“Vú nói cho ta biết, người mà ngoại tổ phụ nhận nuôi… Rốt cuộc là ai, hiện giờ đang ở đâu?”
Phương mama nghe vậy thở dài một tiếng, nói:
“Việc này đúng là vú nuôi có từng nghe qua. Người đó vốn tên Nhị Hắc, sau khi đi theo lão Hầu gia thì gọi là Thẩm Phong. Nhắc tới Thẩm Phong này cũng coi như một kỳ tài, là người không có căn cơ gốc gác, không quê không quán y như lão Hầu gia nhà ta. Trước kia hắn đi theo Hầu gia đông chinh bắc chiến, cực kỳ dũng mãnh, là người ra trận không màng sống chết, cho nên rất vừa ý lão Hầu gia, lão Hầu gia đi đâu cũng dẫn hắn theo. Hầu gia thấy hắn mặc dù tuổi còn nhỏ, nhưng là người sống có trách nhiệm, liền đích thân dạy hắn võ nghệ, hết lòng bồi dưỡng.
Về sau vì hắn có công cứu giá, nên được Thánh Tổ hoàng đế coi trọng, sắc phong làm Ngự tiền thị vệ. Đúng là một người may mắn, một chữ bẻ đôi không biết cũng có thể lên được chức Ngự tiền, có thời gian hắn còn theo hầu bên mình Thánh Tổ hoàng đế nữa. Vừa trung hậu thành thật, lại thông minh cơ trí, không biết chữ thì có làm sao, cái chính là phải dũng mãnh thiện chiến, mới được Hoàng thượng trọng dụng. Hoàng thượng còn để hắn làm Sứ thần đi sứ Giang Nam kiểm tra quan lại. Ai ngờ người này quả thật có chút bản lĩnh, trong trận lũ lụt năm ấy đã lập công lớn, từng bước lên chức.
Năm Hồng Đức thứ ba đã đảm nhiệm chức Thống lĩnh chiếm đóng cửa khẩu Ngọc Ninh thuộc hàng ngũ phẩm. Đúng vào năm ấy Mân Giang xảy ra biến cố, hắn lại vì có công bình định phản tặc mà được thăng tứ phẩm Phủ Sứ. Hiện giờ đang giữ chức Đô Chỉ huy sứ binh mã Phượng An.
Tuệ An nghe vậy sững sờ một lúc, chức Đô Chỉ huy sứ không hề tầm thường chút nào, chưởng quản binh mã sáu tỉnh thuộc kinh đô Phượng An. Tuy nói không quan trọng bằng Thị vệ Đại nội hay Ngự Lâm quân do thiên tử đích thân nắm quyền, nhưng nếu như kinh đô và vùng lân cận có biến, muốn cứu giá thì nhất thiết cần sử dụng đến đội quân này. Nắm trong tay đội quân có trách nhiệm chi phối sự an ổn ở kinh thành, từ trước đến nay phải là người thân tín với hoàng đế mới có thể đảm nhiệm chức vụ này.
Vậy mà người này chỉ bằng đôi bàn tay trắng lại bay lên được chức vụ này, chắc chắn là một người tài giỏi khéo léo, tất nhiên võ nghệ càng vào hàng phi phàm. Tính kế người như thế nào phải chuyện đơn giản gì cho cam. Ngẫm lại năm đó, mặc dù ngoại tổ phụ và mẫu thân tin tưởng phẩm chất của Thẩm Phong, thì chuyện này đã xảy ra, mặc kệ là tra được hay không tra được, đến bước đường này đều là ván cờ đã định. Thẩm Phong bị đuổi khỏi Hầu phủ là chuyện không thể tránh khỏi.
Chỉ là năm đó tuy ng đuổi người ra khỏi phủ, nhưng lại chưa từng sửa đổi gia phả, cũng không xóa tên đã có thể nhìn ra ngoại tổ phụ và mẫu thân vẫn luôn tin tưởng Thẩm Phong. Nếu hận cũng chỉ đành hận kẻ tính kế kia quá mức thâm hiểm hèn hạ, còn tỉ mỉ bày ra thiên la địa võng dụ người vào bẫy, nếu như kẻ kia là…
Tuệ An nghĩ tới đó không khỏi rùng mình một cái, nàng không muốn nghi ngờ cả cha ruột của mình. Nhưng ông ta đã làm ra cái chuyện tán tận lương tâm hại chết mẫu thân như vậy, thì còn có chuyện gì không làm được nữa, hơn nữa chuyện này trừ ông ra, Tuệ An thật sự không nghĩ ra người nào sẽ có lợi nhất sau sự việc này.
Con dân Đại Huy không thể tùy tiện nhận nghĩa tử, như tình huống của Thẩm Phong chính là nhận nuôi. Trong bộ luật Tông pháp Đại Huy có nói, cha mẹ qua đời không được phép nhận con nuôi vì mục đích kế thừa gia nghiệp, chỉ để nối dõi tông đường trong trường hợp không có con nối dõi. Luật ra lệnh cấm không cho con nuôi kế thừa tước vị, khác họ cũng không được coi là con nuôi. Nếu vì thu nhận con nuôi mà gây rối loạn tông pháp luật lệ phạt đánh sáu mươi trượng.
Chuyện của Thẩm Phong tuy nói đã mở cửa từ đường, ghi tên vào gia phả, trên thân phận đã xem như người của Thẩm gia, nhưng vẫn không thể kế thừa sự nghiệp phủ Phượng Dương hầu. Huống chi năm đó Thẩm Phong chỉ hồi kinh báo cáo công việc, cũng không phải sẽ ở luôn kinh thành. Hình như không có bất lợi mấy đối với Tôn Hi Tường.
Cho dù ông có hãm hại làm cho Thẩm Phong bị đuổi khỏi phủ, thì ngay lúc ấy cũng không kiếm chác được lợi ích gì. Nếu nói ông chỉ muốn mẫu thân và ngoại tổ phụ hổ thẹn với mình, mới trù tính chuyện này, thì có gượng ép quá không? Chưa kể năm đó ông với mẫu thân vừa tân hôn không lâu, tình cảm coi như hòa hợp tám phần. Một nam tử trọng thể diện như Tôn Hi Tường thật sự sẽ cam tâm tình nguyện tự cắm sừng mình ư? Việc này phàm là để lộ ra ngoài, ông còn không nhục nhã đến chết sao?
Ông muốn đuổi Thẩm Phong, có bao nhiêu biện pháp sao không dùng. Năm đó trong Hầu phủ còn nuôi tám mỹ thiếu của ngoại tổ phụ nữa kìa! Sao ông không thiết kế Thẩm Phong tư thông với mỹ thiếp, như vậy dù chưa thể nói một đòn trúng đích. Nhưng ít nhất cũng có thể khiến Thẩm Phong cũng ngoại tổ phụ nổi lên hiềm khích, đã có kẽ hở lại dần dần rót nước vào, lo gì không có một ngày đánh đổ bức tường?
Lại nghĩ tới chuyện Tôn Hi Tường làm ở kiếp trước, ông độc hại mẫu thân, từng bước từng bước khống chế Hầu phủ, dụ mình gả vào Vương phủ từ bỏ việc kế tục tước vị, cuối cùng thuận lý thành chương biến Hầu phủ thành Tôn phủ. Những mưu kế này kéo dài đến gần mười năm, có thể nói kín mít không một kẽ hở, chẳng quá nhanh cũng chẳng quá chậm, một kẻ như thế còn có điều gì không thể làm đây.
Điều kiện tối thiểu để Thẩm Phong không thể kế thừa Hầu phủ là trên đời này vẫn còn huyết mạch của ngoại tổ phụ, nhưng nếu mẫu thân đã chết, nàng chủ động bỏ quyền thừa kế, thì đây lại là chuyện khác. Khi đó Thẩm Phong nghiễm nhiên sẽ trở thành sự lựa chọn hàng đầu. Huống chi bản thân Thẩm Phong cũng có công với triều đình, kế thừa tước vị phủ Phượng Dương hầu là điều không thể nghi ngờ. Chỉ cần có Thẩm Phong ở đây, phủ Phượng Dương hầu có xuống dốc đến đâu cũng không đến lượt người ngoài như Tôn Hi Tường quản lý.
