạ bỗng bao trùm lấy tôi, hồi tưởng lại một cảnh tượng khác cũng giống như thế này nhưng không phải với Jack. Nó có liên quan gì đấy đến mẹ tôi, nhưng tôi đã nhanh chóng xúc hết những hồi tưởng ấy cho vào trong những góc khuất nhất của não bộ tôi, nơi trú ngụ của tất cả những điều thuộc về quá khứ mà tôi không hề muốn ghé lại bao giờ.
Jack vén tóc trên mặt tôi, hai bàn tay anh ôm lấy hai bên hàm tôi. “Tôi lo quá. Số điện thoại của em cứ chớp liên tục trên màn hình điện thoại nhưng em lại không chờ đủ lâu để nói chuyện với tôi. Thật là hoảng hồn. Nhưng tôi vẫn còn thức và rằng thấy mình cần ghé qua đây để xem em có sao không.”
Tôi nhìn vào mặt anh, tự hỏi không hiểu có phải anh đang nói đùa hay không. “Em chưa bao giờ gọi cho anh cả. Không có lấy một lần. Ðiện thoại nhà lẫn điện thoại di động.”
Tôi nhìn sự bối rối lan tỏa trên gương mặt anh và cùng lúc chiếc đồng hồ cổ bắt đầu điểm mười hai giờ đêm và hương hoa hồng tươi tràn ngập không gian chung quanh chúng tôi. Tôi nhấc tay để chạm vào bàn tay anh và đó là lúc cả hai chúng tôi cùng để ý thấy đất đen đã bám chặt vào da tôi tự đời nào.