Khi Honoria về đến Bricstan, cô ướt sũng cả người. Cơn mưa bắt đầu rơi sau khi cô bỏ Marcus lại chỗ cái cây đổ được năm phút. Lúc đầu chỉ là mưa nhỏ thôi – có một vài giọt mưa ở chỗ này chỗ kia. Đủ để bực mình, nhưng không đủ để gây tổn hại.
Nhưng ngay khi cô đi hết con đường mòn thì cơn mưa bắt đầu mạnh dữ dội. Cô chạy qua bãi cỏ nhanh như cô có thể, nhưng cũng chẳng có gì khác biệt. Mười giây trong cơn mưa như trút và cô ướt như chuột lột.
Cô thậm chí còn không dám nghĩ đến Marcus, bị bỏ lại trong rừng ít nhất cũng một giờ rồi. Cô cố gắng nhớ lại nơi mà cô bỏ anh ở đó. Liệu mấy cái cây có che mưa cho anh không? Giờ vẫn là mùa xuân, và những cành cây thì chưa mọc lá sum suê.
Lúc đầu cô thử vào Brisctan bằng cửa hông, nhưng nó bị khóa nên cô phải men theo tòa dinh thự để đi đến đằng trước. Cánh cửa mở ra trước khi cô có thể gõ cửa, và cô ngã nhào vào trong.
“Honoria!” Sarah thét lên, chạy nhào tới trước để đỡ cô. “Em nhìn thấy chị qua cửa sổ. Chị đã ở đâu vậy? Em phát điên lên được. Chúng em gần như đã cho người đi tìm chị. Chị nói chị ra ngoài để hái hoa, nhưng rồi chị không quay về.”
Honoria cố gắng chen vào giữa những câu nói của Sarah, nhưng cô chỉ xoay xở đủ để hít thở và nói, “Dừng lại.” Cô nhìn xuống, những vũng nước nằm dưới chân cô. Một dòng nước nhỏ đang chảy từ từ tới chỗ bức tường.
“Chúng ta cần lau khô người chị,” Sarah nói. Cô nắm tay Honoria. “Chị đang lạnh cóng đây này.”
“Sarah, dừng lại.” Honoria giật tay ra khỏi tay Sarah rồi cô túm lấy vai của cô em họ. “Làm ơn. Chị cần giấy. Chị phải viết thư.”
Sarah nhìn cô như thể cô bị điên.
“Ngay bây giờ, chị phải—“
“Quý cô Honoria!” bà Royle vội vã bước vào hành lang. “Con làm tất cả chúng ta lo quá! Con đã ở cái chỗ quỷ quái nào vậy?”
“Con chỉ đi kiếm vài bông hoa thôi ạ,” Honoria nói dối, “nhưng làm ơn, con cần phải viết thư.”
Bà Royle sờ trán cô. “Con không có triệu chứng bị sốt.”
“Chị ấy đang run lẩy bẩy kìa,” Sarah nói. Cô nhìn bà Royle. “Chị ấy ắt hẳn đã bị lạc. Trông chị ấy khiếp sợ kìa.”
“Vâng, vâng,” Honoria nói, sẵn sàng đồng ý với bất kì lời sỉ nhục nào nếu điều đó đồng nghĩa với việc kết thúc cuộc nói chuyện này. “Nhưng làm ơn, chỉ cần nghe chị nói một lát thôi. Chị phải làm cho lẹ. Đức ngài Chatteris bị bỏ lại ở trong rừng, và chị nói với ngài ấy chị sẽ--“
“Cái gì?” bà Royle rít lên. “Con đang nói cái gì vậy?”
Một cách ngắn gọn, cô kể lại câu chuyện mà cô đã bịa ra trên đường về nhà. Cô đã đi lang thang ra khỏi mọi người và bị lạc đường. Đức ngài Chatteris đang đi dạo trong rừng. Anh đã nói với cô rằng đó là con đường qua lại giữa hai điền sản. Rồi anh bị trật cổ chân.
Điều đó hầu như là sự thật.
“Chúng ta sẽ mang ngài ấy về đây,” bà Royle nói. “Ta sẽ cho người đi ngay bây giờ.”
“Không,” Honoria nói, vẫn còn bị hụt hơi. “Ngài ấy muốn về nhà. Ngài ấy bảo con gởi thư cho người giữ ngựa của mình. Ngài ấy bảo con chính xác những gì cần nói.”
“Không,” bà Royle nói cứng rắn. “Ta nghĩ ngài ấy nên đến đây.”