Nếu như vậy, chẳng lẽ chuyện này thật sự là Tôn Hi Tường gây nên? Ông vừa vào Hầu phủ liền nhắm tới gia nghiệp Hầu phủ, hơn mười năm trước đã bắt đầu triển khai kế hoạch chiếm đoạt Hầu phủ? Thế thì quả thật là quá đáng sợ…
Tuệ An vừa nghĩ vừa toát mồ hôi, đầu đau một mảnh. Phương mama thấy nàng như vậy đau lòng khuyên nhủ:
“Cô nương đừng nghĩ nhiều làm gì, việc này đã qua bao nhiêu năm nay, há có thể suy nghĩ một hai ngày là ra? Cô nương mau nghỉ ngơi đi, đã muộn lắm rồi đấy. Tuy nói ngày mai không cần đi Quốc Tử Giám, nhưng ngủ muộn cũng ảnh hưởng đến sức khỏe.”
Tuệ An lúc này mới gật đầu nằm xuống, Phương mama tự mình trực đêm bên ngoài, nghe trong phòng vọng ra tiếng Tuệ An liên tục trở mình không khỏi thở dài một hơi.
Tuệ An mơ mơ màng màng cũng chẳng biết ngủ từ lúc nào, đợi đến khi mở mắt ra, mặt trời đã lên tới đỉnh đầu, chiếu sáng cả căn phòng. Phương mama nghe được động tĩnh, liền gọi bọn nha hoàn đi lên hầu hạ.
Đời Tuệ An ra khỏi tịnh phòng ngồi trước bàn trang điểm mới bẩm báo:
“Sáng sớm nay Quan phủ cho người đến đây, hình như là gã sai vặt làm việc ở thôn trang Tây Giao của Quan phủ. Hắn nói trước kia cô nương đã hẹn với Tam thiếu gia nhà họ, nguyện ý trông coi thôn trang mấy ngày. Hắn nghe nói Quốc Tử Giám sắp bắt đầu kỳ nghỉ mùa đông, nên tới hỏi ý cô nương khi nào thì đi, để bọn họ còn chuẩn bị.”
Tuệ An nghe vậy ngơ ngác một lúc, hồi lâu mới phản ứng lại, vỗ đầu một cái đau khổ nói:
“Y thật muốn ta làm chân chăn ngựa cho y sao, người này đúng là…Ta đây cũng không phải nô tài nhà bọn họ!”
Phương mama thấy vậy, cười nói:
“Quan tướng quân có ơn cứu mạng với cô nương, mà cô nương đã đồng ý với người ta thì nhất định phải giữ lời mới được. Huống chi, vú thấy gã sai vặt kia đang rất vội vàng, nói là Mã quan của thôn trang sinh bệnh đã lâu, tạm thời vẫn chưa tìm được người thay thế. Mấy ngày nay thôn trang đã rối tung cả lên, thế mới mặt dày đến chỗ cô nương cầu xin. Cô nương giúp đỡ người ta một chút đi.”
Tuệ An gật gật đầu, nói:
“Việc này chờ qua sáng mai rồi nói sau.”
Thấy Phương mama còn muốn nói nữa, Tuệ An gấp rút mở miệng:
“Vú nuôi yên tâm, ta đi mà. Sẽ dốc lòng dốc sức báo ơn cứu mạng cho người ta, vậy được chưa!”
Hôm sau, Tuệ An mặc áo trắng thêu cành cúc uốn lượn, thêm váy trắng khảm tơ vàng quanh mép, trên đầu búi một búi tóc tròn đơn giản, chỉ dùng một cây trâm bạch ngọc đính hoa sen cố định búi tóc, ở trong phòng lo lắng đi tới đi lui, càng không ngừng nhìn ra bên ngoài. Đông Nhi thấy nàng như vậy không khỏi phì cười một tiếng, bước lên phía trước nói:
“Cô nương đừng đi nữa, khiến cho nô tỳ hoa mắt chóng mặt lắm. Phương mama sẽ về ngay ấy mà. Nô tỳ thấy sắc trời cũng không còn sớm, chỉ sợ đội ngũ đưa tang của phủ Thành Quốc công chắc sắp đến rồi, cô nương tạm thời chờ thêm một chút.”
Nàng đang nói, Tuệ An đã liếc mắt thấy Phương mama vội vã đi từ ngoài vào, nhìn thấy nàng liền nở nụ cười, Tuệ An biết chuyện mình nhờ đã xong, cũng cười tươi đi lên đón bà. Quả nhiên Phương mama vừa vào phòng đã cười nói:
“Cô nương, đội ngũ đưa tang của phủ Thành Quốc công đã đến đầu Phượng Dương hạng, mời cô nương ra ngoài chủ trì tế lễ dọc đường.”
Tuệ An vội chỉnh lại cảm xúc trên mặt, khẽ gật đầu ra khỏi Dung Lê viện.
Thành Quốc công Uông Sĩ Hồng vốn là người Giang Nam, từ khi Thánh Tổ khởi binh liền đi theo Thánh Tổ lập nghiệp, có công lao kiến thiết Đại Huy được phong Đại tư mã chưởng quản Tây Sơn, sau bởi vì bình định phản tặc mà lại thụ phong Quốc công, hiện giờ phủ Thành Quốc công đã đến đời thứ ba, Thành Quốc công đương nhiệm chính là Uông Minh Kiến, cháu đích tôn của Uông Sĩ Hồng.
Thế tử của phủ Thành Quốc công là Uông Dương Trung, ở kinh thành nổi tiếng là bậc đại trượng phu đội trời đạp đất, không chỉ có tướng mạo xuất chúng, lại còn có dũng có mưu. Vừa qua tuổi nhược quán đã làm việc ổn trọng, xử lý chuyện tình trong phủ quả quyết có mực, rất có phong thái của tằng tổ phụ ngày xưa, là bậc kỳ tài hiếm có trong giới con em quý tộc. Hắn dựa vào bản lĩnh của mình thi đậu Võ Trạng nguyên năm Hồng Đức thứ tư, được Hoàng thượng bổ nhiệm chức Ngự tiền thị vệ, một đường thăng tiến, cho đến Phó Thống lĩnh Ngự Lâm quân.
Trẻ tuổi như vậy, lại tự mình phấn đấu đi lên, còn được Thánh thượng coi trọng ủy thác cho trách nhiệm nặng nề, khiến mỗi khi Thành Quốc công ra ngoài đều nở mày nở mặt không để đâu cho hết, luôn miệng khen con trai có hiếu. Chỉ tiếc ông trời đố kỵ người tài, trong sự kiện Đoan môn xảy ra hôm đó Thế tử phủ Thành Quốc công lại chẳng may tử trận dưới tay người Đông Khương, mà Thành Quốc công phu nhân mang theo hai con trai nhỏ ở Thường Âm lâu xem náo nhiệt, cũng không tránh khỏi họa sát thân, một chết một tàn tật.
Trong vòng một ngày, Thành Quốc công mất hai người con trai, con út thì bị chém đứt một bên chân, quả thật là bi ai không người ngờ tới. Thành Quốc công Uông Minh Kiến nay tuổi đã năm mươi có lẻ, thân thể vốn cũng không tốt, gặp phải chuyện như thế liền bệnh nằm liệt giường, ngày hôm sau cũng phất tay mà đi.
Hiện giờ phủ Thành Quốc công chỉ còn lại hai vị công tử, chính là Nhị công tử Uông Dương Tùng và Tứ công tử thiếu một bên chân.
Hôm nay là ngày phủ Thành Quốc công đưa tang, bởi vì đội ngũ đưa tang đến đoạn đường này do phủ Phượng Dương hầu chủ trì, cho nên trong phủ sớm đã chuẩn bị sẵn sàng để tế lễ dọc đường.
Tuệ An ra khỏi cửa phủ, quản gia Chu Bảo Hưng liền tươi cười tiến lên đón chào, khom lưng nói:
“Mời Đại cô nương ngồi nghỉ trước, đội ngũ đưa tang vừa qua đầu Phượng Dương hạng, đoán chừng còn phải thêm thời gian một chén trà nữa mới có thể đến đây.”
