Tuần sau đó
Phòng âm nhạc mới mở lại gần đây
Nhà Windstead, London.
“Năm nay là Mozart!” Daisy Smythe – Smith thông báo. Cô giữ cây đàn vi-ô-lông mới lên cao hăng hái đến nỗi lọn tóc vàng của cô gần như tuột ra khỏi búi tóc. “Nó không tuyệt đẹp sao? Nó là một Ruggieri [ tên một nhãn hiệu đàn vi-ô-lông nổi tiếng ]. Cha mua cho em vào sinh nhật mười sáu tuổi.”
“Đó là một nhạc cụ rất đẹp,” Honoria đồng ý, “nhưng chúng ta đã biểu diễn nhạc Mozart vào năm ngoái.”
“Chúng ta chơi nhạc Mozart mỗi năm,” Sarah nói lè nhè từ cây đàn pi-a-nô.
“Nhưng năm ngoái em đâu có biểu diễn,” Daisy nói. Cô bắn cho Sarah một tia nhìn cáu kỉnh. “Và đây mới là lần thứ hai chị tham gia vào nhóm tứ tấu, nên chị khó mà phàn nàn về những gì chị biểu diễn mỗi năm.”
“Chị nghĩ chị có thể giết em trước khi mùa vũ hội kết thúc,” Sarah nhận xét trong cùng tông giọng cô dùng khi cô nói, Tôi nghĩ mình sẽ dùng nước chanh thay vì trà.
Daisy thè lưỡi ra.
“Iris?” Honoria quay qua người em họ chơi Xen-lô.
“Em không quan tâm,” Iris buồn rầu nói.
Honoria thở dài. “Chúng ta không thể biểu diễn giống như năm ngoái.”
“Em không biết là tại sao không,” Sarah nói. “Em không thể hình dung có bất kì người nào nhận ra phần trình diễn của chúng ta.”
Iris sụm xuống.
“Nhưng nó sẽ được viết vào tờ chương trình,” Honoria chỉ ra.
“Chị thật sự nghĩ có ai đó giữ tờ chương trình của chúng ta từ năm này sang năm khác à?” Sarah hỏi.
“Mẹ em giữ,” Daisy nói.
“Mẹ chị cũng vậy,” Sarah trả lời, “nhưng thế đâu có nghĩa là bà sẽ lôi chúng ra và so sánh chúng với nhau đâu.”
“Mẹ em làm,” Daisy lại nói.
“Lạy chúa,” Iris rên rĩ.
“Đâu phải như thể ông Mozart viết có mỗi một bài,” Daisy nói sỗ sàng. “Chúng ta có rất nhiều tác phẩm để chọn. Em nghĩ chúng ta nên chơi bài Eine Kleine Nachtmusik. Đó là bài yêu thích nhất của em. Nó rất sôi động và vui nhộn.”
“Nó không có phần nhạc pi-a-nô,” Honoria nhắc cô.
“Em không phản đối,” Sarah nói nhanh. Từ phía sau đàn pi-a-nô.
“Nếu chị phải trình diễn, em cũng phải thế,” Iris gần như rít lên.
Sarah thật sự ngồi lại chỗ của mình. “Em không biết là chị có thể trông độc ác như vậy đấy, Iris.”
“Đó là bởi vì chị ấy không có lông mi,” Daisy nói.
Iris quay qua cô với vẻ hết sức bình tĩnh và nói, “Chị ghét em.”
“Không hay chút nào khi nói vậy, Daisy,” Honoria nói, quay qua con bé với vẻ mặt nghiêm khắc. Đúng là Iris cực kì nhợt nhạt, với mái tóc màu vàng nâu dường như làm cho lông mi và lông mày gần như không thấy được. Nhưng cô lúc nào cũng nghĩ rằng Iris rất đẹp, nhìn khá tao nhã.
“Nếu chị ấy không có lông mi, thì chị ấy đã chết rồi,” Sarah nói.
Honoria quay qua cô, không thể tin được chiều hướng của cuộc đối thoại này. Chà, không, điều đó không hoàn toàn chính xác. Cô có tin ( thật không may ). Cô chỉ không hiểu.
“Vâng, đúng mà,” Sarah nói phòng thủ. “Hay ít nhất, bị mù. Lông mi giúp mắt chúng ta tránh bụi.”
