“Loại Arập đi trên hai chân. Loại Arập của nước Arập”.
“Cô quen nhiều hơn thế, Sarah”.
“Người Libăng, Palestine, Gioócđan, người Ai Cập”.
“Còn người Arập Xêút thì sao? Cô đã bao giờ học cùng trường với người Arập Xêút chưa?”
“Có một vài cô gái Arập Xêút học cùng tôi ở trường Thụy Sĩ”.
“Những cô gái Arập Xêút này đều giàu có chứ?”
“Chúng tôi ai cũng giàu”.
“Cô có kết bạn với họ không?”
“Họ rất khó gần và không thân thiện. Họ chỉ chơi với nhau”.
“Thế còn những chàng trai Arập?”
“Họ thì sao?”
“Cô đã bao giờ làm bạn với họ chưa?”
“Rồi”.
“Đã bao giờ hẹn hò chưa? Hay ngủ với họ?”
“Chưa”.
“Tại sao chưa?”
“Có thể do sở thích của tôi không phải là những người đàn ông Arập ”.
“Cô có bạn trai người Pháp chứ?”
“Vài người”.
“Bạn trai người Anh?”
“Chắc chắn rồi”.
“Nhưng không có người Arập?”
“Không”.
“Cô có thành kiến với người Arập?”
“Ông đừng ngớ ngẩn thế”.
“Vậy thì có thế kết luận cô đã có thể hẹn hò với người Arập. Cô chỉ không thích làm điều này”.
“Tôi hi vọng ông không yêu cầu tôi làm mồi nhử trong bẫy tình cảm bởi vì…“
“Cô đừng ngớ ngẩn thế”.
“Vậy tại sao ông lại hỏi tôi những câu hỏi này?”
“Bởi vì tôi muốn biết liệu cô có cảm thấy thoải mái trong hoàn cảnh làm việc và giao tiếp xã hội với đàn ông Arập không”.
“Câu trả lời là có”.
“Khi gặp một người Arập, liệu cô có bất giác nghĩ đến khủng bố không?”
“Không”.
“Cô có chắc về điều này không, Sarah?”
“Tôi nghĩ rằng điều này còn phụ thuộc vào việc ông đang muốn nói đến loại người Arập nào”.
Anh nhìn đồng hồ. “Trễ rồi”, anh không nói với ai cụ thể. “Tôi chắc rằng Sarah đáng thương đã đói bụng lắm rồi”. Anh gạch ngang một đường đỏ đậm trên sổ tay. “Chúng ta gọi thức ăn đi. Sarah sẽ cảm thấy đỡ hơn sau khi đã có thứ gì vào bụng”.
Họ gọi kebabs từ tiệm giao hàng tận nơi ở trung tâm Georgetown. Hai mươi phút sau thức ăn được chuyển đến trong cùng chiếc Suburban đưa Sarah đến ba giờ trước. Gabriel xem việc chiếc xe tái xuất hiện như là tín hiệu bắt đầu cuộc phỏng vấn ban đêm. Trong vòng hai mươi phút kế tiếp anh chú trọng vào việc học và kiến thức của cô về lịch sử nghệ thuật. Câu hỏi của anh đặt nhanh đến nỗi cô hầu như không có thời gian để ăn. Còn về phần mình, anh cũng không đụng đến phần kebab đặt kế bên quyển sổ tay màu vàng. Anh ta là người khổ hạnh, cô nghĩ. Anh ta không màng đến thức ăn. Anh ta sống trong một căn phòng không có đồ đạc và tồn tại nhờ bánh mì và nước lã. Gần nửa đêm anh ta mang đĩa thức ăn vào nhà bếp và đặt lên quầy. Khi trở lại phòng khách anh đứng sau ghế một lúc, tay đỡ cằm và đầu hơi nghiêng sang một bên. Ánh đèn chùm đã khiến mắt anh chuyển sang màu xanh ngọc lục bảo. Đôi mắt ấy liên tục dõi lên cô như đèn pha. Anh ta sắp sửa khiến mọi việc tiến đến cao trào, cô nghĩ. Anh ta đang chuẩn bị tấn công lần cuối.