“Bà Royle, làm ơn. Mỗi giây chúng ta đang tranh cãi, thì ngài ấy bị bỏ lại trong cơn mưa ngoài kia.”
Bà Royle rõ ràng đang đấu tranh tư tưởng, nhưng cuối cùng bà gật đầu rồi nói, “theo ta.” Có một cái bàn viết trong hốc tường ở cuối hành lang. Bà lấy ra giấy, bút, mực rồi bước qua một bên để Honoria có thể ngồi xuống. Nhưng những ngón tay của Honoria tê cóng; cô gần như không thể cầm được cây bút. Và tóc cô chắc chắn sẽ làm ướt tờ giấy.
Sarah bước tới. “Chị có muốn em làm giúp chị không?”
Honoria gật đầu biết ơn và nói chính xác những gì cần viết cho Sarah, trong khi cô hoàn toàn phớt lờ bà Royle đang lảng vảng đằng sau cô và thường xen ngang vào những lời bình luận mà bà nghĩ là có ích.
Sarah viết xong lá thư, kí tên là Honoria, và rồi, với cái gật đầu của Honoria, cô trao lá thư cho bà Royle.
“Làm ơn kêu người cưỡi ngựa nhanh nhất gởi lá thư này đi,” Honora cầu xin.
Bà Royle cầm lá thư và vội vàng đi mất. Sarah ngay lập tức đứng dậy và đỡ lấy chị họ của mình. “Chị cần được sưởi ấm,” cô nói bằng giọng không thể tranh cãi được. “Chị phải đi với em ngay bây giờ. Em đã kêu một cô hầu đun nước tắm rồi.”
Honoria gật đầu. Cô đã làm những gì cần làm. Bây giờ thì cô sắp quỵ xuống đến nơi.
Buổi sáng bình minh ngày hôm sau trong xanh đến tức cười. Honoria đã ngủ thẳng giấc suốt mười hai giờ, cuộn mình dưới chăn, với một cục đá chườm nóng ở chân cô. Sarah đã lẻn vào phòng cô vào lúc nào đó để nói với cô họ đã nhận được thư từ Fensmore; Marcus đã về nhà an toàn và chắc chắn đang ở trên giường, với đá chườm nóng ở chân anh.
Nhưng khi Honoria mặc đồ vào, cô vẫn thấy lo lắng. Cô hoàn toàn bị lạnh cóng khi cô về đến Brisctan và anh thì ở ngoài mưa lâu hơn cô. Trời cũng có gió nữa; cô đã nghe những cái cây kêu xào xạc và cọt kẹt qua cửa sổ khi cô đang tắm. Marcus không nghi ngờ gì sẽ bị cảm lạnh. Và nếu như cổ chân anh không bị trật mà bị gãy thì sao? Họ có mời bác sĩ phẫu thuật đến để chữa cho anh chưa? Họ có biết phải làm gì không?
Mà tiện thể, ‘họ’ là ai vậy? Theo như cô biết thì Marcus không có người thân. Ai sẽ chăm sóc anh nếu anh bệnh? Có bất kì ai khác ở Fensmore ngoài các người hầu không?
Cô sẽ phải kiểm tra sức khỏe của anh. Nếu không thì cô sẽ không thể nào sống được với chính mình.
Sau bữa ăn sáng, những vị khách khác đã ngạc nhiên khi thấy cô. Những quý ông đã quay về Cambrigde, nhưng những quý cô thì vẫn lượn lờ quanh bàn, ăn trứng bác và bánh mì nướng.
“Honoria!” Sarah thét. “Chị ra khỏi giường làm cái quái gì vậy?”
“Chị hoàn toàn khỏe mạnh,” Honoria đoan chắc với cô. “Chị thậm chí không bị sổ mũi.”
“Đêm qua mấy ngón tay của chị ấy lạnh như băng,” Sarah nói với Cecily và Iris. “Thậm chí chị ấy còn không thể cầm nổi cây bút.”
“Không có gì mà một bồn tắm nóng và một đêm ngủ ngon không thể chữa được,” Honoria nói. “Nhưng sáng nay chị muốn đến thăm Fensmore. Là lỗi của chị khi đức ngài Chattteris bị trật cổ chân, và chị cảm thấy chị cần phải đến thăm ngài ấy.”
“Làm sao mà nó là lỗi của chị?” Iris hỏi.
