Winnie kéo chiếc ghế xích đu nhỏ đến bên cửa sổ phòng ngủ và ngồi xuống. Cô đã được tặng chiếc ghế xích đu này khi hãy còn bé xíu nhưng đến tận bây giờ đôi lúc, khi không ai buồn để ý, cô vẫn thường co mình ngồi vào nó, bởi chuyển động đung đưa gợi cô nhớ về một điều gì đó thật dễ chịu, một điều gì đó thật dịu êm, những điều sẽ không bao giờ còn có thể hiện lên ngay trong tâm trí cô được nữa. và đêm nay cũng vây, cô muốn được vỗ về an ủi.
Viên cảnh sát đã đưa cô về đến nhà. Mọi người ôm chầm lấy cô liền tức thì, xô cổng, mở toang và lao ra, cúi xuống ôm chầm lấy cô, mẹ cô nức nở, ba cô chẳng nói nổi nên lời, chỉ biết ghì chặt cô vào lòng, còn bà thì líu cả lưỡi vì vui sướng. Đã có một khoảng lặng điếng người khi viên cảnh sát thông báo cho mọi người biết rằng cô đã tự ý bỏ nhà đi, nhưng chẳng cần kéo dài được lâu. Cả nhà cô chẳng hề tin vào chuyện đó, và bà cô còn nói, "Chính là lũ yêu tinh đó. Chúng tôi nghe thấy tiếng chúng mà. Chắc là tụi nó bỏ bùa con nhỏ rồi.'
Và thế là mọi người mang cô vào nhà, và sau khi đã nằn nì bắt cô phải tắm rửa sạch sẽ rồi, cả nhà liền cho cô ăn, âu yếm vuốt ve cô và chẳng chịu, cùng vài tiếng cười khe khẽ và lẩm bẩm, chấp nhận câu trả lời rằng cô đã bỏ nhà đi cùng gia đình nhà Tuck bởi vì - ừm, chỉ vì cô muốn như vậy. Người nhà ấy đã đối xử rất tốt với cô, cho cô ăn bánh rán nè và còn dắt cô đi câu cá nữa. họ là những người lương thiện và tử tế. Tuy nhiên, dù gì thì, tất cả những điều này , ấn tượng tốt mà cô cố tạo ra cho những người bạn của của mình này, sẽ bị xóa sạch khi cô kể cho cả nhà chuyện xảy ra với người mặc đồ vàng. Có thật là cả nhà đã cho gã khu rừng để đổi lại việc tìm thấy cô không? Đúng là như vậy thật. Nhưng có lẽ giờ đây gã chẳng cần đến khu rừng ấy nữa đâu. Bà Mae đã phang cho gã bằng khẩu súng và giờ gã đang bị thương nặng. Mọi người đã đón nhận thông tin này với tâm trạng lẫn lộn niềm hy vọng và nỗi kinh hoàng, rồi cha cô lên tiếng,
"Ba nghĩ là khu rừng sẽ trở lại là của nhà mình nếu người đó... nghĩa là, nếu gã không..."
"Ý ba là, nếu ổng chết phải không ạ" Winnie nói, tỉnh khô trong lúc cả nhà cô ngồi đó, sững sờ. Rồi ngay sau đó, mọi người liền bế cô lên giường và chúc cô ngủ ngon bằng thật nhiều nụ hôn nhưng vừa rón rén rời khỏi phòng ngủ của cô họ vừa lo lắng ngoái đầu lại chăm chăm nhìn cô như thể cảm nhận được một con người khác so với trước đây, cứ như một phần gì đó trong cô đã biến mất vậy.
Đúng, Winnie nghĩ thầm, khoanh tay tréo nhau trên bệ cửa sổ, đúng là cô đã khác với trước đây thật. Những chuyện đã xảy ra với cô chỉ thuộc về một mình cô mà thôi, chẳng liên quan gì đến cả nhà cả. Đây là lần đầu tiên như vậy. Và dẫu có kể bao nhiêu đi chăng nữa cũng chẳng giúp mọi người hiểu hay chia sẻ cảm giác của cô vào lúc này. Đó là một cảm giác vừa mãn nguyện vừa cô đơn, ùa đến cùng một lúc. Khi cô đu đưa trên chiếc ghế, chăm chú nhìn ánh chiều chạng vạng ngoài cửa sổ, cảm giác êm dịu thấm dần vào máu cô. Cảm giác ấy ràng buộc cô với gia đình mình, với ba mẹ và bà bằng những sợi chỉ chắc chắn, quá lâu đời và quý giá đến mức chẳng thể đứt lìa. Nhưng giờ đây lại có những sợi chỉ mới, bền chắc và lôi kéo, ràng buộc cô với gia đình Tuck mạnh mẽ như thế.