“Hồ sơ cho biết cô chưa lập gia đình”.
“Đúng vậy”.
“Hiện tại cô có đang quen ai không?”
“Không”.
“Có đang ngủ cùng ai không?”
Cô nhìn Carter, và ông ta nhìn lại cô buồn bã, tựa như nói với cô rằng. Tôi đã bảo cô những câu hỏi có thể hơi riêng tư.
“Không, tôi không ngủ với ai”.
“Tại sao không?”
“Ông đã bao giờ mất người thân nào chưa?”
Ánh mắt tối sầm đột nhiên bao phủ khuôn mặt anh, cộng với việc Carter chuyển tư thế ngồi một cách không thoải mái, điều đó cảnh báo cô rằng cô đã lạc bước vào vùng cấm.
“Tôi xin lỗi”, cô nói. “Tôi không…“
“Ben phải không? Ben là lý do cô không quen ai?”
“Vâng, đúng là Ben. Dĩ nhiên chính vì Ben”.
“Hãy kể cho tôi nghe về anh ấy”.
Cô lắc đầu. “Không”, cô nói khẽ. “Ông không thể hỏi về Ben. Ben là của tôi. Ben không phải là công việc”.
“Hai người hẹn hò với nhau bao lâu?”
“Tôi đã bảo ông…“
“Cô hẹn hò với anh ta bao lâu, Sarah? Chuyện này rất quan trọng, nếu không tôi đã không hỏi”.
“Khoảng chín tháng”.
“Sau đó chấm dứt à?”
“Vâng, mọi chuyện đã chấm dứt”.
“Cô đã nói lời chia tay phải không?”
“Đúng vậy”.
“Ben yêu cô. Anh ta muốn cưới cô”.
“Đúng vậy”.
“Nhưng cô không chung cảm giác với anh ta. Cô không thích hôn nhân. Có lẽ cô không quan tâm đến Ben nhiều lắm”.
“Tôi rất lo cho anh ấy…”
“Nhưng?”
“Nhưng tôi không yêu anh ấy”.
“Hãy kể cho tôi nghe về cái chết của Ben”.
“Ông nói đùa à?”
“Tôi rất nghiêm túc”.
“Tôi không nói về cái chết của anh ấy. Tôi không bao giờ nói về cái chết của anh ấy. Vả chăng, các ông cũng đã biết anh ấy chết như thế nào. Anh ấy chết lúc chín giờ ba phút sáng, trực tiếp trên truyền hình. Mọi người trên thế giới đều chứng kiến anh ấy chết như thế nào. Ông có trong số đó không?”
“Một vài hành khách trên chuyến bay 175 có thể gọi điện thoại”.
“Đúng vậy”.
“Ben là một trong số đó?”
“Đúng”.
“Anh ấy gọi cho cha à?”
“Không”.
“Anh ấy gọi cho mẹ mình à?”
“Không”.
“Anh trai? Chị gái?”
“Không”.
“Anh ấy gọi cho ai, Sarah?”
Mắt cô đẫm lệ.
“Anh ấy gọi cho tôi, ông đúng là đồ chó hoang khi hỏi như vậy đấy”.
“Anh ấy nói gì với cô?”
“Anh ấy bảo máy bay đã bị không tặc tấn công. Anh ấy bảo bọn chúng đã giết hết tiếp viên. Anh ấy bảo máy bay đang di chuyển rất kì lạ. Anh ấy bảo yêu tôi và rất tiếc. Anh ấy sắp chết, nhưng lại bảo với tôi rằng mình rất tiếc. Sau đó chúng tôi mất liên lạc”.
“Cô đã làm gì?”
“Tôi bật tivi thấy khói bốc lên từ tòa tháp phía bắc của Trung tâm Thương mại thế giới. Tôi bật lên chậm vài phút sau khi chuyến bay 11 đâm vào tòa tháp. Không ai biết chắc chuyện gì đã xảy ra. Tôi gọi FAA nói với họ về cuộc gọi của Ben. Tôi gọi FBI. Tôi gọi cảnh sát Boston. Tôi cảm thấy mình thật vô dụng”.
