Nhất Kiếm Quang Hàn Khởi Thu Lâu

Chương 18: Chương 18: Lịch kiếp quy lai




“Lão bà tử, nên thương lượng với lão phu”.

“Cái gì?” Đỗ Thất Nương trừng đôi mắt tam giác: “Ngươi gọi ta là lão bà tử?”

“Lão phu không gọi sai”.

“Còn không sai hả?”

“Ha ha, lẽ nào nên gọi ngươi là tiểu cô nương?”

“Xú lão đầu, ngươi biết không”. Đỗ Thất Nương nhíu mi mắt cụp xuống, quyết không chấp nhận đã già, rít lên: “Nữ nhân trung niên càng thành thục, càng có phong vận, càng...”

“Được rồi, không cần càng gì nữa”. Hoàng Sam quái khách cắt lời: “Lão phu không muốn cãi nhau chuyện này, ngươi về là biết?”

“Quay về?”

“Về tìm một tấm gương mà soi vào...”

“Được lắm, lão đầu đáng chết”. Đỗ Thất Nương càng nghe càng đau lòng, rít lên: “Lão nương liều với ngươi”.

Bà ta tuy không chịu thừa nhận đã già nhưng câu này cũng tự xưng lão nương.

Vốn định giết Thẩm Tiểu Điệp, giờ bà ta bị một tiếng lão bà tử chọc giận, ống tay áo đỏ phất mạnh, quét vào Hoàng Sam quái khách.

Đạo võ công kỳ dị vô vàn, ai ngờ được nhất thân công lực có thể vận lên hai ống tay áo.

Tay áo đỏ cứng như thép, lăng lệ kinh nhân.

“Đánh thì đánh, lão phu sợ ngươi chắc?” Hoàng Sam quái khách đảo người xuất chưởng.

Hai cỗ kinh lực va nhau trên không, nổ vang tựa sấm động trời quang, mặt đất mù mịt cát đá.

Liễu Nhị Ngốc và Thẩm Tiểu Điệp há hốc miệng, kinh tâm động phách.

Cát bụi mù trời, hai thân ảnh một đỏ một vang quẫy lộn, tiếng ầm ầm vang động cả ngôi miếu đổ nát.

Đồng thời tiếng mắng mỏ xú lão đầu, lão bà tử vang lên không ngớt.

Tòa đại điện đã lâu không được tu sửa này bị gió mưa ăn mòn, côn trùng gặm nhấm, không chống nổi chấn động cỡ này, cột trụ lay động rồi tiếng sàn sạt vang lên, ngói đổ rào rào.

Thẩm Tiểu Điệp tỉnh ra, lắc người đến gần Liễu Nhị Ngốc.

“Còn không đi mau?”

“Đi?” Y ngẩn người, rồi bảo: “Đúng rồi, đi thôi, lần này...”

Y không chịu nổi nữa, cho rằng hai người kia là hai kẻ điên, trận đấu vô vị kiểu này thật đáng cười.

Vì thế y và nàng lướt khỏi màn cát bụi, lách ra ngoài miếu.

Trong miếu vang lên tiếng mắng chửi, tiếng ầm ầm không ngớt.

Liễu Nhị Ngốc và Thẩm Tiểu Điệp ngoái nhìn, cả đại điện sụp đổ, tường nghiêng trụ gãy, răng rắc liên hồi.

Ánh trăng mờ hẳn, ánh sao quang thảm đạm, nháy mắt cả ngôi miếu biến thành đống đổ nát bụi tung mịt mù.

“Hai người đó sao rồi?” Liễu Nhị Ngốc ngẩn người.

“Không chết được đâu”. Thẩm Tiểu Điệp nói.

“Vì sao?” Liễu Nhị Ngốc hiển nhiên có phần lo lắng, hình như y không căm ghét họ.

“Họa hại còn đến ngàn năm”. Thẩm Tiểu Điệp tỏ vẻ hơi hẹp lượng.

Quả nhiên chưa dứt lời, trong đám cát bụi mù mịt chợt xuất hiện hai người, tuy đầu tóc lấm lem nhưng vẫn không ngừng giao đấu.

“Xú lão đầu, có nhận thua không?” Đầu tóc Đỗ Thất Nương rối bù.

“Lão phu sao lại nhận thua?” Hoàng Sam quái khách giận giữ, gương mặt trở thành nhem nhuốc: “Lão phu chưa thấy lão bà nào xấu xa, không chịu biết đến lý lẽ như ngươi”.

“Hừ, lão đầu thôi tha ngươi cũng có gì hay ho”. Đỗ Thất Nương kêu lên: “Đêm nay lão nương sẽ khiến ngươi phải xin tha”.

“Muốn lão phu xin tha? Ha ha, thôi đi”. Hoàng Sam quái khách cười rộ: “Tính khí thế này, thảo nào không lấy được chồng”.

“Ngươi thì sao?” Đỗ Thất Nương vặc lại: “Cũng chỉ là kẻ trơ trọi”.

Hai người lời qua tiếng lại, càng đánh càng hung, bóng người đảo lộn, tiến vào một vạt rừng sâu.

“Đừng nhìn nữa”. Thẩm Tiểu Điệp kéo Liễu Nhị Ngốc: “Không đi còn đợi lúc nào nữa”.

“Cứ để họ đánh tiếp sao?”

“Nhị gia quản được sao?” Thẩm Tiểu Điệp hỏi: “Đánh mệt rồi sẽ nghỉ ngơi một lúc”.

“Nghỉ ngơi một lúc?”

“Nghỉ rồi lại đánh tiếp”.

“Lẽ nào vĩnh viễn không phân thắng bại?”

“Tiểu nữ thấy khó lắm”. Thẩm Tiểu Điệp nói: “Một người nửa cân một người tám lạng, công lực ngang nhau, tính tình lại cố chấp...”

“Tại hạ lại thấy đáng thương lắm”. Liễu Nhị Ngốc thở dài.

“Đáng thương? Ai đáng thương?”

“Cả hai bọn họ đều đáng thương, nhất là Đỗ Thất Nương”. Liễu Nhị Ngốc nói: “Ba mươi năm thanh xuân qua đi, bà ta vẫn cố níu kéo”.

“Trách Tứ Không sư bá ư?”

“Đương nhiên không”. Liễu Nhị Ngốc nói: “Sao lại trách tiên sư”.

“Hả?” Thẩm Tiểu Điệp hơi biến sắc: “Theo khẩu khí của công tử, hình như nên trách sư phụ tiểu nữ?”

“Sao có thể thế được?” Liễu Nhị Ngốc sững ra.

“Vậy trách ai?”

“Không trách ai hết”. Y đáp: “Chỉ trách tạo hóa trêu ngươi”.

“Ngốc nhị gia, đừng nói những lời ngốc nghếch đó nữa”. Thẩm Tiểu Điệp mỉm cười: “Mau lên đường thôi”.

Liễu Nhị Ngốc đành gật đầu.

Y và nàng lần theo con đường mòn ruột dê rời khỏi bạt ngàn rừng xanh, quay lại quan đạo.

Ba ngày sau, Lạc Dương hiện lên trong tầm mắt.

