Tuy vậy, mọi việc diễn ra chẳng đúng những dự định của Tsitsikôp tí nào cả. Trước tiên, y dậy muộn hơn y nghĩ; đó là điều trái ý thứ nhất. Vừa dậy y liền cho xuống hỏi xem chiếc britska đã thắng chưa, nhưng được biết là chưa có chút chuẩn bị nào cả; đó là điều trái ý thứ hai. Giận lắm, y sửa soạn cho anh bạn Xêlifan của chúng ta một trận; trong khi nóng lòng muốn biết duyên cớ mà anh chàng viện ra để tự biện bạch. Một lát Xêlifan vào và ông chủ được nghe thỏa thích những lời mà thường đày tớ vẫn nói, mỗi khi cần phải đi vội.
- Nhưng, Paven Ivannôvits ạ, phải đóng móng ngựa.
- À, đồ con lợn! Đồ ngu như chó! Tại sao mày chẳng bảo trước gì cả? Không có thì giờ chắc!
- Có thì giờ chứ, đúng thế… Nhưng còn bánh xe nữa, Paven Ivannôvits ạ; phải thay cái vành sắt, vì đường đã hỏng nhiều lắm…. Lại còn, ông cho phép con nói nốt: phía trước xe cũng yếu lắm rồi; may ra chỉ đi được hai trạm là cùng.
- Đồ đểu! Tsitsikôp mồm quát, tay vung lên và xông sát tới, đến nỗi Xêlifan sợ ăn tát, phải lùi lại mấy bước. Mày muốn tao chết à? Mày định giết tao trên đường cái hả, đồ quái vật, đồ du côn, đồ ăn cướp! Ở đây đã ba tuần rồi! Tại sao mày chẳng nói gì cả hả, đồ khốn nạn! Mày chờ đến lúc cuối cùng, khi người ta tưởng chỉ còn có việc lên xe nữa mà thôi! Có phải là làm ăn đểu giả không, hả, hả? Mày có biết trước không? Nói đi. Có biết không, hả?
Xêlifan đầu cúi gầm, thú thực: - Con có biết.
- Thế tại sao mày lại chẳng nói gì cả, hả?
Xêlifan không đáp; đầu lại cúi gầm, hắn như tự nói với mình: “Lạ quá nhỉ: mình biết mà mình chẳng nói gì cả!”
- Đi gọi thợ rèn ngay, nhanh lên; và nội hai giờ, mọi việc phải xong xuôi hết. Nghe chưa? Nội hai giờ, không lôi thôi gì cả. Không xong thì tao, thì tao… tao gô cổ mày lại! Nhân vật của ta đang cơn tức giận.
Xêlifan đi về phía cửa để thi hành mệnh lệnh; nhưng dừng lại và nói:
- Thưa ông, phải bán con Vằn đi; con ấy, Paven Ivannôvits ạ, quả là một tai nạn. Một con vật vô dụng như thế chỉ tổ quấy rầy ta dọc đường thôi.
- Được, tao sẽ đem bán nó ngoài chợ!
- Con xin nói thật, Paven Ivannôvits ạ, nó chỉ vờ vĩnh bên ngoài. Con xin chắc rằng chẳng có con vật nào xỏ lá bằng nó.
- Đồ ngu! Bao giờ tao muốn thì tao bán. Giờ mày cũng lý sự rồi đấy à! Cứ chờ đấy. Mày mà không gọi được thợ rèn đến ngay và mọi việc không xong xuôi trong hai giờ, thì tao cho mày một trận!... Rồi mày sẽ không nhận ra mặt mày nữa đâu! Đi, cút!
Xêlifan đi ra.
Tsitsikôp vẫn chưa nguôi giận; y ném xuống sàn thanh kiếm đi đường y vẫn đeo luôn bên người, để gây cho những tên cướp có thể hiện ra, một mối sợ có ích. Y phải mà cả hơn mười lăm phút với bọn thợ rèn mới ngã ngũ; cái quân vô lại thực sự ấy, cứ thường lệ, thấy khách vội là đòi tiền công đắt lên gấp sáu lần. Y có cáu tiết, có nhiếc chúng nó là đồ kẻ cắp, đồ kẻ cướp, chặn đường khách đòi tiền mãi lộ, y có viện cả tới phán quyết cuối cùng; bọn thợ rèn vẫn mắt ngơ, tai điếc, không hề nhượng bộ. Chẳng những chúng không bớt một xu; mà còn làm cái việc, đáng ra chỉ mất có hai giờ, trong năm giờ rưỡi đồng hồ.
Trong lúc chúng chữa xe thì y được cái thú hưởng những phút mà khách lữ hành thường phải trải qua, khi mà lữ hành đã gói buộc xong xuôi cả rồi; trong gian buồng chỉ còn lại những mẩu dây, những giẻ và giấy rách; và tuy chưa lên đường, người lữ hành cũng không còn ở nhà nữa. Qua cửa sổ, khách thấy người qua đường nói chuyện với nhau về những việc vặt vãnh của họ, ngước mắt lên, rồi đi thẳng sau khi đã nhìn người ta với một vẻ tò mò ngốc nghếch, làm cho kẻ lữ hành đã khổ sở vừa chưa đi được, lại càng khó chịu thêm. Tất cả những cái gì trông thấy - quán hàng trước mặt, cái đầu của một bà lão ở nhà bên cạnh đang đến gần cửa sổ che màn mỏng - mọi thứ đều làm cho Tsitsikôp ghét quá; tuy vậy, y vẫn cứ phải đứng đấy. Khi mơ màng, khi lơ đãng, y nhìn mọi vật đang cử động hay đang đứng yên dưới mắt y; cáu tiết y lấy ngón tay gí chết một con ruồi bay vo ve đang vướng vướng vào cửa kính.
Nhưng cái gì cũng phải có lúc hết; và cái phút chờ mong đã đến rồi. Mọi thứ đã sẵn sàng; phía trước chiếc xe đã chữa lại, vành bánh đã thay, ngựa cho đi uống nước đã đưa về; và mấy thằng kẻ cướp thợ rèn đã cút, sau khi đếm đi, đếm lại mấy đồng rúp tiền công và chúc thượng lộ bình an. Xe thắng xong, hai chiếc bánh mì trắng mới ra lò, vừa mua xong, được mang theo và về phần hắn, Xêlifan cũng đã nhét vài thức ăn uống đầy cái túi để cạnh ghế xà ích. Rồi, giữa những chuyện lặt vặt thông thường như mọi lúc ra đi, ông chủ lên xe; anh người hầu, vẫn mặc xurtuk đêmicôtôn {Từ Nga, mượn của các từ Pháp surtout và demi-coton, nghĩa là áo dài bó lấy mình và vải dệt nửa bông}, nhìn theo, tay vẫy vẫy mũ lưỡi trai, giữa một đám tòng bộc và xà ích đến chứng kiến phút lên đường. Thế là chiếc britska thông dụng của hạng người độc thân, và chắc đã làm nhàm tai bạn đọc khá nhiều rồi, bấy lâu ở thành phố chỉ để không, giờ mới vượt qua chiếc cổng lớn của khách sạn.