“Sau đó thì sao?”
“Tôi xem truyền hình. Tôi chờ chuông điện thoại reo lần nữa. Chuông điện thoại không reo. Vào chín giờ ba phút sáng giờ ban ngày miền đông, chiếc máy bay thứ hai tông vào Trung tâm Thương mại. Toà Tháp phía nam đang bốc cháy. Ben đang bốc cháy”.
Một giọt nước mắt lăn chầm chậm trên má cô. Cô chùi đi và nhìn anh giận dữ.
“Ông hài lòng chưa?”
Anh im lặng.
“Bây giờ đến lượt tôi đặt câu hỏi. Các ông nên trả lời đúng sự thật, nếu không tôi sẽ bước ra khỏi nơi này không bao giờ quay trở lại”.
“Cô hãy hỏi bất cứ điều gì mình đang thắc mắc, Sarah”.
“Anh muốn điều gì ở tôi?”
“Chúng tôi muốn cô bỏ việc chỗ bảo tàng Phillips và đến làm cho Tập đoàn Thánh chiến. Cô vẫn còn có hứng thú chứ?”
***
Carter là người đặt bản hợp đồng trước mặt Sarah cho cô ký. Carter có tính thẳng thắn của người theo Thanh Giáo. Hôm nay ông ta mặc chiếc áo thể thao bằng nhung sặc sỡ. Carter có cách cư xử giống như bác sỹ trị liệu và nói tiếng Anh theo giọng Mỹ. Gabriel lẻn ra ngoài giống như tên trộm đêm, đến bên chiếc xe Volvo cũ rích của Carter. Anh biết câu trả lời của Sarah là gì. Cô ấy đã trả lời rõ ràng. Tòa tháp phía Nam đang bốc cháy, cô ấy đã nói. Ben đang bốc cháy. Vì thế Gabriel không quan tâm đến khuôn mặt như ra pháp trường hai mươi phút sau khi cô bước ra khỏi tòa nhà một cách nặng nề, bước xuống cầu thang, chui vào chiếc xe Suburban màu đen đang chờ sẵn. Anh cũng không bị xáo động khi nhìn thấy Carter, năm phút sau đó, băng qua đường với khuôn mặt đầy suy tư và trang nghiêm như người đang mang bình tro hài cốt. Ông ngồi vào đằng sau tay lái mở máy xe. “Máy bay đang chờ tại phi trường Andrews để đưa anh về lại Israel”, ông nói. “Trên đường ra sân bay chúng ta phải ghé qua một nơi. Có người muốn nói chuyện với anh trước khi anh đi”.
***
Trời đã quá nửa đêm. Đường K bây giờ chỉ còn xe tải chở hàng và xe tắc xi chạy đêm. Carter lái xe nhanh hơn thường lệ và liên tục nhìn đồng hồ. “Cô ấy không làm việc này miễn phí, anh biết đấy. Sẽ có nhiều khoản chi trong việc dùng cô ấy. Cô ấy sẽ phải sống ở nơi khác khi chuyện này kết thúc và được bảo vệ trong một thời gian dài”.
“Nhưng ông thu xếp được chuyện này mà, đúng không Adrian? Các ông là những người có nhiều tiền. Ngân sách cho việc bảo vệ an ninh nước Mỹ không thôi cũng đã lớn hơn nhiều ngân sách của toàn bộ đất nước chúng tôi”.
“Anh quên rằng lần hành động này không tồn tại à? Thêm nữa, anh sẽ bước ra khỏi vụ này và lấy được nhiều tiền của Zizi”.
“Được rồi”, Gabriel nói. “Vậy ông đi mà nói với Sarah Bancroft cô ấy sẽ sống mười năm tiếp theo trong khu định cư Do Thái ở Galilee để trốn tránh sự truy sát của lực lượng Thánh chiến toàn cầu”.
“Được rồi, chúng tôi sẽ trả tiền cho việc ăn ở sau này của cô ấy”.