“Tại sao chúng ta có cuộc nói chuyện này?” Honoria hỏi lớn.
Daisy lập tức trả lời, “bởi vì Sarah nói chị ấy không nghĩ Iris có thể độc ác, và rồi em nói –“
“Chị biết,” Honoria cắt ngang, và rồi, khi cô nhận ra Daisy vẫn đang mở miệng, trông như thể con bé đang chờ thời điểm thích hợp để nói hết câu, cô lại nói. “Chị biết. Đó là một câu hỏi mang tính tự hỏi.”
“Đó vẫn là một câu trả lời thích hợp nhất mà,” Daisy trả lời với một tiếng hít.
Honoria quay qua Iris. Ở tuổi 21, họ bằng tuổi với nhau, nhưng Iris đã không tham gia vào nhóm tứ tấu cho đến năm nay. Chị cô Marigold đã chơi ở vị trí Xen-lô trong sự kìm kẹp cho đến khi chị ấy kết hôn vào mùa thu năm ngoái. “Em có bất kì gợi ý nào không, Iris?” Honoria phấn khởi hỏi.
Iris khoanh tay và gập người lại trong chỗ ngồi. Đối với Honoria, trông như thể Iris đang cố gắng bao phủ mình vào hư vô. “Thứ gì đó không có Xen-lô,” cô lầm bầm.
“Nếu em phải trình diễn, chị cũng phải thế,” Sarah nói với nụ cười điệu.
Iris nhìn chằm chằm vào cô với tất cả giận dữ của một nghệ sĩ bị hiểu lầm. “Em không hiểu đâu.”
“Ôi, tin em đi, em hiểu,” Sarah nói với một cảm giác tuyệt vời. “Em có biểu diễn vào năm ngoái, nếu chị nhớ lại. Em có cả một năm để hiểu.”
“Tại sao mọi người lại phàn nàn?” Daisy nôn nóng hỏi. “Điều này thật hào hứng! Chúng ta sẽ biểu diễn. Chị có biết em đã đợi ngày nào bao lâu rồi không?”
“Không may là, có.” Sarah nói thẳng thừng.
“Về việc chị đã sợ hãi nó bao lâu nay,” Iris lẩm bẩm.
“Rất đáng lưu ý rằng hai người là chị em.” Sarah nói.
“Chị ngạc nhiên vì điều đó mỗi ngày,” Iris nói thẳng.
“Nó nên là một bản hòa tấu pi-a-nô,” Honoria nói nhanh, trước khi Daisy phát hiện ra con bé bị xúc phạm. “Không may là, không có nhiều tác phẩm để lựa chọn.”
Không ai có ý kiến.
Honoria kiềm nén một tiếng rên rĩ. Rõ ràng là cô phải giành quyền kiểm soát, để họ tránh rơi vào tình trạng hỗn loạn âm nhạc. Mặc dù cô cho là tình trạng hỗn loạn âm nhạc có thể thực sự là một cải tiến so với tình trạng công việc bình thường của nhà Smythe – Smith.
Đó quả thật là một tuyên bố buồn bã.
“Bản hòa tấu pi-a-nô số 1 hay số 2 của Mozart,” cô thông báo, giơ lên hai tờ giấy phối nhạc. “Có ai có ý kiến gì không?”
“Bất kì cái nào chúng ta không diễn vào năm ngoái,” Sarah thở dài. Cô để đầu mình lên cây đàn pi-a-nô. Rồi sau đó cô thật sự đập đầu xuống bàn phím.
“Nghe hay đó,” Daisy ngạc nhiên nói.
“Nó nghe như tiếng cá ói mửa,” Sarah nói vào cây đàn.
“Một tưởng tượng hay ho làm sao,” Honoria nhận xét.
“Em không nghĩ cá bị ói mửa,” Daisy lưu ý, “và nếu chúng có ói, em không nghĩ chúng nghe như—“
“Chúng ta có thể là những chị em họ đầu tiên nổi loạn không?” Sarah cắt ngang, ngẩng đầu lên. “Liệu chúng ta có thể chỉ đơn giản nói không?”
“Không!” Daisy hét.
“Không,” Honoria đồng ý.
“Ừ?” Iris nói yếu ớt.