“- Lạy Chúa tôi!” Tsitsikôp khấn thầm và làm dấu thánh giá. Xêlifan ra roi, và Pêtruska, đứng một lúc trên bậc cửa xe, rồi đến ngồi cạnh hắn. Nhân vật của chúng ta ngồi thoải mái trên một tấm thảm Gruzia {Gruzia là một trong mười lăm nước cộng hòa hợp thành Liên bang Xô viết xã hội chủ nghĩa trước đây, ở ven Hắc hải, và thuộc vào đế quốc Nga hoàng từ năm 1802; ta quen gọi theo tiếng Pháp là Jêorji}, chèn sau lưng một cái gối tựa bằng da, ép sát vào hai chiếc bánh mì trắng; rồi thì cỗ xe lại bắt đầu nhảy nhót, lắc lư trên cái lòng đường không hề tiếc những cái xóc, cái lắc đối với nó. Y lơ đễnh nhìn những cái nhà, những bức tường, những hàng rào, những đường phố chầm chậm lùi dần về phía sau và cũng tựa hồ đang nhảy nhót; những cái mà chắc là suốt đời y sẽ không bao giờ gặp lại nữa. Đến một ngã rẽ, chiếc britska phải dừng lại, vì suốt đường phố trước mặt đang có một đám ma dài đi qua. Tsitsikôp, nghiêng người ra, bảo Pêtruska hỏi xem người chết là ai và được biết là ông chưởng lý.
Hết sức khó chịu, y liền thu mình vào một góc xe, lấy tấm chăn da trùm kín người và bỏ màn cửa xe xuống.
Trong khi phải đứng yên như vậy, Xêlifan và Pêtruska cung kính bỏ mũ ra rồi quan sát đám người đi đưa ma, áo quần họ mặc, tính nhẩm số người đi bộ theo và số người đi xe. Ông chủ cấm họ không được để cho người ta nhận ra mình và chào những người hầu mà họ quen biết, rồi chính mình cũng rụt rè nhìn qua những miếng kính của các rèm da. Tất cả các công chức, đầu trần đi theo linh cữu. Mới đầu y ngại người ta nhận ra cỗ xe của y; nhưng các ông ấy còn mải bận những lo lắng khác. Họ không trao đổi cả những câu chuyện thân mật mà thường người ta vẫn nói với nhau trong khi đưa ma. Tất cả mọi ý nghĩ của họ còn mải tập trung vào bản thân: họ tự hỏi quan tổng trấn mới thuộc vào cái hạng người như thế nào, và buổi đầu sẽ đối đãi với họ ra sao. Theo sau các công chức là những xe chở các bà, mang khăn tang đen. Cứ những cử động của môi họ và cánh tay họ, thì biết rằng họ đang nói chuyện trò rất náo nhiệt; có lẽ họ đang nói về việc quan tổng trấn mới sắp đến, ức đoán về những vũ hội mà ông ta sẽ mở, và bàn đến những đường viền hoa và vật trang sức phù phiếm muôn năm của họ. Vài chiếc đrôjki không người ngồi, đi theo đám tang ở sau cùng.
Đường đã thông rồi, nhân vật của chúng ta có thể đi tiếp. Y cuốn màn lên, thở dài và nói, giọng ảo não: “- Đấy, ông chưởng lý! Ông đã sống và đã qua đời rồi! Tin buồn đăng trong các báo sẽ nói là một công dân đáng kính, được thuộc lại và cả toàn thể nhân loại tiếc thương, một người chồng, người cha gương mẫu, vân vân… vân vân… đã qua đời. Người ta sẽ thêm là tiếng khóc của quả phụ và cô nhi đưa ông đến tận nơi cuối cùng; thật ra, xét cho kỹ thì giá trị duy nhất của ông ta chỉ là có đôi lông mày rậm!”
Y ra lệnh cho Xêlifan đi nhanh thêm và nghĩ thầm: “Gặp đám ma thế mà tốt, người ta bảo đó là điềm may!”
Đến đấy thì chiếc britska đi vào những phố vắng hơn; rồi người ta chỉ thấy những hàng rào gỗ dài, cho biết là sắp ra khỏi thành phố. Thế là đường lát đá qua hết, thành phố mất hút đằng sau, chẳng còn thấy gì khác ngoài đường cái quan vô tận nữa, và lại tiếp theo nhau, những cột chỉ verxta, những người coi trạm, những cái giếng, những xe tải nặng nề; những làng xóm tồi tàn với những xamôva, những đàn bà nhà quê; những chủ quán nhanh nhẹn, râu ria xồm xoàm, thấy xe đến là chạy ra, tay bưng kiều mạch; một kẻ vô gia cư mà đời sống lang thang trên tám trăm verxta đã làm mòn hết đôi ủng vỏ cây; những thị trấn nhà cửa lộn xộn, với quán hàng bằng gỗ bầy biện những thùng bột, những giày bằng vỏ cây, những bánh mì trắng và mọi thứ vặt vãnh khác; những cái ngáng đường màu sặc sỡ, những cầu đang chữa; những cánh đồng bát ngát với những cỗ xe cổ lỗ của trang chủ; một người lính cưỡi ngựa, dẫn một chiếc xe quân nhu sơn màu lục, chở đầy những chì đúc đạn và mang dòng chữ: Khẩu đội pháo số bao nhiêu đấy; những dải đất màu lục, màu vàng, nổi bật trên đồng bằng, cạnh những đất đã cày lên đen nhánh; những cây thông ngọn cao tít trong sương mù; tiếng vọng của một bài hát hay một hồi chuông; những đàn quạ đông như ruồi; và chân trời vô biên…
Ôi nước Nga! Nước Nga! Từ phương xa kỳ ảo này, ta thấy nước Nga; nghèo nàn, xơ xác và không ở được {Kiểm duyệt bỏ “xơ xác và không ở được”}; chẳng có một kỳ công nào của nghệ thuật làm tôn vẻ đẹp của thiên nhiên, để cho người ngắm cảnh phải vui thích hay khiếp sợ. Trên đất Nga, người ta không thấy những thành phố với những cung điện tráng lệ cheo leo trên vực thẳm; những tòa nhà phủ kín dây trường xuân, bám đầy những thứ cây đẹp như tranh, cạnh những thác nước đổ ầm ầm, tung bọt trắng; người ta không phải ngửng đầu lên để ngắm những khối đá chồng lên nhau đến một độ cao chóng cả mặt; người ta không hề thấy, qua những vòm cây râm mát, chằng chịt những dây trường xuân, tường vi và nho, những nét núi không thay đổi, sáng rực lên ở đằng xa, nổi bật trên nền trời ánh bạc {Đoạn này viết vào năm 1873-1838 ở nước Ý, trong một lúc mà cảm hứng đến với Gôgôn rất dồi dào. Theo Gôgôn thuật lại, thì một hôm, dừng chân trong một khách sạn trên đường giữa Jenzanô và Anbanô, “ngồi trong một góc, trong bầu không khí ngột ngạt, giữa tiếng ồn ào của khách trọ, tiếng đánh bi a, tiếng chạy đi, chạy lại của những người hầu bàn, chàng quên mình trong một giấc mơ màng tuyệt diệu và viết một mạch suốt một chương”. Có lẽ là chương này: cảnh tả trong đoạn này chính là phong cảnh cổ điển của nước Ý}. Quạnh hiu trong cảnh đơn điệu; khắp nơi ngươi đều như thế; như những cái chấm, cái vết không nhìn thấy được, những thành phố thấp thỏi của ngươi lẫn vào các đồng bằng. Chẳng có gì làm xiêu lòng, làm đẹp mắt người ta cả. Nhưng mà sức mạnh huyền bí nào thu hút ta đến với ngươi? Tại sao vang lên không dứt bên tai ta khúc ca ai oán, văng vẳng từ biển nọ tới biển kia {Từ Hắc hải tới biển Bantik, từ Nam lên Bắc đất Nga}, khắp nơi trên không gian bao la? Có cái gì trong khúc hát ấy? Cái gì kêu gọi, và thổn thức, và thít chặt lấy tim ta? Những âm thanh nào len lỏi, như một cái vuốt ve đau đớn, vào tận hồn ta, và ám ảnh hồn ta khôn dứt?