Lạc Dương là cổ đô của Trung Châu, Mẫu Đơn trì lừng danh thiên hạ.

Lúc đó đã vào thu, không phải lúc mẫu đơn nở rộ, Liễu Nhị Ngốc chỉ muốn đến chiêm ngưỡng Bạch Mã tự, ngôi chùa đệ nhất ở đây.

Y cũng muốn đến du ngoạn Bắc Mang, nghe nói nơi đó là quỷ thành ở nhân gian.

Sự thật thì Bắc Mang chỉ là một mộ địa lớn, vương công quý nhân các đời đều táng ở đó, nên dù ban ngày thì ngọn núi cũng âm u quỷ khí.

Một đồn mười, mười đồn trăm, nơi đó trở thành một chốn đáng sợ.

Liễu Nhị Ngốc chưa từng đặt chân đến Lạc Dương, đương nhiên không biết quỷ thành nhân gian tại nơi nào.

Muốn du ngoạn thỏa thích, còn phải nghe ngóng trước.

Nào ngờ còn chưa vào thành, bóng dáng ngôi thành mới hiện lên trong tầm mắt đã thấy mấy người nghênh đón.

“Hiếm khi có dịp Liễu đại hiệp quang lâm, tại hạ chờ ở đây đã lâu”. Người đứng đầu vái dài.

Đột nhiên được nhận đại lễ như vậy, Liễu Nhị Ngốc hơi sững người.

“Các hạ là ai?”

“Ở Tê Hà sơn từng được cứu giúp”. Người đó cung kính đáp: “Lẽ nào Liễu đại hiệp quên rồi?”

“À, có phải Lạc Dương Tiểu Mạnh Thường?” Liễu Nhị Ngốc nhớ ra.

“Danh xưng Mạnh Thường là hữu danh vô thực, thật không dám nhận”. Người đó nói: “Tại hạ chính là Long Hoài Bích”.

“Long huynh khiêm tốn như vậy”. Liễu Nhị Ngốc: “Quả nhiên không thẹn là Tiểu Mạnh Thường”.

“Liễu đại hiệp quá khen”.

“Long huynh nói là hữu danh vô thực, bỉ nhân chợt nảy sinh cảm xúc”. Liễu Nhị Ngốc nói: “Cứ như đang nói đến Liễu mỗ”.

“Việc này...” Long Hoài Bích sững người.

“Lúc đó mỗ đúng là có ý cứu Long huynh, tiếc là chưa kịp thực hiện”. Liễu Nhị Ngốc đáp: “Nên...”

Y nói đến đó, chợt phát giác chéo áo phía sau bị người ta kéo.

Đương nhiên là Thẩm Tiểu Điệp, nàng không muốn y nói tiếp.

“Liễu đại hiệp nói thế, tại hạ thật không hiểu”. Long Hoài Bích mở lớn cặp mắt: “Rốt cuộc là”.

“Người thật sự cứu Long huynh không phải Liễu mỗ”. Lời đã buông, y không thể không nói nốt.

“Chuyện này...”

“Long huynh không tin?”

“Đúng thế”. Long Hoài Bích đáp: “Tại hạ khó mà tin được”.

“Có phải hoài nghi Liễu mỗ nói dối?”

“Tại hạ không dám nghi”. Long Hoài Bích cười khổ: “Liễu đại hiệp không phải người nói dối”.

“Như thế không phải mâu thuẫn lắm ư?”

“Đúng vậy”. Long Hoài Bích nhíu mày, cảm giác thật khó phúc đáp: “Tại hạ đang rối tung lên đây”.

“Long huynh muốn được giải đáp ngay”.

“Mong được dạy bảo”.

“Sự tình là thế này...” Liễu Nhị Ngốc nói đến đây, chéo áo sau lưng lại bị kéo, y mỉm cười nói tiếp: “Người cứu Long huynh và Cối Kê Tiêu huynh đêm đó đích xác không phải Liễu mỗ, nhưng người này hành hiệp không muốn ai biết, nên mạo nhận danh hiệu của Liễu mỗ”.

“Hả, vị đó là...”

“Bỉ nhân chẳng phải nói rồi ư? Người đó là đương đại hiệp ẩn, không cần danh vọng”. Liễu Nhị Ngốc bảo: “Long huynh mà cố căn vặn, không những không phải đạo báo đáp mà khiến người đó không vui”.

“Vâng vâng, tại hạ hỏi nhiều quá”. Long Hoài Bích tỏ vẻ biết điều, cười bảo: “Mời Liễu đại hiệp”.

“Long huynh muốn nói là...”

“Liễu đại hiệp đến Lạc Dương, tại hạ phải tận tình địa chủ”.

“Hay, hay lắm”. Liễu Nhị Ngốc chợt cười to: “Nếu đến Lạc Dương mà không quấy nhiễu Long huynh thì Liễu mỗ cũng còn mặt mũi nào”.

“Tại hạ cũng không còn là Tiểu Mạnh Thường nữa”. Long Hoài Bích bật cười.

Lúc Liễu Nhị Ngốc giới thiệu Thẩm Tiểu Điệp, Tiểu Mạnh Thường Long Hoài Bích tỏ vẻ kinh ngưỡng vô cùng.

Xem ra gã đã lĩnh hội được vị đương đại hiệp ẩn mà Liễu Nhị Ngốc nói đến là ai.

Tiếp đó gã giới thiệu mấy người đi cùng, xem ra đều là bậc hào hiệp nổi danh Trung Châu.

“Đúng rồi,” Liễu Nhị Ngốc chợt hỏi: “Sao Long huynh lại biết mỗ đến Lạc Dương?”

“Tại hạ vốn không biết, nhưng đêm qua có một vị bằng hữu tới”.

“Ai vậy?”

“Hoa Sơn Thần Quyền Thái Bảo Khổng Cương”.

“À, hóa ra là y”. Liễu Nhị Ngốc nói: “Người này dũng mãnh cương trực, tính tình chân thật, quả xứng danh hán tử”.

“Đúng”. Long Hoài Bích gật đầu: “Liễu đại hiệp tuệ nhãn thức anh hùng”.

“Long huynh đừng vội khen ngợi, kỳ thật Liễu mỗ có đáng là đại hiệp gì đâu”. Liễu Nhị Ngốc bảo: “Lời khen quá đáng, thật khiến mỗ xấu hổ”.

Đích xác y có cảm giác đó, cảm giác mình không có gì vĩ đại.

“Đại hiệp quá khiêm nhường thôi”. Long Hoài Bích nói: “Kỳ thật đó không phải là lời của mình tại hạ...”

“Thế là thế nào?”

“Liễu đại hiệp là thư sinh, đã trừ diệt Giang Nam ác bá Tề Thiên Bằng, rồi lại đánh bại kiêu hùng đương đại Phong Bát Bách, ngăn trở hắn mưu hại giang hồ, vì thế thiên hạ hào kiệt đều ngưỡng mộ phong thái, đều cho rằng được gặp gỡ đại hiệp là vinh dự, tại hạ thật sự không quá lời”.

“Được rồi, được rồi”. Liễu Nhị Ngốc mỉm cười: “Kỳ thật thì việc tru sát Tề Thiên Bằng, đánh bại Phong Bát Bách không chỉ mình Liễu mỗ ra tay”.