“Em không thể tin được chị lại muốn biểu diễn nữa,” Sarah nói với Honoria.
“Nó là truyền thống.”
“Nó là một truyền thống thảm hại, và nó làm em mất sáu tháng để hồi phục.”
“Chị sẽ không bao giờ hồi phục được,” Iris than khóc.
Daisy trông như thể con bé sẽ dậm chân. Con bé chắc chắn sẽ làm vậy nếu Honoria không ngăn lại bằng một ánh mắt sắc bén.
Honoria nghĩ đến Marcus, rồi cô bắt mình không được nghĩ đến anh. “Đó là truyền thống,” cô nói lần nữa, “và chúng ta may mắn thuộc về một gia đình quý trọng truyền thống.”
“Chị đang nói cái gì vậy?” Sarah nói, lắc đầu.
“Có nhiều người không được như chúng ta,” Honoria nói nhiệt tình.
Sarah nhìn cô một lúc lâu, rồi nói lại lần nữa. “Xin lỗi, nhưng chị đang nói gì vậy?”
Honoria nhìn tất cả bọn họ, nhận thức được rằng giọng cô cao vút lên theo với cảm xúc, nhưng cô hoàn toàn không thể điều chỉnh được nó. “Chị có thể không thích trình diễn ở buổi hòa nhạc, nhưng chị thích được diễn tập với ba em.”
Ba người em họ nhìn cô đăm đăm, hơi bối rối.
“Các em không nhận ra chúng ta may mắn thế nào sao?” Honoria nói, và rồi, khi không có ai nhảy vào đồng ý, cô nói thêm, “Vì có nhau?”
“Chúng ta không thể có nhau trong trò đánh bài được à?” Iris gợi ý.
“Chúng ta là nhà Smythe – Smith,” Honoria cười toe toét, “và đây là những gì chúng ta làm.” Và rồi, trước khi Sarah có thể lên tiếng phản đối, cô nói, “Em cũng vậy, bất kể họ của em. Mẹ em là một Smythe – Smith, và đó là những gì được tính.”
Sarah thở ra – to, dài, và mệt mỏi.
“Chúng ta sẽ cầm nhạc cụ lên và chơi nhạc Mozart,” Honoria thông báo. “Và chúng ta sẽ làm điều đó với nụ cười trên môi.”
“Em không biết chị đang nói cái gì nữa?” Daisy nói.
“Em sẽ chơi,” Sarah nói, “nhưng em không hứa về nụ cười đâu.” Cô nhìn vào cây đàn pi-a-nô và chớp mắt. “Và em sẽ không cầm nhạc cụ của em lên.”
Iris cười khúc khích, mắt cô sáng lên. “Chị có thể giúp em.”
“Cầm cây đàn lên sao?”
Nụ cười của Iris quỷ quái hơn. “Cửa sổ không xa lắm…”
“Chị biết là em yêu chị mà,” Sarah nói với nụ cười rộng mở.
Trong khi Sarah và Iris lên kế hoạch hủy diệt cây đàn mới toanh của quý bà Windstead, Honoria quay lại với bản nhạc, cố gắng quyết định xem nên chọn bản nào. “Chúng ta chơi hòa tấu pi-a-nô số 2 vào năm ngoái rồi,” cô nói, mặc dù chỉ có Daisy đang lắng nghe, “nhưng chị không chắc lắm về bản hòa tấu pi-a-nô số 1.”
“Tại sao?” Daisy hỏi.
“Nó khá nổi tiếng là hơi khó.”
“Tại sao vậy?”
“Chị không biết,” Honoria thừa nhận. “Chị chỉ nghe được vậy thôi, và thường xuyên đủ để chị phải cảnh giác.
“Có bản hòa tấu số 3 không?”
“Chị e là không.”
“Vậy em nghĩ chúng ta nên chọn số 1,” Daisy mạnh dạn nói. Không mạo hiểm thì không có thành công.”
“Ừ, nhưng một người thông minh nên hiểu được giới hạn của mình.”
“Ai nói vậy?” Daisy hỏi.
“Chị nói,” Honoria trả lời thiếu kiên nhẫn. Cô cầm lên tờ nhạc của bản hòa tấu số 1. “Chị không nghĩ chúng ta có thể học được bài này, thậm chí khi chúng ta có gấp ba lần thời gian luyện tập.”