Nước Nga! Ngươi muốn gì ở ta? Sợi dây khó hiểu nào đã ràng buộc chúng ta với nhau? Có gì mà ngươi lại nhìn ta như thế? Tại sao tất cả những gì trong nước Nga đều quay lại nhìn ta với những đôi mắt đầy vẻ mong chờ?... Lưỡng lự, ta đứng yên; một đám mây đầy giông tố sắp vỡ ra thành mưa, làm tối sầm bầu trời trên đầu ta, và tư duy của ta lặng thinh trước cảnh bao la của nó. Không gian vô tận này báo hiệu cái gì? Vô biên, ngươi sẽ sinh ra một thiên tài cũng bao la như ngươi chăng? Chẳng phải đã tiền định rằng ngươi sẽ đẻ ra những anh hùng, vì ngươi đem cho họ trường hoạt động rộng lớn để xây dựng sự nghiệp? Cảnh mênh mông hùng cường của ngươi làm ta tràn ngập nhiệt tình, xao xuyến đến tận chốn sâu thẳm của tâm hồn; một sức mạnh siêu phàm làm ta mở mắt ra. Ôi, xứ sở của những chân trời rực rỡ, cao cả, không thấy có ở nơi nào khác trên thế giới. Ôi, nước Nga!... {Đoạn mạn văn trữ tình này bị Biêlinxki cho là giả tạo. Xem lời thanh minh của Gôgôn trong bức thư dịch ở chương này}
- Cẩn thận, cẩn thận, đồ ngu! Tsitsikôp quát Xêlifan.
Một người liên lạc, ria mép dài đang phóng từ phía trước lại và hét ầm lên: - Muốn nếm mùi kiếm à? Ma quỷ bắt ba hồn bảy vía mày đi! Thấy xe của hoàng gia mà không tránh sang một bên được à?
Như một ảo ảnh, một chiếc troika {Xe ba ngựa đặc biệt của người Nga} vút qua và biến đi trong tiếng ầm ầm và bụi mù.
Biết bao cái lạ lùng và hấp dẫn, và cám dỗ, và kỳ ảo mà hai tiếng lữ hành gợi lên cho ta! Và chính cuộc lữ hành này mới thần diệu làm sao! Trời quang, mây tạnh, lá thu rơi, không khí mát lạnh… Dát lạnh, ta cuộn mình trong chiếc măng tô, kéo mũ lông xuống tận tai, nép người vào một góc xe. Một cái rùng mình cuối cùng, rồi một hơi ấm áp dịu dàng lan dần khắp thân ta. Ngựa phóng như bay… Một thứ buồn ngủ dễ chịu làm ta nửa mê, nửa tỉnh; mắt nhắm lại, ta nghe như qua giấc mơ tiếng người đánh xe trạm hát bài Tuyết không trắng, tiếng bánh xe lăn, lẫn tiếng ngựa thở phì phò; thế rồi ta ngủ quên, và cứ dồn mãi người ngồi cạnh vào một góc xe.
Thức dậy thì năm trạm đã qua; ánh trăng chiếu xuống một thành phố lạ; những nhà thờ với những nóc hình cầu cổ kính và những mũi tên đen sạm; những ngôi nhà làm bằng thân gỗ đen ngòm; những ngôi nhà làm bằng đá trắng toát. Ánh trăng chiếu từng đám như những miếng vải trắng trên các bức tường, trên các đường lát đá; được chiếu chênh chếch như vậy, các mái nhà bằng gỗ sáng lên một ánh kim; chẳng còn một ai nữa; mọi người đều ngủ. Chỉ le lói một ánh sáng cô đơn ở một cửa sổ nào đó: có lẽ là một người dân phố nào đấy đang khâu lại đôi ủng hay là một người thợ bánh mì đang đun lò; điều đó không quan trọng. Và đêm đẹp làm sao, hỡi thiên thần, đêm thanh tĩnh biết bao! Và không trung, và bầu trời cao, xa, sâu thăm thẳm, mênh mông, đầy âm thanh và trong sáng!... Nhưng khí lạnh ban đêm thổi vào mặt bạn, khẽ ru bạn và bạn đã lại lịm dần, rồi bắt đầu ngáy; và cái người vô phúc ngồi bên cạnh, lại bị ép vào góc xe; hắn ngáp thở khò khè và càu nhàu, bực bội thấy một sức nặng đè lên mình.