Honoria gần như cắn môi mình. Cô đã quên mất đó là một trong những yếu tố bị quên mất trong câu chuyện của cô. “Thật ra thì không có gì,” cô ứng biến. “Chị vấp phải một cái rễ cây và ngài ấy bước tới để đỡ chị. Ngài ấy ắt hẳn đã vấp vào một cái hang chuột chũi.”
“Ồ, em ghét mấy cái hang,” Iris nói.
“Chị thấy nó thật ngọt ngào,” Cecily thêm vào.
“Em phải tìm mẹ của chị.” Honoria nói, “Em cần phải chuẩn bị một cỗ xe ngựa. Hoặc em nghĩ em có thể cưỡi ngựa. Trời không còn mưa nữa rồi.”
“Chị cần ăn sáng trước đã,” Sarah nói.
“Bà ấy sẽ không bao giờ để em đi một mình đâu,” Cecily trả lời. “Fensmore là nhà của đàn ông độc thân.”
“Ngài ấy khó mà ở một mình,” Iris nói. “Ngài ấy chắc là có rất nhiều người hầu.”
“Ít nhất là một trăm, chị nghĩ vậy,” Cecily nói. “Em đã thấy ngôi nhà bao giờ chưa? Nó to khổng lồ. Nhưng đó không phải là vấn đề.” Cô quay sang Honoria. “Ngài ấy vẫn sống một mình. Không có ai làm người đi kèm thích hợp.”
“Em sẽ mang ai đó đi với em,” Honoria sốt ruột nói. “Em thật sự không quan tâm. Em chỉ muốn đi thôi.”
“Mang ai đó đi với con tới chỗ nào?” bà Royle hỏi, bước vào phòng ăn sáng.
Honoria lập lại yêu cầu của cô với bà Royle, bà ngày lập tức đồng ý. “Tất nhiên, chúng ta phải biết sức khỏe của bá tước ra sao. Thật không đúng mực nếu chúng ta không làm vậy.”
Honoria chớp mắt. Cô không mong đợi mọi chuyện lại dễ dàng như vậy.
“Ta sẽ đi với con,” bà Royle nói.
“Mẹ,” Cecily nói, “nếu mẹ đi, thì con cũng đi.”
Bà Royle ngừng lại để xem xét, nhưng trước khi bà có thể trả lời, Sarah nói, “Nếu Cecily đi, con cũng đi.”
“Tại sao?” Cecily hỏi.
“Em cũng phải công bằng,” Iris nói tỉnh khô,” rằng dù dưới bất kì tình huống nào thì em cũng sẽ đi.”
“Con không quan tâm ai sẽ đi với con,” Honoria nói, cố gắng không cáu gắt như cô tưởng. “Con chỉ muốn lên đường càng nhanh càng tốt.”
“Cecily sẽ đi với con,” bà Royle nói. “Ta sẽ ở đây với Sarah và Iris.”
Sarah hiển nhiên bị mất lượt trong chuyện này, nhưng cô không tranh cãi. Cecily, mặt khác, nhảy dựng lên với nụ cười tươi rói trên mặt.
“Cecily, lên lầu và bảo Peggy làm tóc lại cho con,” bà Royle nói. “Chúng ta không thể--“
“Làm ơn,” Honoria cắt ngang. “Con thực sự muốn rời đi ngay lập tức.”
Bà Royle trông mâu thuẫn, nhưng ngay cả bà cũng không thể tự tranh cãi với mình rằng đầu tóc của con gái bà lại quan trọng hơn sức khỏe của bá tước Chatteris. “Tốt thôi,” bà nhanh nhẹn nói. “Hai đứa con đi đi. Nhưng ta nói rõ thế này. Nếu ngài ấy bị bệnh nặng, các con phải một mực đòi chuyển ngài ấy đến đây để chăm sóc.”
Honoria hoàn toàn chắc rằng chuyện đó không xảy ra đâu, nhưng cô không nói gì khi cô sải chân đến cửa trước, Cecily và bà Royle ngay sát gót cô.
“Và hãy chắc rằng các con cho ngài ấy biết chúng ta không có kế hoạch quay lại Cambrigde trong vài tuần nữa,” bà Royle tiếp tục.
“Chúng ta không quay lại sao?” Cecily nói.
“Không, và khi con hoàn thành hết bổn phận của mình, con có thể đến đó mỗi ngày để chăm sóc ngài ấy.” Bà Royle nói. “Ờ thì, nếu đó là những gì đức ngài Chatteris muốn.”
“Dĩ nhiên rồi, thưa mẹ,” Cecily nói, nhưng trông cô có vẻ bối rối.