“Chúng ta không cần phải học. Chúng ta đều có bản nhạc trước mặt.”
Điều này còn tồi tệ hơn nhiều so với những gì Honoria lo sợ.
“Em nghĩ chúng ta nên chơi số 1,” Daisy nói mạnh mẽ. “Thật mất mặt nếu chúng ta trình diễn cùng một tiết mục giống năm ngoái.”
Họ sẽ bị mất mặt bất kể họ chọn bài nào, nhưng Honoria không có ý để nói thẳng vào mặt con bé.
Mặt khác, bất kể tiết mục nào họ trình diễn, họ chắc chắn sẽ làm hỏng nó đến nỗi không còn nhận ra được nữa. Có thể nào một tiết mục khó được trình diễn dở ẹc có thể tồi tệ hơn nhiều so với một tiết mục ít khó hơn được trình diễn dở ẹc?
“Ồ, tại sao không?” Honoria ưng thuận. “Chúng ta sẽ chơi bài số 1.” Cô lắc đầu. Sarah sẽ điên tiết lên cho coi. Phần pi-a-nô đặc biệt khó.
Mặt khác, không phải như Sarah có đối hoài đến quá trình lựa chọn.
“Một lựa chọn thông minh,” Daisy nói với sự tin chắc. “Chúng ta sẽ chơi bài hòa nhạc số 1!” cô gọi lớn qua vai.
Honoria nhìn qua Sarah và Iris, đang hì hục đẩy cây đàn pi-a-nô được vài feet qua căn phòng.
“Các em đang làm gì vậy?” Honoria gần như rít lên.
“Ôi, đừng lo,” Sarah nói với một tiếng cười. “Chúng em không thật sự định đẩy cây đàn qua cửa sổ đâu.”
Iris đổ sập người lên thân đàn, toàn thân cô run rẩy vì cười.
“Không vui chút nào,” Honoria nói, mặc dù là nó vui thật. Cô không thích gì hơn được tham gia với các em họ vào trò ngốc này, nhưng ai đó phải chịu trách nhiệm, và nếu cô không làm, Daisy sẽ làm.
Chúa tôi.
“Chúng ta đã chọn bản hòa tấu pi-a-nô thứ 1 cuả Mozart,” Daisy nói lần nữa.
Iris hoàn toàn tái nhợt, theo ý cô thì gần như giống ma. “Em đang đùa.”
“Không,” Honoria trả lời, với tất cả thành thật một người có được. “Nếu như em có ý kiến, thì em nên tham gia vào cuộc thảo luận.”
“Nhưng chị có biết nó khó thế nào không?”
“Đó là lí do tại sao chúng ta chọn nó!” Daisy chỉ ra.
Iris nhìn em mình trong một lúc và rồi quay lại với Honoria, người mà cô đánh giá là hợp lí hơn trong hai người. “Honoria,” cô nói, “chúng ta không thể chơi bài hòa tấu số 1. Không thể nào. Chị có bao giờ nghe nó được trình diễn chưa?”
“Chỉ một lần,” Honoria thừa nhận, “nhưng chị không nhớ rõ lắm.”
“Không thể được,” Iris khóc ròng. “Nó không dành cho người nghiệp dư.”
Honoria không quá tốt bụng để cô có thể đồng cảm với nỗi thống khổ của các em họ dù chỉ một chút. Iris đã than vãn suốt cả buổi chiều.
“Nghe em này,” Iris lại nói. “Nếu chúng ta trình diễn bài này, chúng ta sẽ bị tàn sát.”
“Bởi ai?” Daisy hỏi.
Iris chỉ nhìn cô, hoàn toàn không thể phát ra một câu trả lời.
“Bởi âm nhạc,” Sarah đế vào.
“Ồ, vậy em đã quyết định tham gia nói chuyện rồi đấy à,” Honoria nói.
“Đừng có mỉa mai em,” Sarah cắt ngang.
“Hai em ở đâu khi chị cố gắng chọn bài khác?”
“Họ đang di chuyển cây đàn.”
“Daisy!” cả ba cùng hét lên.
“Em có nói gì à?”Daisy hỏi.
“Cố đừng có tầm thường như vậy,” Iris ngắt lời.