Tỉnh dậy, cũng lại chỉ những cánh đồng và những thảo nguyên; không gian hoang vắng, chẳng thấy gì hiện ra cả. Một cái cột chỉ con số verxta, vút qua dưới mắt bạn; trời bắt đầu sáng; một màu phơn phớt vàng xuất hiện trên chân trời trăng trắng; gió thổi đã buốt hơn; cuộn kín mình vào áo măng tô thôi!... Cái lạnh dễ chịu biết bao! Lại mơ mơ, màng màng; nhưng một cái lắc lại đánh thức bạn dậy lần nữa. Mặt trời lên đã cao. Một tiếng ai kêu: “Từ từ, từ từ!”. Chiếc têlêga đang xuống một cái dốc đứng; bên dưới là một con đê rộng, một cái ao to lóng lánh dưới mặt trời như một chiếc chậu đồng; làng đây rồi, những cái izba tản mát trên sườn đồi; chiếc thánh giá của ngôi nhà thờ sáng ngời lên như một vì sao; những người mujik chuyện trò léo nhéo và ta thấy đói gớm ghê… Lạy Chúa! Thỉnh thoảng đi một chuyến thật xa, thật xa, còn gì tốt bằng! Đã biết bao phen, ôi dặm trường! Như người sắp chết, ta đã bíu vào ngươi và ngươi đã cứu vớt ta cao thượng như cứu kẻ lạc đường, vớt người chết đuối. Ngươi đã gợi cho ta biết bao tư tưởng tốt đẹp, bao giấc mộng nên thơ! Giong ruổi dặm trường, ta đã được trải qua biết bao ấn tượng thần tiên!... {Đoạn văn này rất đậm ý nghĩa trữ tình, vì Gôgôn là một kẻ lữ hành gần suốt đời; trong bức thư ngày 25 tháng chạp năm 1840 viết cho X.Akxakôp, văn hào cũng thú nhận: “- Giá mỗi mùa hè tôi được đi một chuyến! Du hành đối với tôi là một phương thuốc rất bổ ích”}
Ông bạn Tsitsikôp của chúng ta, bây giờ cũng đang mơ màng, những giấc mơ không dung tục đến như thế. Hãy xem y có những cảm giác gì. Trước tiên, y chẳng có cảm giác gì cả; chỉ chốc chốc ngoái nhìn lại phía sau, để xem là đã đi khỏi hẳn thành phố chưa; nhưng khi thấy rằng nó đã mất hút từ lâu; cả những lò rèn; những cối xay gió và vật trang trí khác của các ngoại ô cũng không còn nữa; cả đến những mái trắng của các nhà thờ bằng đá cũng đã khuất đi lâu rồi; thì y chỉ còn biết ngắm cảnh đường trường, nhìn hết bên trái đến bên phải; bấy giờ thành phố N… không còn trong trí nhớ của y nữa; tựa hồ y đi qua đấy đã lâu lắm, từ thuở còn bé {Trong bản thảo thứ hai, ở đây có xem vào đoạn sau này: …Đôi khi, dưới một quang cảnh rút ngắn lại và trong một phạm vi thu gọn lại, cũng diễu qua trước mắt y những người dân thành phố, ông tỉnh trưởng, đêm vũ hội, canh bài uyxt đánh cho mãi tới gà gáy, con cá chiên, con cá heo, cái khách sạn, sự lầm lẫn lạ lùng của các công chức; nhưng rồi tất cả những cái ấy mờ nhạt dần, tựa hồ những bản thử cuối cùng của các bức tranh in, hay những cái vết chấp chới trước mắt ta, khi ta nhìn mặt trời lúc xế tà. Những vết ấy còn in dấu phũ phàng lên tất cả mọi vật, đập vào mắt ta trong một thời gian dài nữa. Trên những cánh đồng, trong ánh chiều tà, nơi mà các loài hoa dựng dậy ở đầu cành như những vì sao rực rỡ giữa những tiếng vo ve của côn trùng được thức tỉnh; trên con đường đo đỏ và bụi mù; trên mái nhà thôn dã, cổ lỗ, có cây khổ ngải mọc; trên cỏ khô mà dân làng tay cầm chĩa ba, đánh lại thành đống; tóm lại là khắp nơi, ở đâu các chấm ấy cũng đậu rồi bay; trước rực rỡ, sáng lòe như chớp, sau nhạt nhạt dần, và một khi đã tắt thì đối với ta, chỉ còn như những viên đạn chì. Sau cùng Tsitsikôp không nghĩ gì nữa, nhắm mắt lại…}.
Sau cùng cảnh vật bên đường không làm y chú ý nữa; y nhắm mắt lại, tựa đầu vào chiếc gối. Tác giả lấy thế làm mừng, xin thú thật như vậy, vì được cơ hội để nói ít nhiều về nhân vật của mình; cho đến nay, bạn đọc cũng thấy đấy, tác giả lúc nào cũng bị ngăn trở, hoặc bởi Nôzđriôp, hoặc bởi các vũ hội, các phu nhân, các chuyện ngồi lê, đôi mách; hoặc cuối cùng bởi muôn nghìn chi tiết mà khi đã ghi vào một cuốn sách thì trông như vô nghĩa, nhưng trong giới thượng lưu vẫn được xem là cực kỳ quan trọng. Thôi, bây giờ hãy gác mọi chuyện lại để bắt tay vào việc này.
Rất đáng ngờ là nhân vật mà tác giả chọn đã làm vừa ý bạn đọc. Nó không vừa ý các bà, có thể nói chắc như vậy; vì các bà vẫn đòi hỏi nhân vật phải là hiện thân của sự toàn thiện toàn mỹ; còn nếu lộ ra một mảy may khuyết điểm về hình thức hay tinh thần nào, thì thế là đi đứt! Dù tác giả có phân tích sâu sắc tâm hồn của nó, phản ánh hình dáng của nó trung thành như một tấm gương; người ta cũng phủ nhận hết mọi giá trị. Vóc người phì nộn với cái tuổi trung niên của Tsitsikôp chắc chắn sẽ làm hại y không ít; người ta không bao giờ tha thứ cho nhân vật cái tội phì nộn và chắc rằng nhiều bà sẽ vừa quay đi vừa nói: “- Eo! Xấu khiếp!” {Những bản thảo đầu tiên, không có những đoạn mạn văn yêu nước như ở các trang trước và trang sau đây, mà có đoạn giải thích về phương pháp xây dựng nhân vật của tác giả và nói đến những nhà văn mà tác giả lấy làm mẫu mực: …Than ôi! Tất cả những điều ấy, tác giả đều biết rõ. Nhưng hắn thú thực là chưa bao giờ phải chịu một nguồn cảm hứng do phụ nữ gợi cho; mà còn thấy khó chịu lạ lùng mỗi khi có một người đàn bà tựa vào bàn làm việc của hắn. Giờ đây, chính sự khó chịu cũng không thể len lỏi vào tâm hồn hắn nữa. Được cảnh cô đơn, được một đời sống nội tâm khắc khổ tôi luyện, hắn không quen nhìn quanh mình những khi viết văn; nếu không phải là đôi mắt hắn tự nhiên ngửng lên những bức chân dung của Sêkxpia, của Aixtôtêlex, của Finđinh, của Xecvantex, của Puskin; là những người đã miêu tả thiên nhiên như thật, chứ không phải thiên nhiên như người ta muốn}.
Than ôi! Tất cả những điều ấy, tác giả đều biết rõ, tuy vậy hắn không thể chọn một con người đạo đức làm nhân vật. Nhưng… có thể là, ngay trong truyện này, người ta cũng được nghe rung lên những sợi dây đàn mà mãi đến đây, chưa ai biết; người ta được thấy xuất hiện cái phong phú của tâm hồn Nga, không thể xóa nhòa đi được, một người đàn ông giá trị cao cả {Kôxtanjôglô, xem phần thứ hai, thứ ba và tư} hay một thiếu nữ Nga tuyệt vời {Ulinka, xem phần thứ hai, chương thứ nhất và hai} không đâu có trên thế giới, tâm hồn sáng ngời một sắc đẹp thần tiên, đầy những nhiệt tình cao quý và sẵn sàng hy sinh. Và bên cạnh những nhân vật mới ấy, tất cả mọi người đức hạnh của các dân tộc khác tựa hồ người chết cả; cũng như cuốn sách là một nhân vật chết bên cạnh lời nói sinh động! Những hành động Nga sẽ được biểu lộ…; và người ta sẽ thấy những cái chỉ lướt qua trên tâm hồn các dân tộc khác, đã ăn sâu vào tâm hồn Xlav đến thế nào… Nhưng cái đang còn là viễn ảnh thì nói tới làm gì! Tác giả, người đứng tuổi, đã được tôi luyện qua một đời sống nội tâm khắc khổ, lại được cảnh cô đơn làm cho thuần hậu; mà lại bả lả một cách vô tư lự như một thanh niên, thì sao cho phải. Việc gì cũng cho đúng lúc và đúng chỗ chứ.