“Và cho ta gởi lời hỏi thăm đến ngài ấy,” bà Royle tiếp tục.
Honoria nhanh chóng bước xuống để chờ cỗ xe ngựa đang được đưa đến.
“Và nói với ngài ấy quý ngài Royle và ta mong ngài ấy mau chóng bình phục.”
“Ngài ấy có thể không bị bệnh mà Mẹ,” Cecily nói.
Bà Royle quắc mắt với cô. “Nhưng nếu ngài ấy…”
“Con sẽ gởi đến ngài ấy lời chúc của mẹ,” Cecily kết thúc dùm bà.
“Xe ngựa đến rồi,” Honoria nói, gần như tuyệt vọng muốn bỏ đi.
“Nhớ đấy!” bà Royle gọi to khi Honoria và Cecily đang được người hầu đỡ lên. “Nếu ngài ấy bị bệnh, mang ngài ấy—“
Nhưng cỗ xe đã lăn bánh đi mất.
Marcus vẫn còn đang ngủ khi người quản gia nhẹ nhàng vào phòng và cho anh biết quý cô Honoria Smythe – Smith và quý cô Royle đã đến và đang đợi trong phòng khách vàng.
“Tôi có nên nói cho họ biết rằng ngài không thể tiếp khách không?” người quản gia hỏi dò.
Trong một giây lát Marcus bị cám dỗ để nói có. Anh thấy thật kinh khủng, và anh chắc chắn trông anh rất tệ hại. Cái lúc Jimmy tìm thấy anh vào buổi chiều hôm trước, anh đang run rẩy dữ dội đến nổi anh thấy ngạc nhiên là anh không bị rụng hết răng ra. Rồi khi anh về nhà họ đã phải cắt đôi bốt của anh. Cái đó đã đủ tệ rồi – anh hơi bị thích đôi bốt đó – nhưng người hầu của anh có hơi mạnh tay một chút, và giờ chân trái của Marcus được điểm trang thêm một vết sẹo sâu và dài 10cm.
Nhưng nếu hoàn cảnh của họ có bị đảo ngược lại, anh cũng sẽ khăng khăng được biết tình hình sức khỏe của Honoria bằng chính mắt mình, vì vậy có vẻ như anh sẽ phải để cô làm điều tương tự. Với cô gái còn lại – quý cô Royle, anh nghĩ người quản gia đã nói vậy – anh chỉ hi vọng cô ấy không phải là một người quá nhạy cảm.
Bởi vì lần cuối anh soi gương, anh có thể thề là da anh có màu xanh lá cây.
Với sự giúp đỡ của người hầu – giúp anh mặc quần áo và xuống lầu đến phòng khách – Marcus nghĩ anh trông khá chỉnh tề khi chào hỏi hai quý cô.
“Chúa ơi, Marcus,” Honoria thốt lên khi cô đứng dậy. “Anh trông như người chết rồi ấy.”
Có vẻ như anh đã sai. “Anh cũng rất vui khi gặp em, Honoria.” Anh ra dấu về ghế sô pha gần đó. “Em không phiền nếu anh ngồi xuống chứ?”
“Không, làm ơn, anh ngồi đi. Mắt anh trũng xuống nhiều quá.” Cô nhăn mặt khi nhìn anh cố gắng tự di chuyển tới gần cái bàn. “Em giúp anh nhé?”
“Không, không, anh hoàn toàn ổn.” Anh nhảy lò cò hai lần để đến cạnh cái nệm và rồi anh hầu như đã ngã phịch xuống sô pha. Tước vị, có vẻ như, không có chỗ trong phòng bệnh.
“Quý cô Royle,” anh nói, gật đầu với quý cô kia. Anh đã gặp cô một hay hai lần suốt những năm qua, anh khá chắc như vậy.
“Đức ngài Chatteris,” cô nói lịch sự. “Cha mẹ tôi gởi lời hỏi thăm và chúc ngài mau chóng bình phục.”
“Cảm ơn,” anh nói, gật đầu yếu ớt với cô. Đột nhiên anh thấy quá sức mệt mỏi. Chuyến đi từ giường ngủ xuống lầu ắt hẳn đã khó khăn hơn anh tưởng. Đêm qua anh cũng ngủ không ngon giấc. Ngay giây phút đầu anh đặt xuống gối thì anh bắt đầu ho dữ dội và không hề có dấu hiệu dừng lại.
“Xin thứ lỗi,” anh nói với hai quý cô khi anh đặt tấm nệm lên cái bàn trước mặt, rồi đặt chân anh lên đó. “Ý anh muốn nói là anh định gác chân lên.”