Daisy hừm và bắt đầu giở mấy tờ giấy nhạc ra.
“Chị đã cố giúp mọi người lên tinh thần,” Honoria nói, tay chống hông khi cô đối mặt với Sarah và Iris. “Chúng ta có một buổi hòa nhạc để luyện tập, và không thành vấn đề các em than phiền bao nhiêu, không có thứ gì thay đổi đâu. Vậy nên ngừng cố gắng làm đời chị khó khăn hơn và làm những gì được bảo đi.”
Sarah và Iris chỉ có thể nhìn chăm chăm.
“Ơ, làm ơn.” Honoria thêm vào.
“Có lẽ bây giờ là lúc nên tạm nghỉ,” Sarah gợi ý.
Honoria kêu lên. “Chúng ta thậm chí còn chưa bắt đầu.”
“Em biết. Nhưng chúng ta cần nghỉ giải lao.”
Honoria đứng im trong một lúc, cảm thấy cô xịu xuống. Chuyện này thật mệt mỏi. Và Sarah nói đúng. Họ cần nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi từ việc hoàn toàn không làm gì, nhưng vẫn là nghỉ ngơi.
“Bên cạnh đó,” Sarah nói, nhìn cô bằng ánh mắt ranh mãnh. “Em khát khô cả cổ.”
Honoria nhướng mày. “Những lời phàn nàn đó làm em khát nước à?”
“Chính xác,” Sarah quay lại với nụ cười. “Có nước chanh không, chị yêu quý.”
“Chị không biết,” Honoria nói qua tiếng thở dài, “nhưng chị cho là chị có thể hỏi thử.” Nước chanh nghe rất tuyệt. Và thành thật mà nói, không luyện tập nghe cũng hay. Cô đứng dậy rung chuông gọi người hầu, và gần như ngồi xuống lần nữa khi Poole, người quản gia lâu năm của nhà Windstead, xuất hiện ở cửa ra vào.
“Nhanh quá đấy,” Sarah nhận xét.
“Có người đến thăm cô, quý cô Honoria,” Poole ngâm nga.
Marcus?
Tim của Honoria đập dữ dội trong lồng ngực cho đến khi cô nhận ra khó có thể là Marcus. Anh vẫn đang nằm liệt giường ở Fensmore. Bác sĩ Winters đã khẳng định.
Poole bước đến với cái khay của ông và đưa nó lên trước để Honoria có thể lấy tấm danh thiếp.
BÁ TƯỚC CHATTERIS.
Chúa ơi, là Marcus. Anh đang làm cái quái gì ở London vậy? Honoria hoàn toàn quên mất nỗi xấu hổ hay cơn giận dữ hay bất kì thứ gì cô cảm thấy ( cô không thể quyết định được ) và tiến thẳng đến cơn thịnh nộ hoàn toàn. Sao anh dám mạo hiểm sức khỏe của mình? Cô không nhọc nhằn bên giường của anh, bất chấp cái nóng, máu, và cơn mê sảng chỉ để anh gục ngã ở London vì anh quá ngốc nghếch để ở nhà nơi anh thuộc về.
“Chấp nhận ngài ấy ngay,” cô ngắt lời, và cô có vẻ khá quyết liệt, vì cả ba cô em họ đều quay qua nhìn cô chằm chằm với biểu hiện bị sốc giống hệt nhau.
Cô cau mày nhìn cả ba. Daisy thật sự đã lùi lại một bước.
“Ngài ấy không nên ra ngoài và ở đây,” Honoria gầm gừ.
“Đức ngài Chatteris,” Sarah nói, với vẻ rất tự tin.
“Ở đây,” Honoria nói với họ. “Chị sẽ quay lại ngay.”
“Chúng em có cần luyện tập khi chị vắng mặt không?” Iris hỏi.
Honoria đảo mắt, từ chối phản ứng cho câu trả lời đó.
“Ngài ấy đang chờ trong phòng khách,” Poole thông báo cho cô.
Dĩ nhiên. Không một quản gia nào sẽ xúc phạm một bá tước bằng cách bắt anh ta để lại danh thiếp trên khay bạc và rời đi.
“Chị sẽ quay lại nhanh thôi,” Honoria nói với các em.
“Chị đã nói thế rồi,” Sarah nói.