Winnie ngắm nhìn bầu trời chuyển dần sang đen thẫm phía trên cánh rừng bên ngoài cửa sổ. Chẳng có nổi dấu hiệu dù chỉ nhỏ nhất của một cơn gió để làm dịu bớt tối tháng Tám ngột ngạt. Và rồi, tren những ngọn cây tận đường chân trười phía xa xa, một ánh chớp trắng lóa chợt lóe lên. Chớp câm. Nó lóe lên dai dẳng liên hồi, không một tiếng động. Như một nỗi đau vậy, cô nghĩ. Và rồi đột nhiên cô khao khát mong chờ cơn dông đến.
Cô khẽ tì đầu lên tay và nhắm mắt lại. Ngay lập tức, hình ảnh người mặc đồ vàng hiện ra. Cô lại nhìn thấy gã , nằm sóng soài bất động trên bãi cỏ úa vì ánh mặt trời. "Ổng không thể chết được" cô thì thầm, nghĩ đến bà Mae. "Không được chết". Rồi cô nhớ lại những kế hoạch của gã về thứ nước suối đó và tiếng ông Tuck nói, "Tất cả bọn họ rồi sẽ đổ về đó như ruồi bu đĩa mật". Và cô nghĩ thầm, "Nếu chuyện về con suối đó là thật thì gã phải chết. Phải là như thế. Và chính vì vậy mà bác ấy đã làm chuyện đó."
Rồi cô nghe thấy có tiếng vó ngựa trên con đường phía dưới, một con ngựa đang vội vã chạy vào làng, và không lâu sau đó, có tiếng bước chân đi tới và tiếng gõ cửa. Winnie rón rén ra khỏi phòng và nấp trong bóng tối ở đầu cầu thang. Đó chính là viên cảnh sát. Cô nghe tiếng ông ta nói, "Chuyện là vậy đấy, anh Foster. Chúng ta không thể buộc tội bắt cóc được vì con gái anh nói là không phải vậy. Nhưng dù sao thì bây giờ cũng chẳng còn quan trọng nữa. Bác sĩ vừa về cách đây mấy phút. Cái gã đó - ông bán đất cho gã phải không? Hắn chết rồi." Yên lặng một lát rồi mấy giọng nói khác xì xầm; rồi có tiếng diêm quẹt và bốc lên mùi hăng hăng của xì gà mới đốt. "Vâng, bà ta cho hắn một phát trí mạng. Thậm chí hắn còn không kịp chống trả nữa.
Cho nên vụ này cũng dễ xử thôi, vì chính tôi thấy bà ta bắn mà. Chứng kiến tận mắt. Không gì phải nghi ngờ cả. Họ treo cổ bà ta là cái chắc."
Winnie trở lại phòng trèo lên giường. Cô nằm trong bóng tối, chống cằm trên gối và nhìn chằm chằm về khoảng sáng hơn ở chỗ ô cửa sổ vuông, nhìn tia chớp dai dẳng ấy. Giống như một nỗi đau, cô lại nghĩ thầm, cơn đau âm ỉ trên rìa bầu trời. Bà Mae đã giết chết gã mặc đồ vàng. Và bà cố ý làm như vậy.