“Marcus,” Honoria nói, ngay lập tức thôi giả vờ nói năng lịch sự, “anh không nên rời khỏi giường.”
“Anh đang ở đó đấy chứ,” anh nói tỉnh khô, “cho đến khi anh được báo là anh có khách.”
Câu nói đó làm anh nhận được một cái nhìn trách mắng khiến anh liên tưởng đến cô Pimm, người bảo mẫu của anh từ-mấy-đời-trước. “Anh nên nói với quản gia rằng anh không thể tiếp khách,” cô nói.
“Thật sao?” anh lẩm bẩm. “Anh chắc chắn em sẽ chấp nhận điều đó, ngoan ngoãn về nhà và yên tâm về sức khỏe của anh.” Anh nhìn qua quý cô còn lại và nghiêng đầu với cô một cách châm biếm. “Cô nghĩ gì nào, cô Royle? Liệu quý cô Honoria có rời đi trong im lặng hay không?”
“Không, đức ngài của tôi,” quý cô Royle nói, môi cô giật giật đầy thích thú. “Cô ấy khá cứng rắn muốn tự mình gặp ngài.”
“Cecily!” Honoria phẫn nộ. Marcus lờ cô đi.
“Là vậy đấy, phải không, cô Royle?” anh nói, thậm chí còn hùa theo cô. “Tim tôi ấm áp vì sự quan tâm của cô ấy.”
“Marcus,” Honoria nói, “dừng lại ngay lập tức.”
“Cô ấy có hơi dai dẳng một chút,” anh nói.
“Marcus Holroyd,” Honoria nghiêm nghị nói, “nếu anh không ngừng trêu chọc em ngay bây giờ, em sẽ cho bà Royle biết rằng thật sự anh muốn được chuyển đến Bristan suốt khoảng thời gian bình phục còn lại.”
Marcus cứng người, cố gắng nín cười. Anh nhìn quý cô Royle, người cũng đang cố nhịn cười. Hai người họ đều thua trong trận này rồi.
“Bà Royle rất háo hức được thể hiện kĩ năng chăm sóc của bà ấy,” Honoria thêm vào với nụ cười cực kì bình thản.
“Em thắng rồi, Honoria,” Marcus nói, ngồi lại xuống ghế sô pha có lót nệm. Nhưng tràng cười của anh làm anh ho một trận, mất gần cả phút anh mới trấn tĩnh lại được.
“Đêm qua anh dầm mưa trong bao lâu?” Honoria gặng hỏi, cô đứng dậy và sờ trán anh, làm mắt quý cô Royle mở to vì sự thân mật đó.
“Anh có bị sốt không?” anh lẩm bẩm.
“Em không nghĩ vậy.” Nhưng cô càu mày khi cô nói. “Anh có hơi nóng một chút. Có lẽ em nên lấy cho anh một cái chăn.”
Marcus định nói với cô là không cần thiết, nhưng thực ra anh thấy cái chăn nghe có vẻ rất tuyệt. Và anh thấy dễ chịu một cách kì lạ vì cô đã gợi ý điều đó. Nên anh gật đầu.
“Tôi sẽ lấy nó,” quý cô Royle nói, đứng nhanh dậy. “Tôi thấy một cô hầu trong hành lang.”
Khi cô rời đi, Honoria ngồi xuống, nhìn anh qua khóe mắt. “Em thật sự xin lỗi,” cô nói khi họ đã một mình với nhau. “Em thấy thật kinh khủng với những gì đã xảy ra với anh.”
Anh xua đi lời xin lỗi của cô. “Anh sẽ khỏe lại thôi mà.”
“Anh không nói với em anh dầm mưa bao lâu,” cô nhắc anh.
“Một tiếng đồng hồ chăng?” Anh đoán. “Có lẽ là hai.”
Cô thở ra khó nhọc. “Em rất xin lỗi.”
Anh nhẹ mỉm cười. “Em đã nói thế rồi.”
“Chà, em có nói.”
Anh cố cười với cô lần nữa, bởi vì thật sự đây là một cuộc nói chuyện lố bịch, nhưng thình lình anh bị một cơn ho khác tấn công.
Cô cau mặt lo lắng. “Có lẽ anh nên đến Bristan.”
Anh nói không nên lời, thay vào đó anh xiên cô bằng một cái nhìn trừng trừng giận dữ.
“Em lo cho anh khi anh ở đây một mình.”