Tuệ An gật đầu, ngồi xuống ghế thái sư được chuẩn bị sẵn, liếc Chu Bảo Hưng một cái, hỏi:
“Đều chuẩn bị xong chưa?”
Chu Bảo Hưng vội vàng cười gật đầu, nói:
“Xin cô nương yên tâm, túi thơm, đồ tế, nhang đèn, vàng mã đều là nô tài đích thân đặt mua, đoàn tấu nhạc cũng đã có mặt, chắc chắn sẽ không xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn.”
Tuệ An nghe vậy gật đầu, nói:
“Phụ thân ủy thác ông làm tổng quản trong phủ, ông làm việc ta cũng yên tâm đôi chút. Nghe mẫu thân nói, trước kia ngoại tổ phụ và Thành Quốc công từng dẫn quân cùng nhau, ở chung một lều trại, ăn cùng một nồi cơm, lúc mẫu thân vẫn còn luôn giao hảo với phủ Thành Quốc công, cũng coi như là bạn tri kỷ cùng Thành Quốc công phu nhân. Thật không ngờ, nay phủ Thành Quốc công lại gặp chuyện bi thảm nhường này…”
Chu Bảo Hưng nghe vậy cũng thở dài, nói:
“Hiện giờ cả Quốc công gia lẫn Thế tử đều cưỡi hạc quy tiên, để lại phu nhân và hai vị công tử mẹ góa con côi, nghe nói Tứ công tử mới có tám tuổi, nhỏ như vậy đã mất một chân, những kẻ Đông Khương kia đúng là… chém ngàn đao cũng không hết giận. Nô tài nghe nói Nhị công tử kia tuy đã mười bảy, nhưng lại không có được nửa phần mạnh mẽ chững chạc như Thế tử gia, chỉ sợ phủ Thành Quốc công sẽ phải suy tàn…”
Chu Bảo Hưng thấy Tuệ An liếc mình một cái, ánh mắt mang theo sắc bén hơn người, lúc này mới giật mình ngậm miệng, gấp rút cười giả lả:
“Nô tài lắm miệng, nô tài lắm miệng, để nô tài đi xem đội ngũ đưa tang đã đến chưa.”
Tuệ An thấy ông rời đi, không khỏi nhìn chằm chằm bóng lưng của ông lạnh lùng cười khẩy một tiếng.
Không lâu sau đã nghe tiếng than khóc dần dần vọng lại, Tuệ An tức thì đưa mắt nhìn Phương mama cùng nhau đứng dậy, sửa sang y phục lần nữa mới bước xuống bậc thang.
Đội ngũ đưa tang đã tiến vào ngõ hẻm, bên này Chu Bảo Hưng cũng ra hiệu cho người tấu lên khúc đưa tang, Tuệ An thấy ba chiếc quan tài đen sẫm lần lượt đi qua, trong lòng âm thầm thương xót, lại thấy đi đầu đội ngũ đưa tang là một hàng nữ quyến đã khóc tới hoa dung thất sắc, chóp mũi không khỏi cay cay, nghĩ tới chuyện mình sẽ làm tiếp đây, liền cảm giác rất có lỗi với họ, than nhỏ một tiếng.
Phương mama thấy sắc mặt Tuệ An tái hơn bình thường, há không biết nàng đang nghĩ chuyện gì, bà len lén kéo tay Tuệ An, nói:
“Cô nương lòng dạ thiện lương, người chết ắt sẽ thông cảm cho chúng ta.”
Tuệ An ậm ừ một tiếng, từ tay áo rút ra khăn tay được chuẩn bị sẵn, chạm nhẹ vào mũi, lập tức lệ nóng tuôn trào.
Đội ngũ đưa tang đã đến gần, gã sai vặt phủ Quốc công đi trước đưa lên miếng gỗ kê quan, lúc này phu kiệu mới đặt quan tài lên miếng kê đó. Tuệ An gấp rút nghênh đón, theo quy củ mà đốt nhang đèn, vàng mã đưa tiễn người xấu số.
Thế nhưng bên kia không hiểu sao trên trán Chu tổng quản lấm tấm mồ hôi, luống cuống một hồi cũng không châm được nhang, cả tiền vàng cũng không bén lửa, đã có không ít người bên phủ Thành Quốc công nhận ra chuyện này, thi nhau đưa mắt nhìn sang, như vậy càng khiến Chu Bảo Hưng cuống cuồng cả lên, lóng ngóng ra sức châm lửa.
Vốn Tuệ An phải tiến lên thắp nhang, nhất thời liền ngừng động tác dùng ánh mắt lợi hại lườm Chu Bảo Hưng, dọa ông mặt mày xanh mét, may mắn nhang và vàng mã cuối cùng cũng chịu bắt lửa, nhưng chưa đợi ông thở phào một hơi, lửa kia đã lại tắt ngúm.
Thấy Tuệ An đã không thể đợi thêm, tự mình bước lên khấu đầu ba cái với quan tài, trong lòng Chu Bảo Hưng biết mình chết chắc rồi, ông làm sao không biết vàng mã lẫn nhang đèn đều bị người động tay động chân. Đang mải suy nghĩ ai dám ngáng chân ông, bên kia Nhị công tử phủ Quốc công Uông Dương Tùng đã quỳ gối bên quan tài dập đầu đáp lễ Tuệ An.
Tuệ An nhìn qua, thấy vị Uông Nhị công tử thanh danh không tốt trong lời đồn không ngờ lại khôi ngô tuấn tú đến thế. Tóc cột cao, mi dài che đi đôi mắt đen thâm trầm, mũi thẳng, môi mỏng. Dù đôi mắt đã phủ kín tơ máu vẫn toát ra vẻ trong suốt có thần. Sắc mặt cũng vô cùng tiều tụy, khoác một thân đồ tang trắng toát lại không hề mang đến cảm giác cần người khác phải đồng tình thương cảm.
Vị Nhị công tử phủ Thành Quốc công này cũng là con của chính thất, có lẽ là do ca ca quá mức ưu tú, nên Nhị công tử mới không được ai quan tâm tới, chưa từng nghe nói hắn ỷ thế ức hiếp dân chúng, nên chắc hẳn cũng là chính nhân quân tử, hình như còn có tiếng vũ phu thì phải, một câu không hợp liền ra quyền đánh đấm. Nghe nói còn mê mẩn trò chọi gà đặt cược, từng vì một ca kĩ mà ngay cả hoàng đệ của Hoàng thượng là Ninh vương cũng dám khiêu chiến, thường xuyên khiến cho Thành Quốc công giận dữ vung roi đuổi đánh khắp phủ, tóm lại người này không có tiếng tốt là bao, nếu không tại sao Chu Bảo Hưng lại lỡ lời nói phủ Thành Quốc công sắp lụi tàn.
Cho nên khi Tuệ An thấy Uông gia Nhị công tử tuấn tú bất phàm, không thể không sửng sốt một chút, sau đó mới nhanh chóng chuyển hướng sang Thành Quốc công phu nhân Đinh thị. Đinh thị năm nay tuổi chừng bốn mươi, không biết có phải liên tục gặp chuyện chẳng lành hay không, giờ nhìn nhưng lại như bà lão năm mươi, nàng được hai tiểu cô nương mặc đồ tang đỡ tay dìu đi, đã khóc đến nỗi mắt sưng vù một mảnh, gương mặt tái nhợt thật sự làm người xót xa. Tuệ An thấy bà tuy được đỡ nhưng vẫn lảo đảo muốn ngã, vội vàng tiến lên vịn lấy tay bà, nhỏ giọng khuyên nhủ:
“Xin phu nhân nén cố bi thương. Phu nhân phải bảo trọng thân thể. Tuy nói trong phủ còn có Nhị công tử chống đỡ, nhưng dù sao ngài ấy vẫn còn nhỏ tuổi, phủ Quốc công cần phu nhân gánh vác, nếu như phu nhân có mệnh hệ gì, thì làm sao Nhị công tử cùng mọi người quý phủ chịu đựng nổi nữa?”