Con người đức hạnh đã không được chọn làm nhân vật. Có thể nói rõ lý do ra như sau: đã đến lúc để cho con người khốn khổ ấy được yên thân rồi; vì bất cứ lúc nào, người ta cũng có sẵn sàng ở cửa miệng mấy tiếng: “con người đức hạnh”, và như thế chẳng đúng lúc gì hết; vì người ta đã đem người đức hạnh ra làm con ngựa, mà không nhà văn nào là không cưỡi lên, tay hoa cái roi và bất cứ cái gì vớ được; vì người ta đã làm cho con người đức hạnh kiệt lực; đến nỗi giờ đây, đến bóng dáng của đức hạnh nó cũng không còn nữa, mà chỉ còn có xương với da thôi; vì người ta viện đến người đức hạnh một cách dối trá, chẳng hề có mảy may tôn trọng nào đối với nó cả. Không, đã đến lúc phải thắng những kẻ vô lại vào xe. Thế thì thắng một kẻ vô lại vào đây vậy!
Gốc tích của nhân vật chúng ta rất tầm thường, không tiếng tăm gì. Bố mẹ y thuộc hàng quý tộc, thế tập hay chỉ có một đời, có Chúa biết được. Mặt mày y chẳng giống bố mẹ; ít ra, đó cũng là theo lời một người bà con đã chứng kiến lúc y ra đời; một mụ đàn bà lùn tịt mà ở Nga người ta thường gọi là chim te te {Tiếng Nga là pigôlitxa, theo ghi chép của Gôgôn trong Sổ tay, thì đó là cách nói đặc biệt của vùng Vlađimia gần Mạc tư khoa}. Bế thằng bé lên, mụ ta nói: “- Chẳng như mình tưởng chút nào! Chắc nó phải giống bà ngoại nó mới phải chứ; đằng này như lời tục ngữ nói: “- Nó chẳng giống mẹ, cũng chẳng giống bố, mà lại giống thằng cha đàn ông qua đường kia!”.
Trước tiên, cuộc đời nhìn nó một cách dễ sợ, như qua một cửa kính mờ, phủ kín tuyết. Suốt cả thời thơ ấu mà không có được một bạn thân, bạn sơ nào! Một căn buồng nhỏ với những cửa sổ nhỏ, đóng kín mùa đông cũng như mùa hè; một người cha bệnh hoạn, mặc áo surtuk lót lông cừu, đi giày sợi đan không bít tất; lúc nào cũng đi đi, lại lại trong phòng, vừa đi vừa thở dài và khạc nhổ vào một cái ống phóng đầy cát bao giờ cũng để trong một góc cố định, bất di, bất dịch; những buổi học dài vô tận, ngồi trên chiếc ghế dài, tay cầm bút và mực đầy các ngón tay và cả đôi môi nữa; lúc nào trước mắt cũng có cái câu châm ngôn: “Không được nói dối; tôn kính người lớn và tu dưỡng đức hạnh trong lòng”; lúc nào cũng tiếng lẹp kẹp của đôi giày đi lại trên sàn; mỗi khi chán cái việc làm đơn điệu, thằng bé lại thêm tí hoa hòe vào những chữ viết tập, thì cũng lại một cái giọng quở mắng quen thuộc không bao giờ thay đổi: “- Lại nghịch ngợm rồi!” Tiếp theo là cảm giác cũng rất quen thuộc và khá đau đớn ở cái dái tai bị beo giữa những móng tay dài và cong như những cái vuốt: đó là cảnh ảm đạm thời thơ ấu mà y còn lại một kỷ niệm mờ nhạt.
Nhưng trong đời, mọi việc thay đổi rất chóng. Đến ngày nắng đẹp đầu tiên của mùa xuân, sau độ băng tan, cha cho con lên một chiếc têlêga, do một con ngựa gày kéo; cái loại ngựa hồng, mặt trắng, mà bọn lái ngựa của chúng ta gọi là ngựa lang; xà ích là một lão gù bé nhỏ, chủ cái gia đình nông nô duy nhất của bố Tsitsikôp, nên phải làm gần hết mọi thứ công việc trong nhà. Đi gần hai ngày, ngủ trọ một đêm, qua một con sông, ăn patê nguội và một miếng thịt cừu quay; rồi sáng ngày thứ ba thì họ đến thành phố. Thằng bé ngạc nhiên vì vẻ đẹp của phố phường, há hốc mồm ra mấy phút. Rồi con ngựa lang sảy chân xuống một cái hố, nơi bắt đầu một ngõ hẹp, dốc nghiêng và lầy lội; hì hục, giãy giụa mãi và được cả xà ích lẫn ông chủ kích thích, hồi lâu nó mới thoát lên được và cuối cùng đưa mọi người vào một cái sân nhỏ ở lưng chừng dốc. Hai cây táo đang nở hoa trước mặt một cái nhà nhỏ cũ kỹ; sau nhà là một cái vườn con trồng toàn thanh lương trà và hương mộc, che kín một chiếc lều mà gỗ lợp đã gần nát, và chỉ có một cửa sổ con kính đã mờ; đó là nơi ở của một người bà con của họ, một bà lão chỉ còn da bọc xương, nhưng sáng nào cũng đi chợ và về thì đem bít tất hong lên trên xamôva. Bà lão vỗ má thằng bé và khen vẻ béo tốt của nó. Từ đấy nó ở nhà bà lão và ngày ngày đi học trường tỉnh. Ông bố ở lại một đêm, rồi sáng hôm sau thì trở về. Ông từ giã con mà không hề ứa nước mắt, nhưng cho nó năm mươi kôpek bằng đồng để tiêu vặt, và quý hơn tiền, là những lời khuyên rất khôn ngoan:
“- Cẩn thận, Paplutsa ạ, phải học đi; không được làm những trò ngu dại hay nghịch ngợm; nhất là phải cố làm cho các thầy giáo và cấp trên bằng lòng. Như vậy, giá có kém thiên tư, giá Chúa có không cho chút tài năng nào; mày cũng tiến lên và vượt những đứa khác. Bạn bè, chớ có giao du; chúng bạn chẳng bảo cho mày được cái gì hay đâu; giá có phải giao du thì đánh bạn với những đứa con nhà giàu hơn cả, để khi cần chúng có thể giúp cho. Đừng thết ai, đừng biếu ai cái gì; nhưng hãy làm cho kẻ khác phải biếu mình. Nhất là phải tằn tiện, cóp nhặt cho nhiều kôpek: ở đời chẳng có gì chắc chắn bằng. Một thằng bạn hay một kẻ thâm giao, sẽ bỏ rơi mày trước tiên trong cơn hoạn nạn; chứ kôpek thì không bỏ mày trong bất cứ cảnh ngộ nào. Có kôpek thì chẳng có gì mà không đạt được.”