Winnie đã từng giết một con ong bắp cày, vì sợ hãi và giận dữ, vừa kịp để không bị nó đốt. Cô đã đập nó bằng một cuốn sách và giết chết nó. Nhưng rồi nhìn thấy thân thể giập nát đó, đôi cánh mỏng bất động, cô đã ước nó sống dậy được. Cô đã khóc vì con ong đó. Liệu giờ đây bà Mae có khóc vì gã mặc đồ vàng đó không? Bất chấp ước muốn cứu thế giới tránh khỏi thảm họa của bà, liệu bà có mong gã sống lại? Chẳng thể nào biết được điều đó. Nhưng bà Mae đã làm điều mà bà nghĩ cần phải làm. Winnie nhắm mắt lại để không phải nhìn thấy nhịp điệu câm lặng của tia chớp kia nữa. Giờ cô phải làm gì đó. Cô không biết sẽ làm gì nhưng phải làm gì đó. Bà Mae Tuck không thể nào bị treo cổ được
chương 22
Sáng hôm sau vừa ăn sáng xong là Winnie đã tót ngay ra hàng rào. Tính đến lúc này đó là một ngày nóng nực nhất, không khí nặng nề đến nỗi chỉ hơi động chân động tay một tẹo chỉ khiến cho cả suối mồ hôi túa ra và mệt mỏi rã rời. Như hai ngày trước đây thì có lẽ mọi người đã bắt cô phải ở trong nhà, nhưng sáng nay cả nhà lại giữ kẽ với cô, hơi nâng niu nữa, như thể cô là một quả trứng dễ vỡ vậy. Cô nói, “Con ra ngoài chơi đây,” và mọi người lên tiếng, “Được thôi nhưng nóng quá thì vào ngay nhé con.
” Và rồi cô đáp, “Dạ.”
Mặt đất, ở đoạn mòn vẹt trụi cỏ dưới chân cổng rào, nứt nẻ và cứng như đá, phủ màu cháy nắng chết chóc; còn con đường là một dải bụi dày như nhung loá nắng. Winnie đứng dựa vào hàng rào, hai tay nắm chặt chấn song ấm nóng và nghĩ về bà Mae đang ở sau những chấn song nhà tù. Và rồi khi ngước đầu lên, cô nhìn thấy chú cóc đó. Nó đang ngồi chễm chệ bên kia đường, ngay chỗ lần đầu tiên cô nhìn thấy nó.
“Chào mày!” cô nói, vô cùng vui sướng khi thấy nó.
Con cóc chẳng buồn nhúc nhích, cả nháy mắt cũng không. Hôm nay trông nó như khô cả lại, khô queo khô quắt. “Chắc là nó khát,” Winnie tự nhủ. “Có gì lạ đâu vào một ngày thế này.”
Thế là cô rời khỏi hàng rào và quay trở vào nhà. “Bà ơi, cho con chút nước vào trong đĩa được không ạ? Ngoài kia có con cóc trong như sắp sửa chết khát đến nơi ấy. “
“Một con cóc à?” bà cô nói, nhăn mũi vì ghê tỏm. “Cóc, bọn dơ bẩn. “
“Nhưng không phải con này,” Winnie nói. “ Nó hay ở chỗ đó lắm và con thích nó. Con cho nó uống nước được không hả bà?”
“Cóc không uống nước đâu,Winnifred à. Làm vậy cũng chẳng giúp ích gì cho nó cả.”
“Tụi nó không cần uống chút nước nào thật hả bà?”
“Không cần. Nó hút nước qua da, giống như miếng bọt biển vậy đó. Lúc trời mưa.”
“Nhưng mà mãi đến giờ trời có mưa đâu!” Winnie nói, hốt hoảng cả lên.” Con có nên rưới nước lên mình nó không hả bà? Như vậy có ích gì không ạ?”
“Để bà đi với con. Bà không muốn con ra khỏi sân một mình”
Nhưng khi hai người đến bên hàng rào, Winnie bưng theo một chén nước nhỏ, cẩn thận hết mức giữ cho khỏi đổ, thì con cóc đã bỏ đi đâu mất.
“Vậy chắc là nó không sao,” bà nói. “Nếu như nó còn nhảy nổi”
Lẫn lộn cảm giác vừa thất vọng lại vừa nhẹ nhõm, Winnie vẩy nước lên mặt đất nứt nẻ ở cổng. Nước thấm xuống đất liền tức thì, một vệt màu nâu ẩm nó để lại nhạt đi nhanh chóng rồi
biến mất cũng nhanh như thế.
“Cả đời mình bà chưa từng thấy nóng như vầy,” bà Winnie vừa nói vừa dùng khăn lau cổ dù làm vậy cũng chẳng bớt nóng. “Đừng ở ngoài này lâu nha con.”
“Dạ,” Winnie nói và lại được ở một mình. Cô ngồi bệt trên bãi cỏ rồi thở dài. Bà Mae!
Phải làm gì để giúp bà thoát ra đây? Cô nhắm mắt lại tránh cái nắng chói chang, và hơi thấy chóng mặt trước những vệt đỏ và cam rực rỡ đang nhảy múa trong mí mắt khép.