Cô gái thanh tú bên phải Thành Quốc công phu nhân nghe vậy cũng rơi lệ nói:
“Mẫu thân, Thẩm cô nương nói đúng lắm. Nàng tuổi nhỏ như vậy, vẫn biết mẫu thân là trụ cột của phủ Quốc công, mẫu thân há có thể đau thương quá độ ảnh hưởng tới sức khỏe. Mẫu thân như vậy… Bảo con dâu ăn nói thế nào với phu quân… Phu quân trên trời có linh thiêng nhất định sẽ trách con dâu bất hiếu…”
Tuệ An nghe vậy cũng biết người này là Thế tử phi phủ Quốc công, xoay người hành lễ nói:
“Thế tử phi cũng nén bi thương.”
Ai ngờ nàng vừa dứt lời, đã nghe bên kia nổ ‘Ầm’ một tiếng, Tuệ An nhìn qua thấy bàn thờ do phủ Phượng Dương hầu đặt mua bỗng dưng sập thành mảnh vụn, nhang đèn, đồ tế rào rào rơi đầy đất. Vừa rồi lúc Tuệ An cúi lạy đã ngừng tiếng kèn, trên đường yên ắng cực kỳ, chỉ còn lại tiếng khóc rấm rức của đội ngũ đưa tang.
Bây giờ tiếng nổ này vang lên, liền hấp dẫn sự chú ý của tất cả mọi người xung quanh. Bọn họ chưa từng gặp phải tình huống này bao giờ, không ai bảo ai đều ngây ngẩn cả người.
Xảy ra sự cố lớn như vậy, Chu Bảo Hưng sợ đến run rẩy. Trong đầu lóe lên tia sáng, ông quy xuống phịch một tiếng, lớn tiếng khóc hô:
“Thành Quốc công hiển linh, Thành Quốc công hiển linh.”
Giọng nói của ông không khác gì tiếng sấm giữa trời quang, khiến đội ngũ đưa tang đang lặng yên phăng phắc tức thì khóc lóc rung trời chuyển đất:
“Quốc công gia, Thế tử gia và Tam công tử của chúng ta đều bị Đông Khương tử sĩ hại chết!”
“Thù lớn chưa trả, lão tặc Đông Khương vẫn sống sờ sờ ra đấy, làm sao Quốc công gia và Thế tử siêu thoát được đây!”
…
Tuệ An thấy vậy nheo mắt lườm Chu Bảo Hưng một cái, giờ mới hiểu tại sao Tôn Hi Tường lại tin dùng ông ta lâu thế. Người này đúng là hơi có phần cơ trí, không dễ dàng xử lý thật.
Ai ngờ Thành Quốc công phu nhân nghe vậy lại đột nhiên khóc òa lên một tiếng, tiếp sau phun ra ngụm máu đỏ tươi, nghiêng ngả gục về phía sau. Tuệ An cảm thấy tay áo ươn ướt, quay đầu đã thấy một màn này, gấp rút kinh hô một tiếng ôm lấy Định thị, mới ngăn không để bà ngã thẳng xuống đất.
“Mẫu thân!”
Uông Dương Tùng hoảng sợ hét lên một tiếng, nháy mắt đã chạy tới trước mặt, đoạt lấy Đinh thị trong tay Tuệ An, vẻ mặt kinh hoàng lay lay bà. Hắn đoạt người cực kỳ thô lỗ, móng tay xẹt qua mu bàn tay Tuệ An, để lại một vệt xước dài từ từ rỉ máu. Tuệ An thấy hắn đau đớn khôn nguôi, cũng hiểu là hắn nóng nảy vô ý, nàng đưa tay cầm cánh tay buông thõng của Đinh thị, dò được mạch đập mới thở phào một hơi, nhỏ giọng nói:
“Nhị công tử chớ hoảng sợ, phu nhân chỉ bị ngất mà thôi. Mau mang người đến phủ ta nghỉ ngơi đi, Chu quản gia, ông cho người tới Thái y viện, mời thái y đến chẩn bệnh cho phu nhân.”
Uông Dương Tùng nghe vậy, lúc này mới lau nước mắt trên mặt, run rẩy đưa tay kiểm tra hơi thở Đinh thị, sắc mặt dần dần hòa hoãn, hắn quay đầu dùng tay áo lau sạch nước mắt còn sót lại, nhìn về phía Tuệ An, cố trầm giọng nói:
“Ý tốt của Thẩm tiểu thư ta xin nhận. Chỉ là nay trong nhà đang có tang, không có chuyện lại mặc một thân đồ tang đi vào phủ Phượng Dương hầu. Vạn quản gia đến đây, chúng ta đưa mẫu thân về phủ.”
“Nhị thiếu gia, việc này tuyệt đối không được! Sao có thể bỏ mặc quan tài ở trên đường!”
Quản gia nghe vậy gấp giọng khuyên can. Uông Dương Tùng nhíu chặt mày kiếm, nói:
“Vậy thì nâng quan hồi phủ.”
Lần này quản gia càng kinh hãi, phịch một tiếng quỳ xuống, khóc lóc nói:
“Xin Nhị thiếu gia nghĩ lại, quan tài vừa ra khỏi phủ nào có đạo lý nâng đi trở về? Đừng nói là hồi phủ, cho dù đi ngược một đoạn đường cũng không được. Ngài làm như vậy có khác gì không để Quốc công gia và Thế tử ra đi bình yên, thuận đường xuôi gió…”
Tuệ An chỉ cảm thấy nếu không phải do phủ Phượng Dương hầu của nàng gây chuyện, thì Thành Quốc công phu nhân cũng không ngất xỉu trên đường. Trong lòng vốn đã áy náy không yên, thấy chuyện đến nước này cũng vội vàng đỡ lời cho quản gia:
“Nhị công tử vẫn nên đưa phu nhân vào phủ ta nghỉ ngơi đi, vừa rồi phu nhân phun ra một búng máu như vậy, làm sao chịu nổi người ta khiêng tới khiêng lui nữa? Mặc đồ tang vào phủ sẽ mang tới tai ương cái gì chứ, phủ chúng ta chưa bao giờ tin mấy chuyện thần thần quỷ quỷ như thế, ta đã không kiêng kỵ, công tử còn ngại việc gì? Nên biết không thể cứ để phu nhân ngất ở đây được.”
Uông Dương Tùng do dự một lúc, thấy Tuệ An thành khẩn hết lời, mới dập đầu lạy Tuệ An hai lạy, một tay đỡ mẫu thân nói:
“Đại ân đại đức của Thẩm tiểu thư hôm nay ta sẽ không quên.”
P/s: Cảm tưởng như đã rất lâu rồi mới quay lại thì phải, chương này là hàng tồn trong máy, để không cũng chẳng làm gì nên post trước cho cả nhà đỡ tủi thân vậy :”>
Tuệ An chỉ muốn mượn chuyện này xử lý vài con cá lớn lẫn tôm tép trong phủ mà thôi, không hề có ý gây ảnh hưởng gì đến phủ Thành Quốc công đâu, dù sao mối quan hệ sau này giữa Tuệ An với phủ Thành Quốc công cũng rất là dây mơ rễ má đó.
Từ khi trọng sinh Tuệ An mới chỉ ra oai đôi chút với mẹ con Đỗ Mỹ Kha mà thôi, chưa động chạm gì đến đường dây của Tôn Hi Tường trong phủ nên bọn họ còn chưa biết ai mới thật sự là chủ nhân của phủ Phượng Dương hầu. Chuyện gay cấn thế này, phải để hồi sau mới rõ được, ha ha.
Trích nhận xét của người làm trong phủ:
“Gió trong Hầu phủ sắp đổi chiều rồi!”
“Đại ân đại đức của Thẩm tiểu thư hôm nay ta sẽ không quên.”
Tuệ An sợ hết hồn, còn chưa kịp nhận ra chuyện gì hắn đã dập đầu với nàng. Tuệ An đỏ mặt không dám nhận, vội vã sai người hầu tiến tới giúp đỡ.
Tuệ An đón Đinh thị vàophòng khách, Uông Dương Tùng đặt mẫu thân ngay ngắn trên giường, nghiêm nghị nhìn bà một lúc mới quay đầu thi lễ với Tuệ An và Thế tử phi, nói:
“Làm phiền Thẩm cô nương và đại tẩu thay ta chăm sóc mẫu thân.”