Truyền xong những lời giáo huấn khôn ngoan ấy, ông bố lên đường trở lại nhà; ông ta không bao giờ gặp lại con nữa, nhưng những lời ấy đã khắc sâu vào tâm hồn đứa bé.
Ngay hôm sau, Paplutsa bắt đầu đi học. Nó không có thiên tư gì đặc biệt cả, chỉ hơn người về tính cần cù và sạch sẽ; trái lại, nó tỏ ra rất hơn người về một mặt khác, mặt thực tiễn. Nó hiểu ngay phải làm như thế nào và nó ăn ở với bạn bè khéo đến nỗi bao giờ cũng chúng bạn thết nó; và không những không thết lại, nhiều khi nó còn đem quà của chúng cho, giấu đi, rồi lát sau thò ra bán lại cho chúng. Từ tấm bé, nó đã quen nhịn tất cả mọi thứ. Không những chẳng tiêu một kôpek nào vào số tiền của bố cho, nó lại còn thêm vào cho chẵn một trăm kôpek ngay từ cuối năm đầu; và về mặt ấy nó đã tỏ ra khéo léo gần như phi thường. Trước tiên, nó lấy sáp nặn một con chim khách, tô màu, rồi bán lại rất được giá. Xong nó lại lao vào những vụ đầu cơ khác. Mua sẵn thức ăn ở ngoài chợ; vào lớp, nó ngồi cạnh các bạn con nhà giàu và khi một đứa bắt đầu buồn nôn, - triệu chứng của đói - thì nó liền dúi cho với cái vẻ tự nhiên như là vô tình, một mẩu bánh ngọt hay bánh sữa; và cứ thế kích thích cho thèm; rồi bắt trả tiền nhiều ít tùy theo sự háu đói của thằng bé. Nó bỏ ra hai tháng, không nghỉ, để huấn luyện một con chuột nhắt nuôi trong một cái lồng gỗ con, tập cho con vật biết đứng hai chân sau, nằm xuống, đứng lên theo lệnh; sau đấy nó đem bán cũng được giá. Cóp nhặt được năm rúp thì nó nhét vào một cái túi con và khâu lại; rồi bắt đầu dành dụm với một cái túi khác.
Đối với các thầy giáo, cách ăn ở của nó lại càng khéo hơn nữa. Trong lớp chẳng có ai ngồi yên lặng bằng nó. Nên nhớ là ông giáo của nó rất chuộng sự yên lặng và hạnh kiểm tốt; chứ không thể chịu được những đứa bé thông minh, linh lợi: ông tưởng chúng nó lúc nào cũng sẵn sàng chế giễu ông. Khốn cho đứa bé nào rơi vào cái hạng mà ông nhận xét là sắc sảo về trí tuệ; chỉ cần vô ý cựa một cái, nhấp nháy một tí là được biết ngay cơn thịnh nộ của ông. Ông mắng, ông đuổi ra ngoài, ông phạt không thương xót. Ông nói: “- Ta trị cho tiệt cái thói hỗn láo và bất phục tùng. Ta biết ngươi đến tận tim đen, hơn là ngươi tự biết ngươi nữa. Này, quỳ xuống! Không được ăn chiều!”
Và thằng bé đáng thương, bị phạt mà không biết tại sao, cứ xoa đầu gối và nhịn đói suốt ngày.
Khả năng, thiên tư, toàn là nhảm nhí cả! Ông ta thường quát lên như thế. Ta chỉ coi trọng hạnh kiểm thôi. Kẻ nào đến chữ A mà cũng không biết, nhưng hạnh kiểm tốt, thì ta cũng sẽ cho điểm tối đa về tất cả các môn học; nhưng kẻ nào mà ta thấy là không thuần, hay chế giễu, là ta cho điểm không, dù nó có giỏi vào bậc thầy Xôlôn {Xôlôn (640 – 558 tr.C.N.) chính khách lỗi lạc, đã lập ra hiến pháp dân chủ cho thành bang Athinai, nổi tiếng là một trong bảy vị đại hiền của cổ Hy Lạp} đi nữa!
Ông giáo nói như vậy và ông ta ghét Krưlôp {Ivan Krưlôp (1768 - 1844) là nhà thơ ngụ ngôn nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học Nga} vì đã viết rằng: “Nói thật, uống đi nếu anh muốn; nhưng hãy biết rõ việc mình!”.
Lúc nào ông ta cũng kể lại với vẻ mặt tươi rói, rằng trước ông ta có dạy một lớp yên lặng đến nỗi một con ruồi bay cũng nghe rõ tiếng và suốt cả năm, chẳng có một học sinh nào ho, một học sinh nào xỉ mũi; và từ khi bắt đầu cho đến khi chuông tan học, chẳng ai có thể biết là trong lớp có người hay không.
Tsitsikôp hiểu ngay tâm lý ông giáo và biết là phải ăn ở như thế nào. Ngồi trong lớp, không bao giờ nó dám nhấp nháy, cau mày hay giật mình, cho dù có kẻ cấu vào lưng cũng vậy. Chuông tan học vừa đánh là nó chạy lên đầu tiên để đưa cho thầy giáo, trước tất cả mọi người, cái mũ có tai mà ông ta thường đội. Sau đấy, nó ra khỏi trường đầu tiên và cố có mặt ít nhất là ba lần trên đường về của thầy, để cất mũ chào. Cái thủ đoạn ấy thành công rực rỡ. Trong thời gian đi học, bao giờ nó cũng được đánh giá là học sinh ưu tú; nó ra trường với những điểm tối đa về tất cả mọi môn và được cấp một cái giấy chứng nhận với một cuốn sách có ghi dòng chữ vàng: “Thưởng vì chuyên cần đáng làm gương mẫu và hạnh kiểm không chê trách được”.