“Việc này...”

“Vẫn là câu lúc trước”. Liễu Nhị Ngốc đáp: “Có người thành công rồi liền phất tay áo ra đi, Liễu mỗ được hưởng công một mình...” Y chợt liếc Thẩm Tiểu Điệp.

Thẩm Tiểu Điệp trừng mắt liếc y.

Thật ra y cũng nói thật tình, trên Bạch Ngọc lâu tại Kim Lăng, nếu nàng không đánh đổ hai cái khay sứ, y vị tất đã chỉ mất một kiếm mà thành công, còn phá nát sào huyệt của Phong Bát Bách ở Đồng Tước biệt quán thì gần như hoàn toàn do công của nàng.

Long Hoài Bích lại không có ý kiến gì.

Hiển nhiên gã hiểu rõ ý Liễu Nhị Ngốc, người thông minh không cần tra hỏi quá cặn kẽ.

Long Hoài Bích đương nhiên là người thông minh.

Gã hiệu xưng Tiểu Mạnh Thường, tọa trấn Lạc Dương, nắm rõ động thái trong giang hồ như lòng bàn tay, việc giết Tề Thiên Bằng trên Kim Lăng Bạch Ngọc lâu còn là ngẫu nhiên chứ việc đối phó Phong Bát Bách ở Đồng Tước biệt quán thì trên giang hồ đã hiểu rõ, còn ai giúp Liễu Nhị Ngốc nữa?

Hà huống vị kỳ nữ đó là Thẩm Tiểu Điệp.

“Liễu đại hiệp, chỗ này không tiện nói chuyện, xin mời vào thành”. Long Hoài Bích vẫy tay vào vạt rừng cạnh đường.

Mấy thanh y bộc tùng dắt mấy thớt ngựa ra, còn có cả một cỗ nhuyễn kiệu đính nhung lụa.

Chiếc kiệu này đương nhiên chuẩn bị cho Thẩm Tiểu Điệp.

“Long huynh”. Liễu Nhị Ngốc cười bảo: “Thật không thẹn là Tiểu Mạnh Thường, suy nghĩ vô cùng chu đáo”.

“Đạo đãi khách vốn phải thế”. Long Hoài Bích nói.

Người đi ngựa cùng nhảy lên yên, người đi kiệu cũng lên kiệu, khi vào thành đã là lúc đèn đuốc sáng rực.

Lạc Dương là thành thị phồn hoa nhưng Liễu Nhị Ngốc không quen với kiểu phồn hoa này.

Tiểu Mạnh Thường Long Hoài Bích là một vị chủ nhân nhiệt tình, nhưng Liễu Nhị Ngốc không quen việc được coi là khách quý.

Y không chỉ nhạt nhẽo danh lợi và không thích thù tạc theo lối thế tục.

Càng khiến y khó chịu là cứ một ngày tiệc nhỏ, hai ngày tiệc lớn, khách khứa đông nghịt, mà y chính là tiêu điểm cho người ta nhìn vào.

Đương nhiên, y rất cảm kích thịnh tình khoản đãi của Tiểu Mạnh Thường, nhưng không chịu nổi lối thù tạc phiền hà này, cũng không quen nghe những lời ca ngợi.

Ngày thứ năm, y liền cáo từ.

Lúc chia tay, Tiểu Mạnh Thường ân cần đưa tiễn, lại tặng lễ hậu là bốn thoi vàng, một phong bạc trắng, ngoài ra là một đôi châu hoa, một chiếc vòng ngọc, một chuỗi trân châu thượng phẩm.

Số trang sức nữ nhân này đương nhiên tặng Thẩm Tiểu Điệp.

Liễu Nhị Ngốc kiên quyết không nhận, bảo rằng trên đường đi không cần nhiều tài vật như thế.

Cả hai đỏ mặt tía tai tranh cãi, Thẩm Tiểu Điệp đành chọn đôi châu hoa, Liễu Nhị Ngốc lấy một đĩnh bạc nhỏ.

Tiểu Mạnh Thường đành chịu thua, lại sai bộc tùng chọn ra hai thớt tuấn mã.

“Liễu đại hiệp, Thẩm cô nương”. Gã nói: “Lần này đi đường quan san hiểm trở, hai thớt tuấn mã này”.

“Việc này...” Liễu Nhị Ngốc vẫn có ý chối từ.

“Không, chỉ là cho mượn thôi”. Tiểu Mạnh Thường nhanh trí nói: “Hai vị khi quay lại Trung Nguyên, ghé qua Lạc Dương thì trả cho tại hạ”.

Thật ra hai người rất cần hai thớt tuấn mã này, bằng không đi bộ mấy ngàn dặm tất chân sẽ cứng lại.

Liễu Nhị Ngốc kiên quyết từ chối yến tiệc chia tay.

Vì thế mỗi người một ngựa âm thầm rời Lạc Dương.

Liễu Nhị Ngốc đã có kinh nghiệm, lo rằng nhân vật giang hồ tiếp tục bám theo nên khi rời Lạc Dương liền rã vào đường nhỏ.

Đã là giữa thu, ra khỏi Quan Ngoạn, khí hậu mỗi lúc một lạnh.

Mục đích chuyến đi này là Nam Kỳ Liên, cũng là phía nam Thiên sơn, ở giữa hai chỗ này có một địa phương là chiến trường xa xưa, nhà cửa thưa thớt, cát trải mênh mông, vô cùng hoang lương.

Cũng may hai người đi cùng, dọc đường cười cười nói nói, chỉ dẫn cho nhau cảnh vật nên không thấy tịch mịch.

Hôm đó, hai người tiếp cận vùng núi.

“Ngốc nhị gia”. Không biết từ lúc nào, Thẩm Tiểu Điệp đổi xưng hô với y.

“Chuyện gì vậy?” Liễu Nhị Ngốc không để tâm.

“Lẽ nào nhị gia không hỏi,” Thẩm Tiểu Điệp bảo: “Chúng ta đến Kỳ Liên sơn làm gì?”

“Cô nương biết là được rồi”. Liễu Nhị Ngốc cười cười.

“Thế mới hay nhỉ,” Thẩm Tiểu Điệp bảo: “Cứ hồ đồ đi theo, không sợ tiểu nữ bán nhị gia sao?”

“Bán tại hạ?”

“Chưa biết chừng sẽ mang lại cho tiểu nữ chút bạc”.

“Tiếc là cô nương để lỡ cơ hội rồi”. Liễu Nhị Ngốc cười cười: “Trung Nguyên nhiều nhà phú hào thì cô nương không nảy ra ý định, ở chỗ nghèo nàn này thì ai đủ tiền mua”.

“A,” Thẩm Tiểu Điệp cười khanh khách: “Còn làm giá nữa này”.

Liễu Nhị Ngốc cũng cười.

“Thế nào?” Thẩm Tiểu Điệp chợt nghiêm mặt: “Xem dáng vẻ ơ hờ của nhị gia thì hình như không muốn biết?”

“Ai nói không muốn?” Liễu Nhị Ngốc nói: “Tại hạ muốn chết đi được”. Sau cùng y cũng nói thật.