Tuệ An gấp rút cúi đầu trả lễ, nói:
“Xin công tử yên tâm, tin chắc thái y cũng sắp đến nơi rồi.”
“Nhị đệ mau đi tiếp đi, mẫu thân đã có ta.”
Uông Dương Tùng cũng gật đầu sải bước mà đi. Tuệ An len lén nhìn sang Thế tử phi, trông nàng cũng liễu yếu đào tơ mảnh mai chẳng kém, vội vàng đỡ nàng ngồi xuống chiếc ghế bên giường, khuyên nhủ:
“Thế tử phi cũng yên tâm đi, ta thấy sắc mặt phu nhân đã đỡ ít nhiều, không có chuyện gì đâu.”
Thế tử phi nghe vậy kéo tay Tuệ An, mặt mũi tràn đầy cảm kích nói:
“Ta lớn hơn muội muội mấy tuổi, khuê danh Thịnh Vận, nếu muội muội không chê, gọi ta một tiếng tỷ tỷ nhé?”
“Thịnh tỷ tỷ…”
Tuệ An gọi nàng một tiếng, thấy tướng mạo nàng thanh lệ thoát tục, đôi mắt như hồ nước mùa thu xanh biếc một màu, mặc dù ửng đỏ do khóc quá nhiều cũng không che hết vẻ thông minh linh lợi, cằm nhỏ tôn lên khuôn mặt trái xoan, nhìn bộ dạng này chỉ sợ mới mười sáu mười bảy tuổi. Trẻ tuổi như vậy đã mất đi phu quân, trong lòng Tuệ An khó nén nỗi buồn, lại nói:
“Thịnh tỷ tỷ phải chú ý thân thể, ta thấy sắc mặt tỷ cũng không tốt cho lắm!”
Thịnh Vận đang muốn đáp lời, rèm lại được vén lên, là Đông Nhi dẫn Thái y đến:
“Cô nương, đây là Vương thái y của Thái y viện.”
“Thái y mau qua nhìn cho phu nhân đi, chẳng hay có chuyện gì hay không?”
Tuệ An gấp rút đứng dậy nhường chỗ cho Vương thái y. Vương thái y chẩn mạch, một lúc mới gật đầu nói:
“Phu nhân chỉ là bi thương quá độ nên ngất xỉu, không có chuyện gì. Về phần ngụm máu kia có thể là do mấy ngày liên tiếp tích tụ trong lòng, không phun ra mới gặp chuyện chẳng lành đây.”
Thịnh Vận nghe vậy không khỏi lẩm bẩm hai tiếng Bồ Tát phù hộ, lại vội vàng hỏi:
“Vậy tại sao mẫu thân vẫn chưa tỉnh?”
“Thế tử phi yên tâm, để ta châm cứu cho phu nhân một lát đã.”
Vương thái y nói xong lấy ra ngân châm thư đồng dâng lên, châm vài cái lên tay phải Đinh thị, quả nhiên Đinh thị từ từ mở mắt.
Tuệ An thấy Vương thái y đứng dậy, vội nói:
“Làm phiền thái y cũng bắt mạch cho Thịnh tỷ tỷ, sắc mặt tỷ ấy không được tốt lắm.”
Thịnh Vận nghe vậy vốn định từ chối, nhưng không biết nghĩ đến cái gì, lại đổi ý ngồi vào ghế. Vương thái y tiến lên chẩn mạch, khẽ mỉm cười nói:
“Không phải chuyện xấu, là hỉ mạch, chúc mừng Thế tử phi…”
Ông nói đến đây nhớ tới đứa trẻ vừa ra đời đã không có phụ thân, nói được một nửa liền biến thành thở dài một tiếng.
Thịnh Vận nghe vậy sững sờ, ngược lại Đinh thị vừa tỉnh dậy đã nghe thấy tin này, nhất thời buồn vui lẫn lộn, không khỏi hỏi thăm Vương thái y kỹ càng, lấy được lời khẳng định của ông mới xúc động nói:
“Trời xanh có mắt, trời xanh có mắt, con ta có hậu rồi…”
Tuệ An thấy vậy gấp rút cùng Thịnh Vận an ủi Đinh thị vài câu. Thấy bà nắm tay Thịnh Vận dặn dò, Tuệ An cũng đứng dậy mời Vương thái y ra ngoài kê đơn. Phân phó Hạ Nhi đi nấu thuốc xong, lại đưa Vương thái y ra cửa mới trở lại.
Lúc Tuệ An quay về phòng, thấy Đinh thị và Thịnh Vận đang ôm nhau rơi lệ, Tuệ An càng ảo não thở dài một tiếng. Hai người nghe được động tĩnh, mới lau lệ trên mặt. Tuệ An thấy Đinh thị vẫy tay gọi nàng, cũng tiến lên vài bước, ngồi xuống bên giường đưa tay cho Đinh thị.
Đinh thị kéo tay nàng nói:
“Đúng là một cô nương tốt. Nay phủ Quốc công ta đã đổ một nửa, ai ai cũng nói phủ Thành Quốc công hết rồi, tước vị này không chừng về sau Thánh thượng sẽ thu hồi. Ngay cả những nhà ngày thường luôn thân thiết với Quốc công gia nhà chúng ta cũng không thèm để ý, hoàn toàn không bằng một phần lúc trước. Trong hoàn cảnh thế này mà Thẩm tiểu thư vẫn đối đãi với phủ ta chu toàn như vậy, ta đây khắc ghi tận tâm can, không bao giờ quên…”
Tuệ An nghe vậy đang muốn đáp lời, lại đột nhiên nghe bên ngoài truyền tới thanh âm ồn ào náo động. Sau đó một gã sai vặt vén rèm xông vào, sụp người quỳ trên mặt đất khóc lóc nói:
“Không xong rồi phu nhân, Nhị thiếu gia… Nhị thiếu gia, ngài ấy…”
Có thể là do tình thế cấp bách, gã sai vặt ấp úng mãi mà không nói nên lời. Điều này càng khiến Đinh thị gấp rút lên, sắc mặt tái nhợt chống người ngồi dậy nói:
“Rốt cuộc Nhị thiếu gia làm sao, ngươi nói nhanh lên!”
Gã sai vặt kia lúc này mới nói:
“Phu nhân, Nhị thiếu gia cùng đội ngũ đưa tang vừa ra khỏi Phượng Dương hạng, đúng lúc gặp phải một đoàn thị vệ kinh thành đang áp tải Bạt Thác Ngạn diễu hành thị chúng, Nhị thiếu gia nhìn thấy liền bảo mấy người khiêng quan sửa lại lộ trình, đi thẳng về hướng Thiên lao…
Bảo là muốn… Bảo là muốn giết chết Bạt Thác Ngạn, báo thù cho Quốc công gia, Thế tử gia và Tam thiếu gia. Quản gia ngăn cản không được, mới sai tiểu nhân nhanh chóng chạy về báo cáo phu nhân. Lúc này chỉ sợ Nhị thiếu gia đã đối đầu với thị vệ kinh thành rồi.”
Về vấn đề xử lý Bạt Thác Ngạn, triều đình đã bàn bạc mấy ngày mấy đêm. Ban đầu chư vị đại thần đều nhất quyết mang đi lăng trì xử tử, đặc biệt những đại thần có người thân chết trong sự kiện Đoan môn thì càng kích động, rối rít xin gặp Hiền Khang đế yêu cầu xử tử Bạt Thác Ngạn, Hiền Khang đế cũng hận không thể làm thế nào cho Bạt Thác Ngạn chết tươi luôn.
Nhưng Quan Nguyên Hạc và mấy người võ tướng lại phản đối ý kiến này, không biết tại sao lại thuyết phục được Hiền Khang đế. Hiền Khang đế ra lệnh cho thị vệ kinh thành áp tải Bạt Thác Ngạn dạo phố thị chúng một ngày sau đó giam vào Thừa Ninh tháp, thế mới có chuyện dân chúng và đại thần không phục, rủ nhau quỳ trước cửa Hoàng thành, một bộ Thánh thượng không thu hồi mệnh lệnh đã ban sẽ quỳ chết ở đó luôn.