Dạo ấy Tsitsikôp đã là một thanh niên, đã bắt đầu phải cạo râu, và phong tư nom cũng dễ ưa. Vừa lúc ấy thì bố y chết. Gia tài để lại có bốn chiếc gi lê rách lòi cả chỉ, hai áo surtuk cũ lót lông cừu và một món tiền chẳng đáng bao lăm. Ông bố, như người ta thấy đấy, biết khuyên người cóp nhặt cho nhiều kôpêk; nhưng chính mình thì chẳng cóp nhặt được tí nào cả. Tsitsikôp liền bán cái nhà đã nát với chút ít đất chung quanh được một nghìn rúp, rồi chuyển cái gia đình nông nô còn lại lên tỉnh; quyết định ở đấy và vào làm việc nhà nước. Bấy giờ, ông giáo cũ, thường ưa sự yên tĩnh và hạnh kiểm tốt, bị cách chức, hoặc vì ngu ngốc, hoặc vì một cái lỗi nào đấy. Buồn chán, ông ta đâm ra uống rượu; và cuối cùng chẳng còn lấy một kôpek. Ốm đau, không có bánh ăn, cũng chẳng có nơi nương tựa; ông ta chết dần, chết mòn trong một căn nhà lụp sụp, tồi tàn không có củi sưởi. Nghe tin thầy lâm vào tình cảnh cùng quẫn, học trò cũ, những anh thông minh, linh lợi mà lúc nào thầy cũng cho là bất phục tùng và xấc láo, góp nhau được một số tiền khá giúp thầy; để góp phần, nhiều anh đã phải bán cả những thứ cần thiết và quý giá; chỉ mình Paplutsa Tsitsikôp lấy cớ là không có tí của cải nào và đưa ra một đồng năm kôpêk; anh em bạn liền ném trả lại và kêu lên: “Ôi, cái đồ keo kiệt!”. Khi biết cách ăn ở của học trò cũ, ông giáo khốn khổ úp mặt vào hai bàn tay và khóc ròng ròng với đôi mắt đã tắt, như một đứa trẻ yếu đuối. Ông ta nói, giọng yếu ớt:
- Chết đến nơi, Chúa mới muốn cho tôi được khóc.
Nghe kể lại cách ăn ở của Tsitsikôp, ông ta thở dài buồn bã:
- Ôi! Paplutsa! Con người thay đổi thật chẳng ai ngờ. Thằng bé tốt quá, ngoan thế, chẳng chút gì là xảo trá. Phì! Lừa dối, thật là lừa dối!...
Tuy vậy, cũng không thể nói rằng bản tính của nhân vật chúng ta là vô tình, khắc bạc; rằng tình cảm của y đã mòn mỏi đến nỗi y không còn biết đến lòng thương xót, trắc ẩn nữa. Y chẳng muốn gì hơn là cứu giúp đồng loại, nhưng mà với một số tiền cỏn con thôi, đừng quá một mức nào đấy, để đừng thâm vào cái vốn mà y đã quyết tâm giữ nguyên vẹn. Tóm lại một chữ là lời giáo huấn của cha: cóp nhặt cho nhiều kôpêk, đã có kết quả vậy. Nhưng mà có phải y thích tiền chỉ vì tiền đâu; y không hề bủn xỉn, keo kiệt. Không. Y ao ước được một đời sống hoan lạc, chẳng thiếu thức gì; xe ngựa, lâu đài, tiệc tùng; đầu óc y luôn luôn nghĩ đến cái cảnh ấy. Và để cho những điều ao ước được thực hiện, y lo cóp nhặt cho nhiều kôpêk, bắt mình nhịn đủ mọi thứ và cũng từ chối tất cả mọi thứ đối với người khác. Mỗi lần gặp một anh nhà giàu đi chiếc xe đẹp với cỗ ngựa yên cương lộng lẫy; y tần ngần đứng lặng như bị thôi miên; hồi lâu mới chợt tỉnh và nói một mình:
- Thằng cha ngày trước chỉ làm công hiệu buôn: tóc cắt tròn phía sau gáy!
Tất cả những gì có mùi giàu sang và xa xỉ đều tác động sâu sắc đến y; và chính y cũng không hiểu được tại sao như thế nữa.
Học xong, y cũng không muốn nghỉ ngơi ít lâu; vì y thật nóng lòng muốn ra tay xây dựng cơ nghiệp. Mặc dù đã có những chứng thư rất tốt, y cũng phải chật vật mãi mới xin được việc làm ở Kho bạc; dù là ở một cái tỉnh xép, cũng phải có thần có thế chứ! Cái chức vụ xin được ấy cũng nhỏ mọn lắm: ba mươi hay bốn mươi rúp gì đấy một năm! Nhưng y thì đã quyết tâm hăng hái phụng sự và vượt qua mọi khó khăn. Quả nhiên, y tỏ ra khắc khổ, nhẫn nại, quên mình một cách phi thường. Từ sáng đến chiều, chẳng hề mệt mỏi về cơ thể cũng như về tinh thần, y chúi mũi vào đống giấy tờ, sao sao, chép chép; không về nhà nữa, ngủ luôn ở sở, trên bàn làm việc; thỉnh thoảng ăn chiều cả với bọn gác; thế nhưng y vẫn sạch sẽ, quần áo chỉnh tề, vẻ mặt dễ ưa, và cử chỉ còn có vẻ quý phái nữa. Cần phải nói rằng những kẻ đồng sự với y thì trái lại, nổi bật vì người xấu nết hư. Có người thì cái mặt như cái bánh mỳ nướng chưa chín; một má phồng lên, cái cằm lệch hẳn sang một bên, môi trên sưng húp như cái nhọt và lại còn nẻ ra nữa; thật là khủng khiếp. Người nào cũng nói năng thô lỗ như sắp sửa đánh nhau. Họ thường là đệ tử của Baccux {Đệ tử của Baccux nghĩa là người nghiện rượu, vì Baccux là tên La tinh của thần rượu nho Điônyzôx trong thần thoại Hy Lạp} và chứng tỏ rằng bản chất Xlav còn giữ nhiều tàn tích tà giáo {Các đạo Cơ đốc gọi các tín ngưỡng khác, nhất là các tín ngưỡng có từ trước thời Thượng cổ, là tà giáo cả}; nhiều khi họ đến sở mà còn ngà ngà say, khiến cho không khí không thể nào thở được vì sặc sụa những mùi, không phải là mùi hương liệu. Dĩ nhiên, giữa đám người cạo giấy ấy, Tsitsikôp trông khác hẳn; người ta không thể không để ý đến y được; vẻ mặt y khỏe mạnh, giọng nói y dễ ưa, và y hoàn toàn không rượu chè gì cả. Tuy vậy, con đường của y vẫn lắm khó khăn. Y ở dưới quyền một viên thủ trưởng là một lão già hoàn toàn sắt đá, tuyệt đối chẳng biết xúc cảm là gì: không bao giờ mỉm một nụ cười trên bộ mặt trơ trơ; không bao giờ nói với ai một lời tử tế, dù chỉ là hỏi thăm sức khỏe. Chưa có người nào được thấy lão thoáng bỏ cái thái độ lạnh lùng của lão, dù ngoài phố hay ở nhà. Có bao giờ lão tỏ chút cảm tình với ai lấy một lần chăng; lão rượu vào, rồi trong cơn say, có thể cười một cái chăng; lão quên mình trong cái vui man rợ mà một tên tướng cướp, khi đã say cũng không từ chối chăng? Không bao giờ; tất cả những chuyện ấy đối với lão đều xa lạ. Chẳng chút tình cảm nào làm cho lão có sinh khí lên cả; và cái tình trạng hoàn toàn vô cảm giác ấy có một cái gì thật là ghê gớm. Bộ mặt trơ như đá, không có chút gì bất cân xứng đáng chú ý cả, không gợi lên một cái gì tương tự cả; bộ mặt ấy đều đặn một cách thật là khắc bạc. Chỉ có những vết rỗ đậu mùa làm cho nó lỗ chỗ và xếp nó vào cái loại mặt mà, theo lối nói dân gian, ban đêm quỷ sứ dùng để giã đậu.