“Honoria,” anh xoay xở nói sau khi ho hai lần nữa, “em sẽ sớm trở về London. Anh chắc chắn bà Royle là người hàng xóm tử tế nhất, nhưng anh thích được chăm sóc chữa trị ở chính căn nhà của mình hơn.”
“Vâng,” Honoria trả lời, lắc lắc đầu, “không kể đến việc bà ấy chắc chắn sẽ làm anh kết hôn với Cecily trước khi tháng này kết thúc.”
“Có ai mới nói tên tôi à?” Cecily hỏi háo hức, quay lại phòng với cái chăn màu xanh đen.
Marcus ho thêm một trận nữa, lần này có hơi giả đò.
“Của ngài đây,” Cecily nói. Cô bước đến với cái chăn, rồi có vẻ như cô không biết phải làm gì với nó. “Có lẽ em nên giúp ngài ấy,” cô nói với Honoria.
Honoria lấy cái chăn từ Cecily, cô trải nó ra khi cô đến gần anh. “Của anh đây,” cô nói nhẹ nhàng, cúi người để căng lớp len mềm mại chung quanh anh. Cô cười dịu dàng khi cô nhét góc chăn vào. “Có chật quá không?”
Anh lắc đầu. Thật lạ lùng khi được chăm sóc như vầy.
Khi làm xong công việc của mình, cô thẳng người dậy, hít một hơi thở sâu vào trước khi thông báo rằng anh cần trà.
“Ồ, phải,” quý cô Royle đồng ý. “Đó là điều hiển nhiên.”
Lúc này Marcus thậm chí còn không thử từ chối. Anh chắc rằng trông anh rất thảm hại, bị bao bọc trong một cái chăn với cái chân gác trên bàn, và anh thậm chí không dám tưởng tượng họ nghĩ gì mỗi khi anh bắt đầu ho. Nhưng anh thấy thế này dễ chịu hơn là làm nhăng xị cả lên, và nếu Honoria nhất quyết là anh cần trà, anh sẽ vui lòng làm cô vui vẻ bằng cách uống trà.
Anh chỉ cho cô chỗ để cái chuông gọi trà, khi cô rung chuông xong, cô ngồi ổn định tại chỗ ngồi của mình đối diện với anh sau khi một người hầu gái đến và nhận yêu cầu của họ.
“Có vị bác sĩ nào đến khám cổ chân cho anh chưa?” cô hỏi.
“Không cần thiết,” anh bảo cô. “Nó không bị gãy.”
“Anh chắc chứ? Đó không phải một loại chuyện mà người ta muốn đương đầu đâu.”
“Anh chắc.”
“Em thấy tốt hơn nếu—“
“Honoria, bình tĩnh nào. Cổ chân anh không bị gãy.”
“Còn đôi bốt của anh?”
“Đôi bốt của ngài ấy?” quý cô Royle hỏi. Cô trông bối rối.
“Cái đó, anh e là, nó toi rồi,” anh trả lời.
“Ôi, Chúa,” Honoria nói. “Em nghĩ họ đã phải cắt bỏ đôi bốt ra.”
“Họ đã cắt đôi bốt ra à?” Quý cô Royle lặp lại. “Ôi, khủng khiếp quá.”
“Cổ chân của ngài ấy bị sưng khủng khiếp,” Honoria nói với cô. “Đó là cách duy nhất phải làm thôi.”
“Nhưng là một đôi bốt đấy,” quý cô Royle dai dẳng.
“Đó không phải là một trong những đôi bốt ưa thích của tôi đâu,” Marcus nói. Cố gắng để làm quý cô Royle vui vẻ trở lại. Cô trông như thể ai đó đã chặt đầu một con chó con vậy.
“Em tự hỏi liệu người ta có thể đóng một chiếc bốt không,” Honoria trầm ngâm. “Để khớp với chiếc còn lại. Vậy thì nó không còn là sự lãng phí nữa.”
“Ồ, không, không có hiệu quả đâu,” quý cô Royle nói, hình như rất hiểu biết về các chủ đề như thế này. “Đồ da thì không bao giờ khớp với nhau được cả.”
Marcus được cứu vớt khỏi một cuộc thảo luận nhàm chán về giày dép khi bà Wetherby, người quản gia lâu năm của anh xuất hiện. “Tôi đã bắt đầu chuẩn bị trà trước khi ngài yêu cầu,” bà cho biết, hối hả bước vào với một khay trà.