Về sau vẫn là Hoàng thượng cho thị vệ kinh thành đi tuyên chỉ, nói là thích khách ở Đoan môn thật ra đều là người do Hải Xương vương phái đến, không liên quan tới Bạt Thác Ngạn. Lại cứng rắn áp xuống cuộc nổi loạn, lấy chuyện tụ tập gây rối nhiễu loạn Hoàng thành mà bỏ ngục vài người, lúc này mới khiến chuyện này lắng đi đôi chút.
Nay Đinh thị nghe nói Uông Dương Tùng muốn cướp người từ tay thị vệ kinh thành, đây chẳng khác nào khiêu khích uy quyền của hoàng đế, bà làm sao không vội cho được, nghe vậy suýt nữa không thở nổi, sắp sửa ngất tiếp.
Thịnh Vận gấp rút vỗ vỗ lưng bà, bà mới đập vào thành giường giận dữ nói:
“Nghiệt chướng! Cái tên nghiệt chướng này một khắc cũng không làm người khác yên lòng, phải chăng nó mà có được một phần trầm ổn của ca ca nó thôi, thì phủ Quốc công cũng không bị người ta xem thường như thế!”
Đinh thị nói xong nước mắt lại tuôn rơi như mưa. Thịnh Vận nghe vậy nhớ đến khuôn mặt tuấn tú tựa ngọc của phu quân, phong thái quyết đoán bất phàm khi chàng làm việc, không khỏi càng đau buồn, cũng lại nhạt nhòa nước mắt. Gã sai vặt nọ thấy vậy cũng cuống hết cả lên, khóc thưa:
“Phu nhân và Thế tử phi mau nghĩ cách đi.”
Hai người lúc này mới ngừng khóc, Đinh thị nắm chặt góc chăn dường như muốn ngồi dậy, nào biết chỉ một động tác nhỏ nhoi như vậy đã khiến bà phải loạng choạng ngã ầm trở lại, run rẩy nửa ngày không thể cử động. Tần vương thấy vậy vội vàng đỡ tay bà, sụt sùi khuyên nhủ:
“Mẫu thân chớ nóng vội! Hay là để con dâu đi khuyên Nhị đệ. Hiện giờ thân thể mẫu thân há có thể mệt mỏi thêm.”
Đinh thị nghe vậy lại kéo tay Thịnh Vận, thở dốc nói:
“Không được, con ở đây chờ người trong phủ tới đón. Mẫu thân đi! Con đang mang trong mình cốt nhục của Uông gia ta, có chuyện thì thì mẫu thân biết ăn nói với liệt tổ liệt tông thế nào? Lại nói, với tính tình của con, chỉ sợ Nhị đệ con chưa chắc đã chịu nghe lời!”
Tuệ An thấy hai người như thế do dự đứng dậy khuyên nhủ:
“Phu nhân và Thế tử phi đều nên nghỉ ngơi mới phải, để An nương đi.”
Đinh thị ngạc nhiên nhìn nàng, Tuệ An cười hì hì một tiếng, nói:
“Người yên tâm đi, nếu con không ngăn được lại phái người về đây gọi phu nhân. Suy cho cùng cũng có thể kéo dài thời gian một chút, để phu nhân bình ổn lại tâm tình. Con mặc dù không thể bảo đảm sẽ thuyết phục được Nhị thiếu gia, nhưng việc hắn có xô xát với thị vệ kinh thành gây ra họa lớn hay không, con có thể chắc chắn với người.”
Đinh thị nghe Tuệ An khẳng định như vậy, hốc mắt lại ửng hồng, vội nói:
“Đành làm phiền Thẩm cô nương phải đi một chuyến. Thằng con kia của ta ngu dốt, lại chỉ biết dụng võ làm càn, cô nương cũng không cần can ngăn nó quá đâu, việc thế nào đã có trời định, ta sợ nó làm cô nương bị thương.”
Tuệ An đáp ứng yêu cầu của bà, dưới ánh mắt tha thiết của hai người mà đi ra khỏi cửa, mang theo bọn Đông Nhi cùng đi.
Đến cửa đã thấy xe ngựa của Uông phủ chờ sẵn ở đó, vẫn còn vải trắng phủ quanh. Tuệ An đang muốn lên xe, Đông Nhi đã vội vàng can ngăn:
“Cô nương, không thể! Nô tỳ đã sai người dắt xe khác ra, cô nương đợi một chút.”
Trong lòng Tuệ An lo lắng không thôi, chỉ khoát tay nói:
“Ta không ngại, ngươi dẫn đường cho ta, mấy người Hạ Nhi theo ta.”
Nói xong liền lưu loát vén rèm vào xe. Đông Nhi chỉ đành thở dài một tiếng, thầm oán cô nương đúng là không biết kiêng kỵ gì cả. Người ta nói có kiêng có lành, ra cửa nhìn thấy nhà ai đưa tang còn phải tránh thật xa, về nhà thắp hương cúng bái trừ tà còn chưa đủ. Chỉ có cô nương các nàng là không coi mấy chuyện này ra gì, dính vào mấy chuyện kiểu này thì hay ho gì chứ.
Nàng tuy nghĩ vậy nhưng cũng theo lên xe ngựa. Xe ngựa lập tức phi như bay về phía trước. Thấy Tuệ An trầm tư ngồi đó, Đông Nhi không khỏi nhắc nàng:
“Việc này đâu có liên quan tới cô nương, chúng ta cũng không quen không biết Uông Nhị công tử kia, thật không hiểu cô nương có ý gì nữa.”
Thật ra hôm nay Tuệ An một là cảm thấy áy náy do đã tính kế nhà người ta, hai là nàng cũng cảm thấy có đôi phần đồng bệnh tương liên* với Uông Nhị kia, nỗi đau mất mát người thân đâu phải là thứ dễ dàng chịu đựng. Lại thêm nàng vốn là người nhiệt tình xúc động, nên mới gánh lấy việc này vào thân.
*Cùng cảnh ngộ thì thông cảm lẫn nhau.
Chỉ sợ hôm nay trở về sẽ bị Phương mama mắng cho một trận nên thân mất, rồi lại uống canh trừ tà gì đó nữa. Tuệ An nghĩ vậy liền ngẩng đầu trừng Đông Nhi một cái, Đông Nhi đành ngoan ngoãn ngậm miệng.
Rất nhanh xe ngựa đã đến Vô Hồi hạng, Vô Hồi hạng này là con đường nối liền với Thiên lao của Đại Lý tự, phần lớn nhốt những trọng phạm triều đình, tên như ý nghĩa, chính là đã đi qua Vô Hồi hạng thì đừng hòng quay đầu trở lại, đời này ắt phải chấm dứt tại đây.
Xe ngựa cách Vô Hồi hạng hơn hai trăm thước liền dừng lại, Tuệ An xuống xe. Đã thấy dân chúng chặt kín đầu hẻm, tất cả đều kích động phận nộ yêu cầu xử tử Bạt Thác Ngạn, mà đội ngũ đưa tang của phủ Thành Quốc công đang ở trong cùng vòng vây.
Nhắc tới vị Uông Nhị công tử này quả nhiên cũng không hề tầm thường, mới hơn một khắc đã kêu gọi dân chúng cùng nhau nổi loạn. Còn nghĩ ra chuyện xếp ba chiếc quan tài thành một hàng thẳng, ngăn cách Vô Hồi hạng với đường đến Thiên lao, chặn kín không một kẽ hở.
Tuệ An đẩy ra đám người chen vào bên trong, đã thấy xe tù đang bị chúng hộ vệ phủ Thành Quốc công vây quanh. Một đường là quan tài cùng dân chúng là thị vệ kinh thành không thể nhích đi đâu được, bên kia lại là người làm lẫn thân quyến phủ Quốc công đang chen lấn với một toán thị vệ, mà phần lớn chỗ đó là nữ tử chân yếu tay mềm.
Hiện giờ tình cảnh thế này, tiểu thư hay nô tỳ thì cũng đều mặc áo tang như nhau, ai biết được đâu là quý tộc đâu là tỳ nữ, khiến cho thị vệ kinh thành chỉ có thể bó tay chịu trói, căn bản không có cơ hội đột phá vòng vây.