Và rồi, như thể có phép màu, Jesse đang đứng ngay đó, lom khom bên hàng rào, “Winnie!” cậu suỵt kêu cô. “Em đang ngủ đấy à!”
“Ôi anh Jesse!” Winnie liền mở mắt ra và với tay ra hàng rào chộp lấy tay cậu. “Gặp được anh vui quá! Mình phải làm gì bây giờ hả anh? Mình cứu mẹ anh ra ngoài!”
“Anh Miles có một kế hoạch, nhưng anh không biết liệu có thành công không nữa,” Jesse nói thật nhanh, giọng cậu gần như thì thào. “Anh biết nhiều về nghề mộc. Ảnh nói ảnh có thể lôi khung cửa sổ phòng giam mẹ ra khỏi tường, cả chấn sông luôn, rồi mẹ có thể trèo qua đó. Tối nay lúc trời tối tụi anh sẽ thử làm. Khó khăn duy nhất là cái ông cảnh sát đó cứ canh mẹ từng phút một, ổng chắc tự hào phát điên lên vì có tù nhân trong cái nhà ngục mới đó. Tụi anh đã xuống thăm mẹ rồi. Mẹ không sao hết. Nhưng dù có thể leo qua cửa sổ đi nữa thì ông cảnh sát đó cũng sẽ đuổi theo liền ngay khi thấy mẹ đã bỏ trốn. Mà có vẻ như ông sẽ phát hiện ngay thôi. Như vậy tụi anh sẽ không có thì giờ để chạy. Nhưng mà cũng phải thử thôi. Đâu còn cách nào khác. Dù sao anh cũng phải đến đây để chào từ biệt em. Đi lần này chắc phải lâu, lâu lắm tụi anh mới quay trở lại đây được Winnie à. Ý anh là, họ sẽ truy nã mẹ anh. Winnie, em nghe này chắc phải lâu lắm anh mới gặp lại em được. Nhìn nè - đây là chai nước lấy từ con suối đó. Em giữ nó đi, và rồi, dù em có ở đâu đi nữa thì khi em mười bảy tuổi, Winnie à, em có thể uống nước đó và đi tìm tụi anh. Tụi anh sẽ tìm cách để lại chỉ dẫn cho em. Winne, làm ơn nói em sẽ làm vậy đi.”
Cậu ấn chai nước nhỏ vào tay cô và Winnie nhận lấy, khép mấy ngón tay quanh cái chai.
“Anh Jesse, chờ đã!” cô hổn hển thì thào, vì cô chợt nảy ra giải pháp. “Em có thể giúp! Khi mẹ anh trèo ra khỏi cửa sổ, em sẽ trèo vào và thế chỗ bà. Em có thể quấn mình trong chăn và khi viên cảnh sát nhìn vào ổng sẽ không nhận ra được. Trong bóng tối thì không nhận ra được đâu. Em có thể độn thêm để trông to hơn. Anh Miles cứ gắn cửa sổ lại cũng được. Như thế sẽ giúp mọi người có thời gian chạy trốn! Ít nhất cũng được đến sáng đấy!”
Jesse nheo mắt nhìn cô và rồi cậu nói, “Ừm, em biết đấy, như vậy chắc là được đó. Như vậy có thể làm nên khác biệt. Nhưng anh không biết ba có chịu để em phải nguy hiểm không nữa. Ý anh là, mọi người sẽ nói gì khi họ biết?”
“Em cũng chẳng biết nữa,” Winnie nói. “Nhưng cũng không sao đâu.Nói với ba anh là em muốn giúp. Em phải giúp. Nếu không phải vì em thì từ đầu đã chẳng có rắc rối gì. Nói với ông là em phải làm vậy. “
“Ừm... thôi được. Buổi tối em ra ngoài được không?”
“Dạ được,” Winnie nói.
“Rồi - vậy là lúc nửa đêm, Winnie. Anh sẽ chờ em ngay tại đây lúc nửa đêm nhé.”
“Winnifred!” giọng lo lắng cất lên từ phía nhà. “Con đang nói chuyện với ai đó?”
Winnie đứng dậy và quay vào đáp. “Chỉ là một đứa con trai thôi mà bà ơi. Con vào liền đây.”
Và khi cô quay lại, Jesse đã đi mất. Winnie nắm chặt cái chai nhỏ trên tay và cố kiểm soát cơn phấn khích đang dâng trào làm cô ngạt thở. Nửa đêm nay cô sẽ tạo ra sự khác biệt trên thế giới này.