Anh mỉm cười, không hề thấy ngạc nhiên. Bà lúc nào cũng làm những việc như thế này. Anh giới thiệu bà với Honoria và quý cô Royle, và khi bà chào Honoria mắt bà sáng lên.
“Ồ, cô ắt hẳn là em gái của ngài Daniel!” bà Wetherby ré lên, đặt khay trà xuống.
“Là tôi,” Honoria trả lời, tươi cười rạng rỡ. “Vậy là bà biết anh tôi sao?”
“Tôi biết. Ngài ấy có ghé thăm vài lần, thường thường là khi ngài bá tước đời trước rời khỏi đây. Và dĩ nhiên ngài ấy có đến một hoặc hai lần kể từ khi ngài Marcus trở thành bá tước.”
Marcus cảm thấy xấu hổ vì cách bà nói về tuổi thơ của anh đầy kính cẩn như thế. Nhưng anh sẽ không bao giờ khiển trách bà. Bà Wetherby giống như một người mẹ đối với sự trưởng thành của anh, bà thường chỉ dành cho anh nụ cười ấm áp hay những lời khuyến khích trong tất cả những người ở Fensmore.
“Rất vui khi gặp cô,” bà Wetherby tiếp tục. “Tôi đã nghe rất nhiều điều về cô.”
Honoria chớp mắt kinh ngạc. “Thật sao?”
Marcus cũng chớp mắt ngạc nhiên. Anh không thể nhớ lại có bao giờ anh đề cập tới Honoria với bất kì ai, chứ đừng nói gì đến quản gia của anh.
“Ồ, phải,” bà Wetherby nói. “Dĩ nhiên là khi họ còn bé. Tôi phải thú nhận điều này, tôi vẫn thường hay nghĩ về cô như một cô bé. Nhưng bây giờ cô hoàn toàn trưởng thành rồi, phải không?”
Honoria mỉm cười và gật đầu.
“Giờ thì, cô dùng trà như thế nào?” bà quản gia hỏi, làm sữa văng tung tóe vào trong ba tách trà sau khi Honoria và quý cô Royle nói cho bà biết sở thích của họ.
“Đã quá lâu rồi kể từ khi tôi gặp ngài Daniel,” bà tiếp tục trong khi rót trà cho họ. “Ngài ấy là một đứa trẻ tinh quái, nhưng tôi thích ngài ấy. Ngài ấy có khỏe không?”
Một sự im lặng đáng sợ, rồi Honoria nhìn Marcus để cầu cứu. Anh lập tức nuốt xuống và nói, “Tôi chắc hẳn đã không nói với bà, bà Wetherby. Đức ngài Winstead đã rời khỏi đất nước nhiều năm rồi.” Anh sẽ nói với bà phần còn lại của câu chuyện sau, không phải trước mặt Honoria và bạn của cô.
“Tôi hiểu,” bà nói, bà hiểu chính xác sự im lặng đó là dấu hiệu để đừng theo đuổi chủ đề này thêm nữa. Bà nuốt xuống vài lần, rồi cầm cái tách trà đầu tiên đưa cho Honoria. “Và cái này cho cô,” bà lẩm bẩm, đưa tách thứ hai cho quý cô Royle.
Cả hai người họ cảm ơn bà, và bà đưa cho Marcus tách trà của anh. Nhưng rồi bà quay sang Honoria. “Cô sẽ đảm bảo ngài ấy uống hết tách trà chứ, thưa cô?”
Honoria cười toe toét. “Chắc chắn rồi.”
Bà Wetherby cúi xuống và thì thầm thật to, “Các quý ông là những bệnh nhân kinh khủng.”
“Tôi nghe thấy rồi nha,” Marcus bình luận.
Bà quản gia nhìn anh tinh nghịch. “Ngài cũng giống thế đấy.” Và với câu đó bà nhẹ nhún gối chào và rời khỏi phòng.
Phần còn lại của chuyến viếng thăm diễn ra không có chút rắc rối nào. Họ uống trà ( hai tách trà cho Marcus với sự kiên quyết của Honoria ), ăn bánh bích quy, trò chuyện về những thứ vụn vặt trên trời dưới đất cho đến khi Marcus bắt đầu ho lại, chính lúc này Honoria khăng khăng anh phải đi nghỉ.
“Dù sao thì cũng đến lúc bọn em phải đi rồi,” cô nói trong khi đứng cùng với quý cô Royle. “Em chắc chắn bà Royle sẽ rất háo hức khi bọn em quay về.”