Mà bên phía xe chở tù thì đã lâm vào tình trạng không thể cứu vãn, chỉ còn mười mấy thị vệ lăm lăm giáo mác hộ tống xung quanh Bạt Thác Ngạn, Uông Dương Tùng không biết đã nhảy lên xe tù từ lúc nào, đang vung thương hỗn chiến cùng một võ tướng râu ria xồm xoàm mặc áo giáp bạc.
Hiển nhiên là Uông Nhị đang ở thế hạ phong, chỉ là hắn toàn thân mang đầy sát khí, ra tay không màng mạng sống khiến cho võ tướng kia tức tối chửi ầm lên:
“Mẹ kiếp, tên công tử bột nhà ngươi lăn xuống khỏi xe của lão tử ngay, cứ thế thì đừng trách lão Triệu ta đây ra tay tàn nhẫn.”
Uông Nhị nghe vậy cũng không biết là tức hay xấu hổ, cả khuôn mặt đỏ bừng, lạnh lùng nói:
“Ta lại muốn nhìn một chút ngươi làm sao lấy mạng của ta? Đừng nói nhiều, động thủ đi! Hoặc là giao Bạt Thác Ngạn cho ta xử trí, nếu không cứ bước luôn qua xác của bổn thiếu gia!”
Hắn hét lên một tiếng liền có hộ vệ phủ Thành Quốc công đáp lại, lập tức cũng vung gậy đánh tới thị vệ đang canh giữ quanh Bạt Thác Ngạn. Nhất thời chúng thị vệ sắc mặt đại biến, giơ thẳng trường thương trong tay, mắt thấy đã muốn ngươi sống ta chết.
Tuệ An thấy vậy gấp rút gạt ra đám đông chen lấn, nhìn vị võ tướng râu ria xồm xoàm kia sắp sửa đâm một kiếm vào vai Uông Dương Tùng, Tuệ An không kịp suy nghĩ, theo bản năng rút ra roi chín khúc đánh tới.
Roi thép giống như linh xà kéo lê một đường trên không trung quấy lấy kiếm sắc, va chạm nhau vang lên tiếng động đầy sắc nhọn, mũi kiếm lạnh băng bị roi chín khúc quấn chặt không buông, mơ hồ còn thấy tia sáng lóe lên.
Tuệ An thấy ra tay thành công, vội vàng dùng toàn lực kéo mạnh một cái. Võ tướng kia không kịp phòng bị, loạng choạng suýt thì ngã chổng vó xuống khỏi xe ngựa. Hắn không khỏi mắng to một câu:
“Mẹ kiếp! Người kinh thành đúng là con mẹ nó ti bỉ đê tiện! Là tên khốn nào đánh lén lão Triệu ta!”
Hắn chửi xong, quay đầu nhìn thấy Tuệ An lại sững người một lúc, sau đó là cười lên ha hả, một tay đỡ lấy quyền cước do Uông Dương Tùng đánh xuống, một mặt cười nói với Tuệ An:
“Ha ha, thì ra là Thẩm cô nương.”
Tuệ An thật không nhớ mình đã gặp qua người này lúc nào, thấy hắn dùng ánh mắt sáng rỡ nhìn chằm chằm vào mình, cũng không biết phải làm thế nào cho thỏa. Gấp rút gật đầu hành lễ, nói:
“Tiểu nữ gặp qua đại nhân.”
Nói xong cũng không chờ râu ria xồm xoàm phản ứng, liền quay qua Uông Dương Tùng nói:
“Nhị công tử có thể kiếm một chỗ cùng ta nói chuyện được không?”
Uông Dương Tùng thấy Tuệ An ra tay cứu mình, ngây ngốc một hồi, ngay cả khi râu ria xồm xoàm đỡ được đòn đánh của mình vẫn chưa tỉnh lại, chỉ cảm thấy như trời long đất lở, tưởng rằng mẫu thân có mệnh hệ gì.
Đợi Tuệ An mở miệng hắn mới bỗng nhiên giật mình, nhảy khỏi xe ngựa chạy đến trước mặt Tuệ An, bắt lấy cánh tay Tuệ An gắt gao nhìn chằm chằm nàng, hỏi:
“Chẳng lẽ mẫu thân của ta… Mẫu thân của ta…”
Tuệ An biết hắn hiểu lầm, vội nói:
“Xin Nhị công tử yên tâm, lệnh đường rất tốt. Bà nghe nói công tử muốn kháng chỉ cướp ngục, nên mới nhờ ta tới khuyên nhủ công tử đôi điều.”
Uông Dương Tùng nghe vậy thở phào một hơi, toàn thân cũng mất hết khí lực, vừa thả lỏng tay cũng là buông Tuệ An ra, trầm giọng nói:
“Chuyện này không liên quan đến Thẩm cô nương, cô đừng khuyên ta, cũng chưa chắc khuyên được ta! Hôm nay ta thề phải bắt tên lão tặc Bạt Thác Ngạn kia đền mạng!”
Tuệ An nghe vậy lại chỉ cười lạnh, nói:
“Ngài nghĩ ta tình nguyện mất công đến đây khuyên nhủ một người không có đầu óc, kẻ nhu nhược vô dụng chỉ biết vung tay đá chân ra vẻ ta đây nghĩa khí, gây họa khắp nơi như ngài sao? Chẳng trách ai ai cũng nói phủ Thành Quốc công hết rồi, quả nhiên không sai tí nào.”
“Cô nói cái gì! Cô nói ai nhu nhược vô dụng! Có giỏi thì cô thử nói lại những câu vừa rồi xem nào!”
Uông Dương Tùng nhất thời giận dữ, vẻ mặt tối sầm nhìn xoáy vào Tuệ An. Mà Tuệ An vẫn thản nhiên như thường, cười khúc khích nghiêng đầu nhìn hắn, nói:
“Không biết là ai vừa dập đầu bái tạ ở trước cửa phủ nhà ta? Giờ đã chỉ vào mũi ta một bộ muốn giết ta cho hả giận. Sao nào? Uông Nhị công tử bị ta nói trúng tim đen, thẹn quá hóa giận rồi à?
Đúng là khiến ta mở rộng tầm mắt đấy, ngài làm việc không biết chừng mực, ngang ngạnh cứng đầu, hữu dũng vô mưu đi lại khắp nơi gây họa cho gia đình, còn to tiếng nạt nộ chèn ép một nữ tử tay không tấc sắt như ta, không phải không có đầu óc, nhu nhược vô dụng thì là cái gì?”
“Thẩm Tuệ An, nể mặt cô có ơn với nhà ta ban nãy nên ta mới đứng đây nghe cô nói nhăng nói cuội thế này, cô đừng có được đằng chân lân đằng đầu, nhục nhã ta. Hôm nay coi như ta không nghe thấy gì, tốt nhất cô nên đi khỏi đây đi.”
Uông Dương Tùng vừa nói vừa bước tới gần Tuệ An hơn, đôi mắt chứa lửa như muốn bùng cháy.
Tuệ An nghe vậy lại cười một tiếng, nói:
“Nhị công tử, không chỉ là một mình ta nói ngài như thế. Mà toàn bộ dân chúng trong kinh thành này, hay ngay đến mẫu thân ngài, đại tẩu ngài, rồi bọn nô tài của phủ Quốc công cũng sẽ nói như vậy, đều cảm thấy ngài không bao giờ có thể bì được huynh trưởng ngài. Trong lòng ngài tất nhiên là không phục phải không, hoặc ngài cứ thử mở to mắt nhìn xem, xem những chuyện ngài làm sẽ gây ra hậu quả thế nào?”
Tuệ An nói xong, chỉ vào cục diện hỗn loạn bên cạnh, nói:
“Ta chỉ biết hiện giờ mẫu thân ngài còn đang thập tử nhất sinh trên giường bệnh, lại vẫn phải thời thời khắc khắc lo lắng cho ngài. Ta chỉ thấy ngài ngu ngốc đối đầu triều đình, gan to bằng trời mới dám công khai cướp đoạt trọng phạm, không coi luật pháp, thánh chỉ ra gì.