“Đừng đi theo chị.”
“Chị cũng có nói vậy luôn,” Sarah nói. “Hay thứ gì đó tương tự.”
Honoria trừng mắt với Sarah lần cuối trước khi rời phòng. Cô không kể cho Sarah nhiều về khoảng thời gian ở Fensmore, chỉ kể rằng Marcus bị bệnh, cô và mẹ cô đã đến giúp đỡ anh hồi phục. Nhưng Sarah hiểu cô hơn bất kì ai; con bé sẽ tò mò. Đặc biệt là khi Honoria đã gần như mất bình tĩnh khi nhìn thấy danh thiếp của Marcus.
Honoria bước đều qua ngôi nhà, cơn giận ngày càng tăng theo mỗi bước đi. Anh đang nghĩ cái quái gì vậy? Bác sĩ Winters không thể nói rõ hơn được nữa. Marcus phải ở trên giường trong một tuần và sau đó ở nhà thêm một tuần nữa, có lẽ là hai. Không có lí nào anh lại ở London vào lúc này.
“Anh đang làm cái quái—“ Cô lao ầm ầm vào phòng khách và dừng lại khi thấy anh đang đứng bên lò sưởi, hoàn toàn khỏe mạnh. “Marcus?”
Anh mỉm cười, và tim cô – khốn khổ thay, đồ phản bội – bị tan chảy. “Honoria,” anh nói. “Anh cũng rất vui được gặp em.”
“Anh trông…” Cô chớp mắt, vẫn không thể tin vào mắt mình. Sắc mặt của anh rất tốt, mắt anh không còn bị trũng xuống, và dường như anh đã lấy lại được cân nặng, “…khỏe.” cuối cùng cô nói hết, không thể ngăn được sự ngạc nhiên trong giọng nói.
“Bác sĩ Winters tuyên bố anh có thể đi xa,” anh giải thích. Anh ta nói anh ta chưa bao giờ thấy ai phục hồi từ cơn sốt với tốc độ như vậy.”
“Ắt hẳn là vì cái bánh nướng hoa quả.”
Mắt anh trở nên ấm áp. “Đúng vậy.”
“Anh đến thành phố làm gì?” cô hỏi. Cô muốn thêm vào, “Kể từ khi gần đây anh đã được giải thoát khỏi trách nhiệm để chắc chắn em không kết hôn với một tên ngốc.”
Có lẽ, cô chỉ cảm thấy một chút cay đắng.
Nhưng không giận dữ. Không có việc gì, và thật sự không có lí do để nổi giận với anh. Anh chỉ làm những gì Daniel yêu cầu anh làm. Và không phải như thể anh đã cản trở bất kì mối tình lãng mạn nào. Honoria không say mê người cầu hôn nào của cô, và sự thật là, nếu có bất cứ ai trong số họ cầu hôn, cô chắc chắn sẽ từ chối.
Nhưng thật xấu hổ. Tại sao không có ai nói với cô rằng Marcus can thiệp vào công việc của cô? Cô có thể đã làm rùm beng lên – ôi, thôi được, cô chắc đã làm rùm beng lên, nhưng không lớn lắm. Và nếu cô biết, cô sẽ không hiểu lầm hành động của anh ở Fensmore. Cô sẽ không nghĩ rằng anh có lẽ có yêu cô một chút.
Và cô sẽ không cho phép bản thân mình yêu anh.
Nhưng nếu có một điều mà cô chắc chắn, đó là cô sẽ không cho biết có gì đó khác thường. Theo như anh nghĩ, cô vẫn chưa biết gì về âm mưu của anh.
Vậy nên, cô nở nụ cười đẹp nhất trên mặt của mình và khá chắc chắn trông cô vô cùng quan tâm đến mọi thứ anh nói khi anh trả lời, “Anh không muốn bỏ lỡ buổi nhạc hội.”
“Ồ, bây giờ em biết anh đang nói dối.”
“Không, thật đấy,” anh khăng khăng. “Biết về cảm xúc thật của em mang lại một chiều hướng mới cho các nỗ lực.”
Cô đảo mắt. “Làm ơn, không thành vấn đề anh nghĩ anh cười với em nhiều như thế nào, và không phải em, anh không thể thoát khỏi các tạp âm đâu.”
