Với khối hợp kim các loại chất lượng cực cao lần lượt ra lò
Nam Việt quốc lao đầu vào chế tạo các loại linh kiện tạo nên
các Sator và rortor kích cỡ khác nhau những chiếc có đường
kính đến tận 5 7 m để chế tạo các máy phát điện ba pha, các
kích cỡ 30 đến 50 cm là các động cơ ba pha dành cho các máy
công nghiệp như khoan, cắt, mài v.v... Trong hai tháng khu công
nghiệp cạnh nhà máy thủy điện Thái Dương cách Đông Kinh 2km này chỉ tập chung chế tạo các loại linh kiện liên quan đến điện
như vậy. Vì liên quan đến công nghệ dây dẫn nên các nhà máy
không thể cách xa đập thủy điện 1km. Các đường dây điện đều
phải bọc trong ống sứ để cách điện. Do vậy đường dây truyền
điện là bò trên mặt đất có tường gạch bao vây mà mái che nắng mưa. Vì lý do này mà “điện” rất là xa xỉ, không thể cung cấp
đại trà.
Hai tháng nay bên phe Trung Hoa phát xít cũng
không có bất kì hành động đáng kể nào. Nguyên Hãn biết hành
động này còn nguy hiểm gấp vạn lần Dương Lăng hung hăng. Những
ngày nay trải qua thật giống chiến tranh lạnh, hai bên cùng cắm
đầu phát triển vũ khí, khí tài của mình. Chỉ cần một bên
cảm thấy siêu việt thì chiến tranh sẽ bùng nổ một cách tàn
khốc nhất.
Nguyên Hãn nghĩ không hề sai, Dương Lăng đã
nâng sức sản xuất của 50 triệu người lên một tầm cao mới với
công nghệ hàn. Từng lò lò luyện thép kĩ thuật cao ra đời,
từng cổ máy sản xuất vũ khí được lắp đặt tại các đập thủy
lợi. Tuy rằng chưa bá đạo mà nghiên cứu ra máy ổn áp nhưng máy phát điện với nguyên lý cuộn đồng chuyển động trong từ trường nam châm vĩnh cữu thì ai ở hiện đại mà chả biết. Dương lăng
chỉ đi sau Nguyên Hãn là chưa thể ổn định dòng điện để sử
dụng mà thôi. Về thép thì chất lượng của Trung Hoa đã đuổi
kịp Nam Việt thời chưa có lò hồ quang rồi. Tại sao phe phát
xít lại ngưng hung hăng, câu trả lời là bởi vì họ đang thay đổi toàn bộ vũ khí nặng nề trước đây bằng các loại mới sản
xuất có trọng lượng không hề cao hơn quân Nam Việt, từ nay ưu
thế cơ động của Nam Việt đã hoàn toàn bị triệt tiêu. Sức sản
xuất của 50 triệu người theo chủ nghĩa phát xit thì 5 triệu
người của Nam Việt không thể là đối thủ nếu họ không thể
nghiên cứu ra công nghệ mới giúp hiệu suất lao động tăng cao.
Một lựa chọn khác của Nam Việt là công bố tất cả công nghệ của
mình cho đồng minh. Khi đó dùng sức sản xuất của 200 triệu
người đè chết 50 triệu của Dương Lăng. Thế nhưng Nguyên Hãn phủ
định điều này. Vẫn là câu nói đó “ không có bằng hữu vĩnh
viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn”. Ngay cả Đại Việt đồng minh
thân cận nhất cũng có thể thôn tính Nam Việt nếu họ đủ
mạnh.... lòng đề phòng là không thể không có. Thế nhưng những
công nghệ mà Dương Lăng đã nghiên cứu được thì Nguyên Hãn lập
tức bán ngay cho đồng minh không do dự. Chỉ có công nghiệp điện
và động cơ tuabin hơi, và súng Mosin Nagant thì Nam Việt coi là
tuyệt mật quân sự không lộ dấu. Khi các nước đồng minh của Nam
Việt có được công nghệ luyện thép, chế tạo vũ khí, máy móc
cơ khí v,.v... thì họ bắt đâu chế tạo vũ khí cho riêng mình.
Mà kinh khủng nhất trong đó phải kể đến Đại Việt và Đại Minh.
Tất cả các quốc gia trong khu vực Đông Á bước vào cuộc chạy đua vũ trang hao người tốn của trong nửa năm đầu của năm
1404. Không cần thông báo họ đều biết rằng chậm là chết, mà
chết rất thảm thiết là khác. Trong những tháng này trục chiến tranh chuyển hẳn qua biên giới Trung Hoa và Đại Minh, bởi hai
quốc gia này là bất cộng đái thiên, ít ra cha con nhà Chu Lượng nghĩ vậy. Thuận Thiên hắn và Chu Đệ đánh nhau là chuyện người trong nhà tranh chính thốn nhưng Dương Lăng là kẻ cướp đất của
nhà họ Chu của hắn, giết người hoàng tộc họ Chu, Thuận Thiên
hắn giết dòng Chu Đệ thì được nhưng không kẻ nào được phép
đụng đến đất đai, con cháu nhà họ Chu. Bởi vậy với sự khẳng
khái sẻ chia công nghệ không che dấu với giá 100 triệu lượng
trả trong 5 năm, Đại Minh đã tự sản xuất thép, súng trường
NTL10mm côn hộp và NTL11mm KN, cùng các loại pháo, súng cối lò
xo, mìn, lựu đạn. Sức sản xuất của 100 triệu người quả thật
quá khủng bố. Chỉ trong 3 tháng từ tháng 3 đến tháng 6 hơn ba
mươi vạn quân trang bị súng trường đủ loại tràn lên ở hai mặt
trận Sơn Đông và Sơn Tây. Thế cục chiến tranh lạnh bị phá vỡ.
Hai mươi vạn quân hỏa thương phương bắc anh dũng thiện chiến và
ba mươi vạn quân phương nam lấy thịt đè người tàn sát nhau tại
chiến trường bất phân thắng bại.
Thuận Thiên giờ đây
cũng chả cần yêu cầu quân đồng minh hỗ trợ, hắn quá tự tin
vào bản thân. Tự tin vào Nguyễn Súy, Phạm Chân, Trương Phụ và
Hứa Giang lãnh binh. Chơi tiêu hao người là thứ mà Thuận Thiên
Hắn không sợ nhất. Cuộc nội chiến của Hán tộc mới coi là
thảm thiết nhất, các tộc khác cứ phải trố mắt mà nhìn.
Nguyên Hãn cũng tặc lưỡi, nếu không có Hải Quân cường bá mà
chỉ dựa vào lục quân hắn không thể nào là đối thủ của một
trong bất kì ai trong hai quốc gia này.