“Thật ra cũng không phải việc gì lớn lao”. Thẩm Tiểu Điệp nói.

“Vượt vạn dặm xa, ăn gió nằm sương đến Kỳ Liên sơn”. Liễu Nhị Ngốc nói: “Sự tình cũng không nhỏ”.

“Sự tình đích xác không lớn, nhưng tiểu nữ phải đến”.

Liễu Nhị Ngốc lắng nghe.

“Nhị gia biết không”. Thẩm Tiểu Điệp nói: “Sư phụ tiểu nữ còn một vị tỷ tỷ ruột”.

“À”.

“Vị đó là Đại Mạnh”.

“Giang Đông Nhị Mạnh, ai mà không biết”.

“Đúng, là người đó”. Thẩm Tiểu Điệp chợt buồn bã: “Tiểu nữ gọi là đại sư phụ”.

“Đại sư phụ? Sao lại xưng hô như thế?”

“Nhị gia không biết đấy thôi, tiểu nữ là cô nhi”. Thẩm Tiểu Điệp buồn bã: “Đại sư phụ và tiểu sư phụ hợp lực nuôi dưỡng thành người”.

“Được rồi, đừng nhắc đến chuyện đó”. Liễu Nhị Ngốc không muốn chạm vào việc đau lòng của nàng: “Chỉ nói về hiện tại”.

“Đại sư phụ chết rồi”.

“Hả?”

“Sau khi Tứ Không sư qua đời, đại sư phụ đau lòng cực độ, quyết tâm theo chân sư bá, nên không ăn không uống, tuyệt thực mà chết”.

Chuyện cũ đau lòng đó, rất hiếm người biết được.

“Không phải đã chết lâu rồi ư?”

“Năm năm rồi, chết ở Kỳ Liên sơn”.

Liễu Nhị Ngốc cũng đau lòng, tình cảm xáo động, hồi lâu vẫn chưa bình tĩnh lại.

“Lúc đó sư phụ tiểu nữ... đúng rồi, là tiểu sư phụ”. Thẩm Tiểu Điệp tiếp lời: “Sư phụ tiểu nữ không lưu luyến gì nhân thế, chỉ vì lúc đó tiểu nữ còn nhỏ, học nghệ chưa thành, nên...”

Liễu Nhị Ngốc lại buồn bã.

“Hiện tại nhị gia đã rõ tiểu nữ đến Kỳ Liên sơn làm gì ư?”

“Cô nương...”

“Thu thập hài cốt đại sư phụ về táng ở Tê Hà”. Thẩm Tiểu Điệp nức nở: “Đợi khi tiểu sư phụ trăm tuổi...”

Nàng không nói tiếp nhưng ý nghĩa rõ ràng là “Giang Đông Nhị Mạnh” muốn được chôn cùng mộ.

“À”. Liễu Nhị Ngốc nói: “Tại hạ hiểu rồi”.

“Đó là bổn phận của tiểu nữ”. Thẩm Tiểu Điệp nói: “Chỉ là phiền nhiễu nhị gia theo chân quãng đường xa thế này”.

“Tiểu Điệp, cô nương nói sai rồi”.

“Sai? Sai ở chỗ nào?”

“Cô nương nghĩ mà xem”. Liễu Nhị Ngốc thở dài: “Theo thân phận của tiên sư, tại hạ cũng không phải người ngoài”.

“Cũng đúng, nhị gia nên tận tâm lực”.

“Nên tại hạ theo cô nương đến đây”.

“Đừng nói nhăng”. Thẩm Tiểu Điệp bảo: “Lúc đó nhị gia đâu có biết tiểu nữ đi thu thập hài cốt đại sư phụ”.

“Đương nhiên tại hạ không biết”. Liễu Nhị Ngốc nói: “Nhưng lờ mờ hiểu rằng cô nương có liên quan đến tiên sư, chỉ là việc năm xưa của tiên sư, tại hạ có nghe thấy nhiều truyền thuyết...”

“Việc liên can đến đại sư phụ và tiểu sư phụ của tiểu nữ chăng?”

“Đúng vậy”.

“Tiếc là chuyện xưa như khói”. Thẩm Tiểu Điệp thở dài: “Những truyền thuyết đó sẽ mờ nhạt dần...”

“Không, còn có hai chúng ta”.

“Hai chúng ta?” Thẩm Tiểu Điệp sững người: “Nhị gia nói vậy là ý gì?”

“À”. Liễu Nhị Ngốc đáp: “Tại hạ nói là Giang Đông Nhị Mạnh có người thừa kế là Thẩm Tiểu Điệp, tiên sư Tứ Không tiên sinh cũng có tên đệ tử không ra gì là tại hạ”.

“Thế thì sao”.

“Hai chúng ta vĩnh viễn nắm tay nhau”.

“Vĩnh viễn? Nhị gia bảo là vĩnh viễn?” Thẩm Tiểu Điệp đỏ mặt: “Ý đó là gì?”

“Tại hạ...” Liễu Nhị Ngốc sững người.

“Không nói được phải không?” Thẩm Tiểu Điệp mỉm cười, cổ vũ: “Chưa đến lúc nói ra câu đó”.

Chưa đến lúc? Tất nhiên sẽ đến một ngày đúng lúc.

Hiển nhiên đó là một loại ám thị.

“Được”. Liễu Nhị Ngốc nói: “Đến lúc sẽ nói”.

Trong núi hiếm bóng người, cả hai chuẩn bị đấy đủ nước và lương khô cùng cỏ khô trước khi vào núi.

Cũng may có hai thớt ngựa, bằng không cả hai tất chịu nhiều vất vả.

Hôm đó đã vào rất sâu trong núi, dõi mắt nhìn chỉ thấy núi non nối nhau, núi đá liền mây, thế núi càng lúc càng hiểm trở, đường sá ngày càng chênh vênh.

“Tiểu Điệp”. Liễu Nhị Ngốc chợt dừng cương: “Hài cốt đại sư phụ cô nương chôn ở đâu?”

“Trong một ni am”.

“Ni am?”

“Đúng, Từ Vân am chủ trì tự là Liên Hoa sư thái”. Thẩm Tiểu Điệp nói: “Đại sư phụ là phương ngoại tri giao của sư thái”.

“Cô nương đến đó rồi ư?”

“Lúc nhỏ có đến”. Thẩm Tiểu Điệp đáp: “Nhưng khung cảnh thưa thớt, tiểu nữ không nhớ rõ địa điểm cụ thể”.

“Hỏng rồi”. Liễu Nhị Ngốc nói: “Dãy núi này dài cả ngàn dặm, đến đâu tìm đây?”

“Không khó, tiểu nữ có mang địa đồ”.

“Đồ?” Liễu Nhị Ngốc hỏi: “Có phải bức đồ mà người giang hồ tham lam vì tưởng là tàng bảo địa đồ không?”

“Chính thị”.

“Được, mau lấy ra xem thử”.

Hai người xuống ngựa, chọn một khối đá bằng phẳng bên đường, trải tấm thảo đồ ra.

Thảo đồ vẽ đường sá trong núi, có mấy đỉnh đột nhột vươn cao, có đánh dấu những chỗ đặc biệt, lại xác định rõ cự ly.