“Anh đang cân nhắc một đôi bông nhét tai kín đáo.”
“Nếu mẹ em bắt được anh làm vậy, bà sẽ bị tổn thương nghiêm trọng. Và bà là người đã cứu anh từ một vết thương chết người.”
Anh nhìn cô với vẻ kinh ngạc. “Bà vẫn đang nghĩ em là một thiên tài à?”
“Mỗi người trong chúng em,” cô xác nhận. “Em nghĩ bà có hơi buồn khi em là người cuối cùng trong các con gái của bà trình diễn. Nhưng em cho rằng kiến thức sẽ được truyền lại cho thế hệ mới. Em có các cháu gái đang luyện tập những ngón tay nhỏ xíu của chúng trên những cây đàn vi-ô-lông nhỏ bé.”
“Thật sao? Những cây đàn nhỏ bé à?”
“Không. Chỉ là nghe thật hay khi miêu tả chúng theo cách đó.”
Anh cười khúc khích, rồi sau đó rơi vào im lặng. Cả hai đều im lặng, chỉ đứng đó trong phòng khách, trái với sự vụng về thường ngày và, ừm, im lặng.
Thật lạ. Không giống họ chút nào.
“Em có muốn đi dạo không?” Đột nhiên anh nói. “Thời tiết đẹp lắm.”
“Không,” cô nói, hơi cộc cằn hơi cô muốn. “Cảm ơn.”
Một tia thâm trầm lướt qua mắt anh rồi nhanh chóng biến mất đến nỗi cô nghĩ có thể chỉ là do cô tưởng tượng ra. “Tốt thôi,” anh nói cứng ngắc.
“Em không thể,” cô thêm vào, bởi vì thật sự cô không muốn làm tổn thương anh. Hay có lẽ cô đã làm vậy, và giờ cô cảm thấy có lỗi. “Các em họ của em đều ở đây. Chúng em đang luyện tập.”
Một tia nhìn cảnh giác mờ nhạt lướt qua mặt anh.
“Anh chắc chắn sẽ muốn tìm vài loại công việc làm anh đi khỏi Mayfair hoàn toàn,” cô bảo anh. “Daisy vẫn chưa xoay xở được với những đoạn nhạc nhẹ.” Với cái nhìn trống rỗng của anh, cô nói thêm. “Con bé lớn tiếng lắm.”
“Những người còn lại trong bọn em thì không lớn tiếng à?”
“Phải, nhưng không, không giống vậy.”
“Vậy nên em đang bảo anh rằng khi anh tham gia buổi nhạc hội, anh nên cố gắng đảm bảo một chỗ ngồi ở phía sau?”
“Ở phòng kế bên, nếu anh có thể xoay xở được.”
“Thật sao?” Anh trông đặc biệt – không, khiến cho nó khôi hài – hi vọng. “Sẽ có chỗ ngồi trong phòng kế bên sao?”
“Không,” cô trả lời, đảo mắt một lần nữa. “Nhưng em nghĩ những hàng ghế sau sẽ cứu anh. Không phải khỏi Daisy.”
Anh thở dài.
“Anh nên xem xét điều này trước khi anh vội vã bình phục.”
“Vì vậy, anh đến để tìm hiểu.”
“Ừm,” cô nói, cố nghe như thể cô là một quý cô bận rộn có nhiều cuộc hẹn và một vài chuyện cần làm, người cũng có vẻ ít nhất không trói buộc anh. “Em thực sự phải đi.”
“Dĩ nhiên rồi,” anh nói, gật đầu lịch sự để chào cô.
“Tạm biệt.” Nhưng cô hoàn toàn không di chuyển.
“Tạm biệt.”
“Rất vui vì được gặp anh.”
“Và em,” anh nói. “Cho anh gởi lời hỏi thăm đến mẹ em.”
“Tất nhiên. Bà sẽ rất vui mừng khi biết anh khỏe lại.”
Anh gật đầu. Và đứng đó. Cuối cùng anh nói, “ừm, vậy.”
“Vâng,” cô nói vội vàng. “Em phải đi. Tạm biệt,” cô nói lần nữa. Lần này cô rời khỏi phòng. Và cô thậm chí còn không nhìn lại.
Đó là một sự tiến bộ hơn bất cứ thứ gì cô từng mơ đến.