Marcus gật đầu và mỉm cười biết ơn khi họ khăng khăng anh không cần phải đứng vì lợi ích của họ. Anh thật sự cảm thấy rất khó chịu, và anh ngờ rằng anh phải nuốt xuống niềm kiêu hãnh của mình để yêu cầu người khác mang anh trở về phòng mất thôi.
Dĩ nhiên là sau khi hai quý cô rời khỏi đây.
Anh kiềm chế một tiếng rên rỉ. Anh ghét bị bệnh.
Khi đã ở trong xe ngựa, Honoria cho phép bản thân ngồi xuống và thư giãn. Marcus trông yếu ớt, nhưng không có gì mà một tuần nghỉ ngơi và nước xuýt thịt không thể chữa được. Nhưng khoảnh khắc thanh bình của cô bất ngờ bị cắt ngang khi Cecily thông báo, “Một tháng.”
Honoria nhìn lên, “Gì cơ?”
“Đó là sự dự đoán của chị.” Cecily giơ ngón tay trỏ lên, vẽ thành hình một vòng tròn nhỏ, rồi vẽ một đường thẳng. “Một tháng trước khi đức ngài Chatteris cầu hôn.”
“Cầu hôn ai?” Honoria hỏi, cố gắng che giấu sự sửng sốt của mình. Marcus đã không thể hiện bất kì điều gì nào cho thấy anh yêu thích Cecily, và còn một điểm nữa, thật không giống Cecily chút nào khi khoe khoang như thế.
“Với em, em ngốc ạ.”
Honoria gần như cứng lưỡi. “Ồ,” cô nói, với cảm giác tuyệt vời. “Ồ. Ồ. Ồ. Ồ, không.”
Cecily cười tự mãn.
“Không, không.” Honoria ắt hẳn đã đáp trả bằng một từ đơn âm tiết ngu ngốc, nhưng cô là một con ngốc nói năng đơn âm tiết. “Không,” cô nói lần nữa. “Ồ, không.”
“Chị thậm chí sẵn lòng đánh cược,” Cecily nói tinh quái. “Em sẽ kết hôn khi mùa vũ hội kết thúc.”
“Em hi vọng thế,” Honoria nói, cuối cùng cũng tìm ra vốn từ vựng của mình, “nhưng không phải với đức ngài Chatteris.”
“Chà, vậy bây giờ là đức ngài Chatteris rồi hả? Em nghĩ rằng chị không để ý khi em gọi ngài ấy bằng tên thánh trong toàn bộ thời gian chúng ta ở đó hay sao.”
“Đó là cách mà em biết ngài ấy,” Honoria bào chữa. “Em đã biết ngài ấy từ khi em lên sáu.”
“Có lẽ là thế, cả hai người bọn em…Ồ, chị phải nói sao đây nhỉ?” Cecily mím môi và liếc nhìn cái mui xe. “Hai người hành xử như thể đã kết hôn rồi ấy, có lẽ vậy.”
“Đừng có lố bịch thế chứ.”
“Chị nói sự thật,” Cecily nói, trông hoàn toàn hài lòng với bản thân mình. Cô cười thầm. “Chờ cho đến khi chị nói với mấy người kia.”
Honoria gần như nhảy ra khỏi cỗ xe ngựa. “Chị không dám đâu!”
“Chị cho rằng em tự vệ quá nhiều đấy.”
“Làm ơn, Cecily, em đoan chắc với chị. Em và đức ngài Chatteris không yêu nhau, và em, em hứa với chị, chúng em sẽ không bao giờ kết hôn. Tung tin đồn ra không được ích gì ngoài việc làm cuộc sống của em trở nên khốn khổ.”
Cecily nghiêng đầu qua một bên. “Không yêu à?”
“Giờ chị đang bóp méo từ ngữ của em đấy. Dĩ nhiên em quan tâm đến ngài ấy. Ngài ấy đã giống như anh trai của em.”
“Tốt thôi,” Cecily đồng ý. “Chị sẽ không nói gì hết.”
“Ca—“
“Cho đến khi em đính hôn . Và rồi chị sẽ hét lên cho bất kì ai lắng nghe: Chị tiên đoán điều này rồi!”
Honoria thậm chí không buồn phản ứng. Sẽ không có sự đính hôn nào hết, và do đó sẽ không có ai hét lên bất kì thứ gì hết. Nhưng những gì cô không nhận ra cho đến giờ đó là lần đầu tiên cô nói Marcus đã giống như một người anh trai đối với cô.
Thì quá khứ.
Và nếu anh không còn là một người anh trai đối với cô nữa. Thì anh là gì?