Bên cạnh bức đồ còn có văn tự ghi chú, nhìn là hiểu ngay.

Trong dãy núi có ký hiệu hình tam giác, đường nét khá thô, Thẩm Tiểu Điệp chỉ vào nói: “Đó là Từ Vân am”.

Liễu Nhị Ngốc ngẩng nhìn vầng dương đang lặn, đảo mắt khắp núi non, đánh giá phương vị chính xác rồi nhìn xuống thảo đồ.

“Tiểu Điệp”. Y nói: “Tại hạ không nhìn ra vị trí hiện tại của chúng ta ở trên địa đồ”.

“Ở đây”. Thẩm Tiểu Điệp chỉ vào một đường cong trên địa đồ.

Đường cong đó biểu thị một con đường mòn.

“Đúng rồi”. Liễu Nhị Ngốc nói: “Xem ra Từ Vân am không còn xa, đi bằng khoái mãi chỉ nửa ngày là tới”.

“Mau lên đường thôi”.

“Được”.

Mấy chục ngày bôn ba vất vả, sau cùng cũng đến đích.

Thẩm Tiểu Điệp gấp thảo đồ lại, nhét vào ngực áo, hai người cùng lên ngựa, quay về hướng bắc.

Đi chừng hai thời thần, đường sá dần bằng phẳng, núi cũng xanh hơn, loáng thoáng có tiếng nước chảy.

Tại chốn biên thùy cùng hoang này, đó là cảnh tượng hiếm có.

“Lẽ nào đến rồi?” Liễu Nhị Ngốc ghìm cương ngựa, nhìn Thẩm Tiểu Điệp.

“Hình như vậy”. Thẩm Tiểu Điệp nhìn tứ phía: “Tiểu nữ cảm giác rất quen thuộc”.

“Lúc đó cô nương bao nhiêu tuổi?”

“Chưa đến năm tuổi”.

“À, không ngờ cô nương mới nhỏ thế đã...” Liễu Nhị Ngốc lập tức im bặt.

Năm tuổi đã là cô nhi, không nhắc đến là hơn.

Lúc đó đã tối trời, mặt trời hoàng hôn chìm dần xuống muôn vàn đỉnh núi, bóng tối dần tràn lấp.

“Boong... boong... boong...” Trong mé núi bên phải chợt vang lên tiếng chuông.

Tiếng chuông càng lúc càng rõ, lan đi tứ phía.

“Đến rồi, đến rồi”. Thẩm Tiểu Điệp vui vẻ kêu lên: “Mười mấy năm nay tiểu nữ không nghe thấy tiếng chuông này, nghe ra vẫn thấy thân thiết...”

Xem ra lúc còn nhỏ ấy, nàng từng ở lại đây không ít ngày.

Hai người giục ngựa nước kiệu, một trước một sau đi vào một con đường mòn, đá núi lô nhô, cây rừng rập rạp, như một vùng đất trời khác.

Liên Hoa sư thái chừng bảy mươi, vẫn hết sức khang kiện.

Lão ni này tựa hồ có thuật dưỡng sinh, không chỉ sắc mặt hồng nhuận mà mắt cũng sáng rực hữu thần.

Biết Thẩm Tiểu Điệp đến, hiển nhiên bà có phần kinh hỉ.

Thẩm Tiểu Điệp lại giới thiệu Liễu Nhị Ngốc, đương nhiên nói rõ y là đệ tử đích truyền của Tứ Không tiên sinh.

“Lão ni nhận ra”. Liên Hoa sư thái từ ái như đám mây lành: “Rất giống Tứ Không năm xưa”.

“Đệ tử không dám so với tiên sư”. Liễu Nhị Ngốc đáp.

“Dám hay không là một việc, giống hay không là việc khác”. Liên Hoa sư thái nhấn mạnh ý kiến.

“Đệ tử giống ở chỗ nào?”

“Phật dạy không thể nói được”. Liên Hoa sư thái nhìn Thẩm Tiểu Điệp, rồi mỉm cười.

Ngươi thông minh chắc đã nghĩ ra, bà không chịu nói là gì.

Thẩm Tiểu Điệp và Liễu Nhị Ngốc đều là người thông minh, nhìn nhau đỏ mặt.

Liên Hoa sư thái hiển nhiên có phần chú ý, lại từ ái với Thẩm Tiểu Điệp.

Bà lại kéo Thẩm Tiểu Điệp ngắm nghía thật kỹ, liên tục tán thưởng, gật đầu khen ngợi.

“Điệp nhi, càng lúc càng giống sư phụ”.

“Thật ư?” Thẩm Tiểu Điệp hỏi: “Con giống đại sư phụ hay tiểu sư phụ?”

“Đều thế mà thôi”. Liên Hoa sư thái nói: “Đại sư phụ và tiểu sư phụ của con khó phân biệt được”.

“Tiếc là võ công không đủ,” Thẩm Tiểu Điệp chợt đảo mắt, “kém xa hai vị sư phụ”.

“À”.

“Mong được sư thái chỉ điểm”.

“Hay thật, tiểu nha đầu càng lúc càng tinh quái”. Liên Hoa sư thái cười to: “Lại dám nhắm vào lão ni”.

“Sư thái từ bi!” Thẩm Tiểu Điệp khẽ vòng tay..

“Được rồi”. Liên Hoa sư thái nghiêm mặt: “Nhưng bây giờ phải rèn luyện một phen rồi nói tiếp”.

“Đợi đến khi nào?”

“Yên tâm, lão ni đồng ý là giữ lời”. Liên Hoa sư thái bảo: “Đừng tưởng lão ni bảy mươi là già, còn chưa muốn về cực lạc”.

Thẩm Tiểu Điệp biết Liên Hoa sư thái không sai lời, liền thầm cao hứng.

Liễu Nhị Ngốc lúc đó mới biết vị lão ni này là thế ngoại cao nhân, lòng chợt nảy sinh niềm sùng kính.

Đến tối, ai nấy về phòng nghỉ.

Hôm sau, Thẩm Tiểu Điệp và Liễu Nhị Ngốc thương lượng, quyết định khởi trình về Trung Nguyên.

Hậu sơn Từ Vân am có một tòa tháp tên Linh Cốc tháp.

Hài cốt Đại Mạnh để trong đó, thật ra không phải hài cốt mà là một hũ cốt hôi.

Mỹ nhân thành đất vàng, hồng nhan hóa tro tàn,

Thẩm Tiểu Điệp quỳ xuống đốt hương, nhất thời đau lòng khóc nức nở.

Liễu Nhị Ngốc buồn bã quỳ xuống.

Rồi hai người thỉnh cốt hôi khỏi tháp, Thẩm Tiểu Điệp chuẩn bị sẵn một cái túi màu vàng, gói lại chặt chẽ, đeo lên lưng.

Đến trưa, cả hai từ biệt Liên Hoa sư thái, rời khỏi Từ Vân am.

Ngựa quen đường, lộ trình quay về dễ dàng hơn nhiều.

Ngày hôm sau, lúc sắp xuất sơn chợt nổi phong ba.