Carter quẹo vài lần. Trong một lúc Gabriel không kịp nhận ra họ đang ở trên đường nào. Họ đi qua mặt trước của một toà nhà tân cổ điển, sau đó quẹo vào một con đường nhỏ nhìn có vẻ trang trọng. Bên trái là trạm canh gác lắp kính chống đạn. Carter hạ cửa sổ xe đưa thẻ cho lính canh xem.
“Chúng tôi có hẹn trước”.
Người lính gác nhìn bảng, sau đó đưa thẻ lại cho Carter.
“Ông lái xe tiếp, sau đó dừng lại trước barie bên trái. Chó nghiệp vụ sẽ đánh hơi xe hơi, sau đó ông tiếp tục lái xe vào”.
Carter gật đầu và nâng kính xe lên. Gabriel hỏi, “Chúng ta đang ở đâu?”
Carter lái xe vòng qua những hàng rào cản và dừng lại nơi được dặn. “Cửa sau Nhà Trắng”, ông trả lời.
“Chúng ta sẽ gặp ai?”. Gabriel hỏi, nhưng Carter còn bận nói chuyện với một sỹ quan khác. Người này đang cố giữ con chó chăn cừu Đức cứ nhăm nhe căng dây muốn lao tới. Gabriel, người sợ chó đến mức đã thành truyền thuyết trong Văn phòng, ngồi yên không động đậy khi con chó đánh hơi quanh chiếc Volvo để tìm chất nổ được giấu kín. Một lát sau, họ băng qua một cổng gác an ninh khác. Carter dừng xe trước bãi đậu xe trống trải ở con đường nội bộ phía đông và tắt máy.
“Tôi chỉ đi đến đây”.
“Tôi sẽ gặp ai, Adrian?”
“Anh băng qua cánh cổng đằng kia và đi lên con đường dẫn đến toà nhà. Ông ấy sẽ ra gặp anh ngay lập tức”.
Anh gặp những con chó trước. Hai con chó lai lông đen tuyền lao ra từ lối vào ngoại giao giống như hai viên đạn bắn ra từ nòng súng rồi giành nhau ngửi khắp quần của Gabriel. Vài phút sau Tổng thống bước ra. Ông tiến về phía Gabriel, chìa một tay cho anh trong khi tay còn lại ra dấu cho lính gác dừng cuộc kiểm tra. Hai người nhanh chóng bắt tay, sau đó đi dọc theo lối đi bọc quanh bãi cỏ phía nam. Những con chó tấn công lần nữa vào mắt cá chân Gabriel. Carter thấy Gabriel quay người lại nói thầm câu gì đó bằng tiếng Do Thái khiến hai con chó cúp đuôi chạy về phía nhân viên Cục An ninh tìm sự che chở.
Cuộc nói chuyện của họ chỉ diễn ra trong vòng năm phút. Theo Carter thấy thì hình như Tổng thống là người nói trong phần lớn thời gian. Họ đi nhanh, chỉ dừng lại một lần dường như để giải quyết một bất đồng nhỏ. Gabriel lấy tay ra khỏi túi áo và dùng chúng để minh họa cho quan điểm của mình. Ban đầu Tổng thống có vẻ như không bị thuyết phục, nhưng sau đó ông gật đầu và vỗ mạnh vào vai Gabriel.
Họ đi dạo xong vòng đầu tiên và chia tay tại lối vào ngoại giao. Khi Gabriel đi về phía đường nội bộ phía đông, những con chó chạy nhanh theo anh, sau đó quay ngược lại, lao vào Nhà Trắng theo chân chủ nhân. Gabriel trườn người qua cánh cửa đang mở để vào xe Carter.
“Ông ấy thế nào?”. Carter hỏi khi quẹo sang đường 15.
“Rất kiên quyết”.
“Hình như hai người có tranh cãi một chút”.
“Tôi gọi đây là bất đồng trong lịch sự”.
“Về chuyện gì?”
“Cuộc nói chuyện của chúng tôi là riêng tư, Adrian, và sẽ là như thế”.
“Tốt đấy”, Carter đáp.