Ta chỉ thấy những vị tiểu thư của phủ Quốc công phải xuất đầu lộ diện ra ngoài, còn xô xô đẩy đẩy với thị vệ kinh thành. Lúc ngài làm mọi chuyện trở thành thế này, có nhớ đến mẫu thân ngài hay không, có vì những tỷ muội ruột thịt của ngài mà cân nhắc một hai? Ngài nói sau này các nàng phải sống tiếp thế nào?”
Tuệ An nói không hề lớn, thậm chí còn tận lực đè nén thanh âm. Vốn là không muốn để người khác nghe thấy, không ngờ chất giọng trầm thấp của nàng lại càng thêm phần khí khái như vậy, Uông Dương Tùng nghe vào trong tai liền chấn động đứng im tại chỗ.
“Ngài thật sự cho rằng dựa vào công đức mấy đời tổ tiên để lại, thì Hoàng thượng sẽ không thể giết ngài hay sao? Hay là ngài cảm thấy gặp chuyện phải vung lên nắm đấm mới xứng đáng với cái danh anh hùng hào kiệt?
Đúng là buồn cười! Ngài làm vậy chỉ khiến phủ Quốc công tàn lụi nhanh hơn, khiến mẫu thân ngài đau đớn từng khúc ruột, khiến những kẻ vẫn luôn xem thường gia môn nhà ngài cười ra nước mắt mà thôi.
Tốt lắm, giờ ngài thử một đao chém chết Bạt Thác Ngạn đi, rồi đến khi tin tức này truyền tới Đông Khương, kích thích bọn dư nghiệt Đông Khương khởi binh tạo phản. Rồi Hải Xương vương kia cũng sẽ danh chính ngôn thuận vì huynh trưởng báo thù, đăng cơ xưng đế, lại xua quân chống đối Đại Huy ta, để xem các tướng sĩ Đại Huy có thể nào tiếp tục hi sinh nơi sa trường, xương cốt không người chôn cất hay không.
Ngài làm như thế không phải khiến người thân đau khổ, kẻ thù phấn khích hay sao? Không phải không có đầu óc thì là cái gì?
Ngài nói chuyện ám sát lần này là do Bạt Thác Ngạn huy động người đến ư? Lão ta ngại mạng mình lớn quá à? Đây rõ ràng là âm mưu quỷ kế do Hải Xương vương sắp đặt, Thánh thượng anh minh đã lật tẩy được mưu mẹo nham hiểm của đối phương. Ngài thì tốt rồi, vội vội vàng vàng dâng mình lên cho kẻ thù lợi dụng. Nếu như hôm nay ngài động tới Bạt Thác Ngạn, đó mới gọi là làm cho vong linh Quốc công gia khó lòng siêu thoát đấy.
Phải chi ngài mà có một chút bản lĩnh của anh hùng hào kiệt thôi, thì nên xông pha chiến trường trực tiếp giao đấu với lũ người Đông Khương kia, để những người xem thường ngài, xem thường phủ Quốc công không thể không thu hồi lời nói của mình, bắt họ phải mở mắt to ra mà nhìn, chỉ dựa vào Uông Dương Tùng ngài cũng có thể oai phong lẫm liệt như Thành Quốc công năm đó, lấy lại vinh quang cho phủ Quốc công, cho tổ tiên bao đời Uông gia nhà ngài.
Bây giờ ngài tự tiện kích động nổi loạn, người một nhà cắn xé lẫn nhau, lại còn chống lại ý vua, thì là anh hùng hảo hán cái nỗi gì? Như ngài người ta gọi là bất trung, bất nghĩa, bất nhân, bất hiếu! Vì sao một nữ tử luôn quanh quẩn khuê phòng như ta còn biết, mà nói mãi ngài vẫn không hiểu đây. Không phải ngu ngốc thì chính là ngu ngốc đến cùng cực mà thôi!”
Tuệ An mắng không ngừng nghỉ, cả khuôn mặt đỏ bừng thở phì phò, thấy sắc mặt Uông Dương Tùng thay đổi mấy lần, hiển nhiên là cũng để tâm tới những câu nàng nói, lúc này Tuệ An mới hơi yên lòng một chút.
Quả nhiên, nàng vừa định nói thêm vài câu để lửa cháy mạnh hơn, Uông Dương Tùng đã lập tức lùi về phía sau một bước, khom lưng hành đại lễ với nàng, nói:
“Hôm nay may nhờ cô nương thức tỉnh, ơn nghĩa này suốt đời Uông Dương Tùng cũng không dám quên.”
Trong thanh âm của hắn còn ẩn chứa nghẹn ngào xúc động, Tuệ An nhất thời cả kinh, gấp rút nghiêng người tránh lễ, thấy hắn khom người, mơ hồ nhìn thấy trên mặt đất xuất hiện hai mảnh ẩm ướt, thầm than một tiếng, vội nói:
“Tiểu nữ không dám nhận lễ của Nhị công tử, tiểu nữ cáo từ.”
Nói xong vội vã xoay người rời khỏi.
Uông Dương Tùng dùng tay áo lau đi nước mắt trên mặt, đứng dậy hét lớn một tiếng:
“Nâng quan!”
Bên này Tuệ An rút khỏi đám đông, tổng quản phủ Thành Quốc công cũng đuổi tới, cung kính thi lễ với Tuệ An, nói:
“Đa tạ cô nương! Hôm nay nếu không có cô nương, chỉ sợ thiếu gia nhà chúng tôi…”
Nói xong cũng sụt sùi nước mắt, gấp rút gọi phu xe đến phân phó:
“Ngươi đưa cô nương trở về, nhớ đi đường cẩn thận.”
Tuệ An cười nói:
“Tổng quản nhanh đi đi.”
Vừa nói vừa xoay người lên xe ngựa.
Ai ngờ nàng mới đặt mình ngồi xuống, tức thì có một người cũng vén màn xe phi thân nhảy vào, dáng người cao lớn nhất thời che khuất toàn bộ ánh sáng bên ngoài. Tuệ An nheo mắt nhìn qua, ngẩng đầu thấy kỹ khuôn mặt người kia liền giật thót, “A” một tiếng nhảy lên, hét lớn:
“Tại sao lại là ngài! Ngài đừng có mà đến đây!”
Người nọ đương nhiên chính là Quan Nguyên Hạc. Hôm qua Tuệ An dùng thỏi bạc đánh lén y, nay thấy y lập tức nghĩ người này đến báo thù nàng. Phút chốc quên mất mình đang trong xe, vừa nhảy dựng lên nhất thời đập đầu vào trần xe, ‘cốp’ một tiếng, đau đến nỗi chảy cả nước mắt.
“Ngốc nghếch!”
Màn xe bị y phất tay buông xuống, trong buồng xe kín mít vang lên thanh âm trầm thấp hàm chứa ý cười của Quan Nguyên Hạc, sau đó tay y cũng tự nhiên mà rơi xuống đỉnh đầu Tuệ An, chạm đến mái tóc đen tuyền của nàng.
P/s: Lần trước có nói muốn kỉ niệm khi fb 1111 like nhưng vì vụ thi cử nên tui quên khuấy mất, giờ được 1234 like lại trồi lên kỉ niệm tí cho vui cửa vui nhà vậy, ha ha :) (tui vẫn chưa thi xong nhé !)
Anh chàng họ Uông sau này sẽ làm nên nghiệp lớn. Về chuyện này, thật ra không phải Tuệ An muốn nhúng tay vào làm gì, mang vạ vào thân, mà như tui đã spoil trước đó, Tuệ An muốn lợi dụng đám tang của Uông gia để tính toán vài điều, nên mới cắn rứt lương tâm không chịu được đưa tay giúp đỡ. Tuệ An tuyệt đối không phải thánh nữ, cũng không thích lấy ơn báo oán, trung thành với có thù tất trả.
Hạc ca đến trả thù ‘vụ ném đá sau lưng’ lần trước, chương sau hứa hẹn JQ bay tung tóe, đồng thời cũng tiết lộ sự có mặt của mỗ biểu ca trong kinh thành:
Nhà họ Thẩm có bốn người con trai, mỗi người một sở trường.
Con trai cả tên Thẩm Đại Đồng.
Con trai thứ hai tên Thẩm Đồng.
Người con thứ ba tên Thẩm Tiểu Đồng.
Vậy đố các nàng cậu con út tên gì?