Hóa ra vùng núi này rất khó tìm chỗ nghỉ chân, cả ngày bôn ba nên người ngựa đều mệt, lúc hoàng hôn, hai người chọn nơi yên tĩnh trong rừng dừng lại ăn lương khô, chuẩn bị chợp mắt đợi trăng sáng sẽ lên đường.

Hai người tựa lưng vào núi đá, khoanh chân tĩnh tọa.

Thẩm Tiểu Điệp cời cái gói màu vang xuống, ôm chặt trong lòng rồi ngủ say.

Liễu Nhị Ngốc đang lúc mê mê hồ hồ, chợt có tiếng ngựa hí.

Tuấn mã thông linh, chắc rằng đang phát ra tín hiệu cảnh cáo.

Y kinh hãi nhảy bật lên, chỉ mấy có một hắc y nhân đi rón rén đến sát Thẩm Tiểu Điệp.

Tiếng ngựa chợt hí vang, kẻ đó ngẩn người, chợt thò tay như điện chụp vào ngực nàng.

Mục tiêu hình như là cái gói màu vàng.

Thẩm Tiểu Điệp tuy đang say ngủ nhưng là người luyện võ, đương nhiên không đến nỗi không biết gì, ngay lúc mở mắt phát hiện ra một cánh tay lông lá chộp tới.

Nàng không hề kêu lên, vô thanh vô tức đảo người tránh đi.

Chiêu này quá lợi hại, ngay cả hắc y nhân cũng bất ngờ, ngọn trảo chắc chín phần mười lại đánh hụt.

Đánh hụt đã đành, lại phải đối đầu với một nhát kiếm hung hãn.

Liễu Nhị Ngốc quát to, hàn quang dấy lên như cầu vồng, kèm theo tiếng sấm bổ tới.

Hắc y nhân giật mình, chợt co người lắn đi như hồ lô.

Co lại thật nhỏ, cơ hồ thành một khối.

Lăn rất nhanh, thoáng cái đã ra ngoài hai trượng.

Công phu này quả hiếm thấy, nhưng khi hắn vươn người đứng dậy lại trở thành tráng hán cao lớn.

“Ngươi là ai?” Liễu Nhị Ngốc giơ kiếm lên quát.

“Đừng hỏi”. Hắc y nhân mặt mũi đen sì, ánh mắt sáng rực: “Đưa cái gói màu vàng ra rồi nói”.

“Cái bao màu vàng?” Thẩm Tiểu Điệp hỏi: “Ngươi cần để làm gì?”

“Đừng lắm lời”. Hắc y nhân hình như không hề sợ, lạnh lùng nói: “Thích thì cần”.

Liễu Nhị Ngốc giơ kiếm cười lạnh.

“Dù muốn cũng phải có lý do”. Thẩm Tiểu Điệp cố nén: “Ngươi biết trong đó có gì không?” Nàng cũng lấy làm kỳ quái, vì sao kẻ này muốn lấy cốt hôi của sư phụ nàng.

“Không biết”. Hắc y nhân nói.

“Không biết?” Thẩm Tiểu Điệp ngày càng kinh hãi.

“Ta biết”. Liễu Nhị Ngốc quay sang nói với hắc y nhân: “Ngươi tưởng trong đó là kỳ trân dị bảo, đúng không?”

“Không sai”. Hắc y nhân nói: “Hai ngươi có tàng bảo đồ, đến Kỳ Liên sơn...”

“Hóa ra là thế”. Thẩm Tiểu Điệp cười bảo.

“Ngươi cười gì?” Hắc y nhân trợn mắt quát.

“Ngươi thử nghĩ xem,” Thẩm Tiểu Điệp đáp: “Chúng ta trăm cay ngàn đắng mới lấy được mớ bảo vật này, sao lại dễ dàng đưa cho ngươi?”

“Không vội?”

“Người chết vì của, chim chết vì mồi”. Thẩm Tiểu Điệp buộc cái túi màu vang lên lưng, thuận tay tuốt kiếm ra, cố ý nói: “Trừ phi ngươi giết được chúng ta”.

“Giết các ngươi hả? Ha ha”. Hắc y nhân buột miệng: “Ngươi nói đúng, công tử nhà ta có ý đó”.

“Công tử nhà ngươi?” Liễu Nhị Ngốc trầm giọng: “Là ai?”

Hắc y nhân im lặng, đánh mắt nhìn tứ phía, chợt móc một cái thanh la nhỏ trong ngực ra, gõ liền ba tiếng keng keng keng.

Từ bốn phương tám hướng liền có vô số người từ kẽ đá chui ra.

Đen đặc. Không đầy một trăm cũng đến tám chục người.

Mới gõ một mặt thanh la đã xuất hiện nhiều người như thế, hiển nhiên đã được bố trí thỏa đáng.

“Hừ”. Liễu Nhị Ngốc cười lạnh: “Giống như trò trẻ nít”.

Tuy vẻ mặt thản nhiên nhưng không dám coi thường, ra hiệu cho Thẩm Tiểu Điệp, hai người liền kề lưng nhau.

Hắc y nhân chợt loáng người lao lên một tảng đá lớn.

“Đừng nhầm tưởng, đó chỉ là trò đùa thôi”. Hắn giơ dùi lên, thanh la liền vang vọng ba tiếng.

“Xoạt xoạt...” Bóng người dày đặc từ hai cánh tả hữu tràn tới, binh khí đủ loại đâm loạn xạ, còn có cả cung cứng nỏ mạnh.

Liễu Nhị Ngốc và Thẩm Tiểu Điệp cũng lắc người, phân ra nghênh địch.

Đến nước này đương nhiên không thể để ý đến mạng người, Liễu Nhị Ngốc quát to, cây kiếm quay tít, vút lên khỏi đám đông.

Kiếm của Thẩm Tiểu Điệp như linh xà bay múa, vì người đông như kiến nên nhát nào cũng trúng đích.

Thoáng sau, máu tóe tứ tán, tiếng kêu thảm thiết vang lên liên hồi.

Trên đời tuy không ít người lớn mật, kẻ không sợ chết càng nhiều, toán người này tuy liều mạng nhưng thấy khắp nơi toàn xác chết, kẻ còn sống dần lạnh hết đấu chí.

Tuy vẫn gào hét nhưng không ai xông lên.

“Lên, cùng xông lên”. Hắn y nhân đứng trên tảng đá gõ mạnh thanh la, gào đến vỡ họng.

Liễu Nhị Ngốc quát to, chợt lăng không bay lên.

Y như làn khói nhẹ, hàn quang xẹt ra, lướt đi mấy trượng, đáp xuống tảng đá.

Hắc y nhân gõ thanh ra, nhất thời không kịp xoay trở.

Chỉ nghe “xoạt” một tiếng, máu văng tứ tán, đâm xuyên qua ngực hắn, hắn không kịp kêu một tiếng, ngã gục xuống, lập tức tuyệt khí.

Kẻ đứng đầu táng mạng, những kẻ còn lại càng kinh hồn táng đởm, liền chạy tứ tán.

Liễu Nhị Ngốc nhảy xuống, thở phì phò.

“Kỳ quái thật”. Thẩm Tiểu Điệp nhìn thi thể nằm loạn xạ: “Hắc y nhân này là ai?”

“Chết rồi không còn đối chứng”. Liễu Nhị Ngốc lắc đầu.

“Bất quá tiểu nữ xác định được”. Thẩm Tiểu Điệp nói: “Hắn chỉ là tay sai, không phải chủ mưu”.

“Làm sao biết được?”

“Nhị gia có nhớ hắn nói một câu chăng?”

“Câu gì?”

“Nói là công tử nhà hắn muốn dồn chúng ta vào đất chết...”

“À, đúng rồi”. Liễu Nhị Ngốc nhíu mày: “Công tử... công tử là ai?”

“Ha ha, là bổn công tử”. Trong rừng chợt vang lên tiếng cười sang sảng: “Họ Liễu kia, trí nhớ của ngươi kém quá”.

Vị công tử đó đã đến rồi.

Trăng nhô lên ở rặng núi phía đông, ánh sáng như nước, rải khắp núi rừng xa gần.

Tiếng nói trong rừng vừa tắt, tiếng loạt xoạt đạp trên lá khô vang lên, xuất hiện ba bóng người.

Thiếu niên hoa lệ dẫn đầu, chính là Tiêu Diêu công tử.

Vị lục y thiếu nữ lần trước không thấy đâu, thay vào đó là hai tử y nữ lang xinh đẹp yêu kiều.

Xem ra vị công tử này có người mới để sủng ái.

“Hóa ra là ngươi”. Liễu Nhị Ngốc nhướng mày: “Ban nãy đều do ngươi sai khiến?”

“Chính thị”.

“Tiếc là ngươi thất vọng rồi”.

“Sao lại vậy nhỉ,” Tiêu Diêu công tử thản nhiên: “Chết mất mấy kẻ, với Đế Vương cốc chỉ là một cái lông của chín con trâu”. (Hàm ý muối bỏ bể.)

“Đế vương chi cốc?”

“Ở dưới núi này”.

“À, đúng rồi, ngươi là Tiêu Diêu công tử của Đế Vương cốc”. Liễu Nhị Ngốc nhún vai: “Ngươi là đầu hay đuôi trâu?”

“Thế là thế nào?”

“Ban nãy chính ngươi nói đến chuyện lông trâu”. Liễu Nhị Ngốc trầm giọng: “Nếu Liễu mỗ có năng lực chém đứt đầu trâu, cắt đứt từ giữa thân thì sao?”

“Họ Liễu kia”. Tiêu Diêu công tử chợt sầm mặt, lạnh lùng: “Ngươi quá kiêu căng rồi”.

“Ngươi không kiêu căng?”

“Ha ha”. Tiêu Diêu công tử hỏi: “Ngươi dám so bì với bổn công tử?”

“Buồn cười thật, ngươi dựa vào đâu mà cuồng vọng tự đại như thế?” Liễu Nhị Ngốc nói: “Võ công của ngươi có gì kinh nhân đâu nhỉ?”

“Cái gì? Ngươi dám coi thường bổn công tử?” Tiêu Diêu công tử tức giận: “Ngươi có biết thiên kim công tử, thiên kim chi tử luôn ăn trên ngồi trốc, bổn công tử là kim chi ngọc diệp, không phải loại thất phu thảo mãng để đi mạo hiểm”.

“Vớ vẩn”. Thẩm Tiểu Điệp chợt cười lạnh.

“Hay thật”. Liễu Nhị Ngốc cười lạnh: “Ngươi không lo ăn trên ngồi trốc lại đến chỗ máu me này, không muốn mạo hiểm lại dám đối diện với Liễu mỗ, ngươi cho rằng kiếm của mỗ chỉ để bày cho đẹp sao?”

“Kiếm của ngươi?”

“Thế nào? Không đủ sắc hả?”

“Ha ha, họ Liễu kia, đêm nay tử thần chiếu mệnh, kiếm của ngươi có sắc nữa cũng chỉ là sắt rỉ”.

“Hả”.

“Đông phương canh tân kim, tây phương giáp ất mộc”. Tiêu Diêu công tử niệm hai câu quái dị, chợt ngoảnh lại: “Mời Kim Mộc đại sư”.

Kim Mộc đại sư? Gã gọi ai đây?

“A di đà Phật”. Từ xa vang lên tiếng phật hiệu vang vang, mầu vàng phiêu diêu vượt khỏi rừng cây, “cốc” một tiếng, đáp xuống cách Liễu Nhị Ngốc một trượng.

Quả nhiên là một hòa thượng.

Hòa thượng này đầu to tai lớn, mặc cà sa vàng chóe, ngồi yên ổn trên một chiếc bồ đoàn lớn.

Hình như hòa thượng này cưỡi cái bồ đoàn lớn bay tới?

Bồ đoàn là đống vải chiên ma hay là một đám mây lành?

Công phu lăng không phi độ này, trong võ lâm không chỉ chưa được thấy, mà chưa ai nghe nói tới.

Liễu Nhị Ngốc và Thẩm Tiểu Điệp đồng thời biến sắc.

Nếu đó là ma pháp tà đạo, họ không có cách phá giải, nếu là công phu chân thật, họ càng không chống nổi một đòn.

Mắt hòa thượng rực lên, thần quang như điện, bất động nhìn Liễu Nhị Ngốc và Thẩm Tiểu Điệp chằm chằm.

Liễu Nhị Ngốc lạnh buốt cõi lòng, lòng tay ướt đầm mồ hôi.

Thẩm Tiểu Điệp trừng mắt lại, lấy ánh mắt chọi ánh mắt.

Dù thế nào, hòa thượng này hiển nhiên khó chơi, võ công quyết không dưới Kim Vô Quỹ và Đỗ Thất Nương.

Liễu Nhị Ngốc chợt liều mạng quát to, ngự kiếm bay lên, hàn quang lóe sáng xé không khí đâm vào ngực hòa thượng.

Nhát kiếm nà cực kỳ cương mãnh, y đã dốc toàn lực.

Y biết rằng tình thế này không được do dự, cũng không thể đợi, buộc phải ngạnh tiếp.

Hòa thượng vẫn ngồi yên, tựa như không thấy thanh kiếm, tấm cà sa chợt căng lên.

Kiếm phong ập tới như chạm phải bức tường.

Liễu Nhị Ngốc lạnh ngắt cõi lòng, kình lực hùng hồn tràn tới, y bị chấn bay tựa diều đứt dây, rớt xuống cách hai trượng.

Khí huyết của y đảo lộn, cơ hồ không đứng vững được nữa.

Thế mạnh yếu đã phân rõ, hiển nhiên muốn dùng Thanh Hồng kiếm chiếm thượng phong chỉ là mộng tưởng.

“Đại sư”. Tiêu Diêu công tử đứng ngoài xa chợt lớn tiếng khen: “Quả nhiên tuyệt thế thần công”.

Hòa thượng vẫn im lặng.

Có lẽ lão đã nghe nhiều từ ca ngợi như thế rồi, nghe đến phát chán.

Liễu Nhị Ngốc định thần, điều hòa hô hấp, chợt chộp tay Thẩm Tiểu Điệp: “Chạy”.

Gặp phải đối thủ cỡ này, chạy là thượng sách.

Không đi chỉ còn nước đợi chết.

Cũng không thể quản đến hai thớt tuấn mã nữa, hai người tung mình lao thẳng về phía sơn lộ.

Nào ngờ chưa chạy được một bước, trước mặt lại vang lên tiếng cốc.

Cả hai ngẩng nhìn, không khỏi đổ mồ hôi lạnh.

Hòa thượng đó chỉ trong khoảnh khắc đã lăng không lao tới, đi sau mà đến trước, ngồi nghiêm chỉnh chắn lối.

Xem ra hai chân hòa thượng này tàn phế nhưng võ công cao siêu trác việt.

Lão chưa xuất thủ nhưng tạo thành chấn động kinh hồn với Liễu Nhị Ngốc và Thẩm Tiểu Điệp.

Đánh không lại, chạy không xong, chỉ còn nước cho người ta xử lý.

Hòa thượng sau rốt cũng lên tiếng, mắt loang loáng, giọng như chuông đồng: “Tiêu Diêu công tử, nói mau, muốn người sống hay chết?”

“Việc này...” Tiêu Diêu công tử ngần ngừ.

“Còn sống hả?”

“Không, chết càng tốt”. Tiêu Diêu công tử đáp: “Xin đại sư lưu ý, đừng làm hỏng cái túi màu vàng”.

“Cái túi màu vàng?”

“Vâng, trong đó có vật quý trọng”.

“Ha ha, dễ lắm”. Hòa thượng cười vang: “Phật gia giết người, chưa từng làm đứt nửa cọng lông”.

“Toàn nhờ vào thần công của đại sư”. Tiêu Diêu công tử rất mãn ý.

Hòa thượng vẫn ngồi nguyên nhưng từ từ giơ tay, từ từ đẩy nhục chưởng ra, bàn tay to như rẻ quạt, nhưng không hề giống với dáng vẻ sắp đột nhiên phát chưởng.

Không hề phát ra kình lực, cũng không có tiếng vang.

Liễu Nhị Ngốc tuy tim đập nhanh hẳn, không đoán được hòa thượng này giở trò gì.

Dù gì đến nước này, chỉ còn cách đợi xem biến hóa.

Nào ngờ chỉ trong sát na, việc không hay liền xảy ra.

Đầu tiên là Liễu Nhị Ngốc, y đột nhiên phát giác thân thể bị hấp lực kinh hồn hút cứng lấy.

Tiếp đó, Thẩm Tiểu Điệp cũng bị hút.

Hai người kinh hãi, cố vận khí giãy giụa, ban đầu tay chân còn miễn cưỡng hoạt động, sau đó hấp lực lớn dần, thân thể họ không tự chủ được, di động từ từ về phái trước.

Kháng lực tuôn ra, di động chậm hẳn.

Cự ly cách hòa thượng tối đa chỉ còn hơn một trượng, cả hai biết rằng, đợi khi hòa thượng chạm tay vào được, cũng là lúc mất mạng.

Cả hai không còn đường sống, chỉ đợi tống mạng.

Đột nhiên ba tiếng mõ cốc cốc cốc vang lên, một bóng người xanh nhạt lăng không đáp xuống.

“Giặc trọc, còn nhận ra lão ni không?”

Kỳ quái là chỉ trong sát na tiếng quát vang lên, Liễu Nhị Ngốc cùng Thẩm Tiểu Điệp cùng thoát khỏi hấp lực.

Không cần nói cũng biết Liên Hoa sư thái đến rồi.

“Ngươi...” Hòa thượng chợt biến sắc, cốc một tiếng, người và bồ đoàn cùng bay lên.

“Muốn chạy ư?” Liên Hoa sư thái hừ lạnh: “Quy củ cũ, để lại một thứ”. Tay áo bào phất lên, xẹt ra một dải ngân hồng.

Ngân hồng mảnh như tơ nhện, mắt thường khó phân biệt được.

Trên không vang lên một tiếng hộc, máu rải như mưa, một cánh tay rơi xuống nhưng đám mây vàng vần lướt qua ngọn cây đi mất.

Liễu Nhị Ngốc ngoảnh nhìn, không thấy bóng Tiêu Diêu công tử.

“Sư thái”. Thẩm Tiểu Điệp nước mắt lưng tròng: “Lần này không có sư thái...”

“Điệp nhi, đừng khóc”. Liên Hoa sư thái thần quang sáng rực: “Chuẩn bị lên đường đi, sang năm bần ni sẽ du ngoạn Trung Nguyên”.

“Thật ư?”

“Thuận tiện thăm tiểu sư phụ của con”.

“Tốt, tốt quá”. Thẩm Tiểu Điệp chợt mỉm cười: “Con sẽ nấu cho sư thái mấy món ngon”.

“Ăn không bị đòi trả công chứ?” Liên Hoa sư thái bật cười.

“Việc này...”

Kinh hiểm qua đi, Liễu Nhị Ngốc và Thẩm Tiểu Điệp vẫn còn hoảng sợ.

Hai người lại từ biệt Liên Hoa sư thái, nhân lúc trăng sáng đi cả đêm khỏi núi, nửa tháng sau liền tới Lạc Dương.

Trùng phùng Tiểu Mạnh Thường Long Hoài Bích, không tránh khỏi phải quấy quả ba ngày.

Cầm cương hai thớt tuấn mã, Tiểu Mạnh Thường kiên quyết nói rằng thế nào cũng phải nhận lấy, Liễu Nhị Ngốc đành lĩnh tình.

Vượt qua đại giang là đến Cửu trùng dương.

Phong cảnh Tê Hà sơn đã thay đổi, rừng phong lá đỏ rực, như một biển lửa

Hai người cưỡi ngựa đi vào núi, Thẩm Tiểu Điệp đột nhiêu hỏi: “Sao nhị gia không về Kim Lăng?”.

“Về làm gì?”. Liễu Nhị Ngốc nói: “Về đó làm kẻ ngốc à?”.

Thẩm Tiểu Điệp chỉ cười

Liễu Nhị Ngốc thừa cơ nói: “Tại hạ muốn hỏi cô nương, cái việc cần phải nói đó, đã đến lúc nói chưa?”

“Đã đến lúc chưa nhỉ là thế nào?”. Thẩm Tiểu Điệp cố làm ra vẻ không biết

“Lần trước không phải cô nương nói thời cơ chưa đến mà?”

“Nhị gia vẫn còn nhớ được cơ à?”.

Thẩm Tiểu Điệp cúi đầu: “Đó là đại sự, muốn hỏi phải gọi Tiểu sư phụ?”.

“Hỏi thì hỏi”. Liễu Nhị Ngốc nói: “Tiểu sư phụ mà không chịu trả lời, tại hạ sẽ quỳ mãi không chịu đứng lên”.

“Mặt dày” Thẩm Tiểu Điệp lỏn lẻn cười, đột nhiên giật cương, giục ngựa lao đi

Liễu Nhị Ngốc cười vang, hai chân thúc ngựa, đuổi theo sau.

Lộc cộc lộc cộc, tiếng võ ngựa dồn dập phá tan sự yên tĩnh của sơn cốc.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.