Là con người thì thật chẳng thế nào mà tranh thủ nổi cảm tình của một kẻ như thế; nhưng Tsitsikôp cũng cứ thử. Trước tiên, y cố làm cho lão hài lòng cả trong những việc nhỏ nhất; y xem kỹ cách gọt các bút lông mà lão thường dùng, rồi theo kiểu ấy mà gọt mấy chiếc, đem để một chỗ mà cứ mỗi lúc cần là lão có sẵn ngay; y phủi sạch cát {Thời ấy viết bằng cọng lông ngỗng và dùng một cái túi cát con để chấm mực, như ta dùng giấy thấm ngày nay} và vụn thuốc lá ở bàn làm việc của lão; kiếm cho lão những cái giẻ chùi bút, chùi mực sạch sẽ; không bao giờ quên mang mũ đến cho lão, một cái mũ thổ tả, đúng một phút trước khi về; chải cả lưng áo cho lão những khi bị dính vôi, vì lão tựa vào tường. Nhưng viên thủ trưởng ấy vẫn không thèm lưu ý và xem như chẳng có việc gì xảy ra cả. Sau cùng, y đi hẳn vào đời sống gia đình của lão; được biết rằng lão có một người con gái, cũng đã lớn tuổi, rất giống bố vì cũng có cái mặt mà ban đêm quỷ sứ dùng để giã đậu. Y quyết tấn công về phía ấy. Y hỏi xem chúa nhật cô ta đi lễ nhà thờ nào; rồi lần nào cũng quỳ ngay trước mặt cô ta, quần áo lịch sự, vạt trước sơ mi hồ cứng. Cái trò ấy thế mà cắn câu; viên trưởng phòng kho bạc phải xiêu lòng và mời y về nhà cùng uống trà! Ở sở chưa ai kịp hay biết gì cả, thì mọi việc đã thu xếp ổn thỏa đến nỗi Tsitsikôp dọn đến ở nhà lão, và thành ngay một người rất cần thiết: y đi mua bột, mua đường, y xem cô gái như vợ chưa cưới, gọi ông bố là “ba” và hôn tay lão. Ở Kho bạc, ai cũng nghĩ rằng đám cưới sẽ được cử hành vào cuối tháng hai, trước tuần Chay. Ông trưởng phòng kho bạc chạy chọt, xin xỏ quan trên cho Tsitsikôp, và ít lâu sau, khuyết một chức trưởng phòng, y liền được bổ vào chức ấy. Hình như mục đích chính trong quan hệ của y với ông công chức già thế là đạt được rồi; nên y liền bí mật chuyển hòm xiểng đi, và ngay hôm sau thì dọn đi ở chỗ khác. Y thôi không gọi lão là ba và không còn hôn tay ông ta; còn việc đám cưới thì tuyệt nhiên không nghe nói đến nữa. Tuy vậy, mỗi lần gặp ông lão, y cũng không quên bắt tay ông ta rất thân tình, và mời ông ta uống ly trà; đến nỗi ông lão, dù xưa nay vẫn không biết xúc cảm, cứ trơ trơ như mặc một bộ áo giáp, lần nào cũng phải lắc đầu lẩm bẩm: “- Nó lừa mình, nó lừa mình, con nhà yêu quái”.
Cái bước khó khăn nhất thế là đã vượt qua; cuộc đời của nhân vật chúng ta nhờ thế đã được thảnh thơi hơn. Y chóng thành một người có địa vị cao; vì có đủ mọi đức tính cần thiết cho cái môi trường ấy: lịch thiệp trong cử chỉ, quyết đoán trong công việc. Với những thủ đoạn như thế, chẳng mấy chốc y kiếm được một chức vụ béo bở, mà y biết khai thác cách tốt nhất. Cần phải nói rằng thời ấy, người ta bắt đầu nghiêm khắc truy tầm những kẻ ăn hối lộ, đủ mọi hạng. Không những không sợ, y còn tức khắc xoay các biện pháp ấy lại thành có lợi cho y, và biểu lộ bằng cách ấy cái tài khôn khéo của người Nga, cái tài thường chỉ thức tỉnh trong những lúc bị nhũng nhiễu. Đây, công việc diễn ra như thế này: Khi một người đến thỉnh cầu, thò tay vào túi rút ra những thư giới thiệu ký tên công tước Khôvanxki {Công tước A.N.Khôvanxki, giám đốc ngân hàng Nhà nước từ 1818 tới 1857, là người ký nạp mọi thứ giấy bạc phát hành ở Nga trong thời gian ấy; thành ngữ này chỉ giấy bạc Nga} - như người ta thường nói ở nước Nga chúng ta - thì y liền giữ tay người ta lại, mồm mỉm cười và nói:
“- Không, không, chắc ngài nghĩ rằng chúng tôi… Không, không! Bổn phận chúng tôi phải làm, không có chút thưởng công nào đâu! Ngài chẳng phải lo ngại gì cả, nội ngày mai là mọi việc xong xuôi hết. Xin ngài cho biết địa chỉ và cứ yên tâm: chúng tôi sẽ cho mang mọi thứ đến tận nhà”.
Người thỉnh cầu mê tín, ra về hoan hỷ, phấn khởi và nghĩ bụng: “- Đấy, nay mới thấy một người như thế; cần phải có rất nhiều người như thế nữa! Thật là một viên ngọc quý!”. Nhưng một ngày qua, rồi hai ngày, chỉ mất công chờ, chẳng thấy ai đến cả; ngày thứ ba cũng trôi qua nốt, vẫn chẳng thấy gì! Người thỉnh cầu vội vàng đến công sở. Việc của anh ta vẫn chưa hề được bắt đầu giải quyết. Anh ta liền hỏi ngay viên ngọc quý.
- Ấy chết! Xin lỗi ngài! Tsitsikôp rất lịch sự, vừa nói vừa cầm tay anh ta. Thật chúng tôi bận quá sức; nhưng nội ngày mai thì mọi việc đều xong xuôi cả; vâng, ngày mai, chắc chắn như vậy! Chúng tôi lấy làm xấu hổ quá đi mất!”
Kèm theo những lời nói ấy là những cử chỉ rất duyên dáng. Nếu trong khi nói chuyện mà một vạt áo của y hơi lệch, thì y vội vàng sửa lại cho ngay ngắn và cố giữ lấy cho khỏi lệch nữa.
Nhưng, ngày hôm sau, rồi những ngày hôm sau nữa, cũng chẳng thấy giấy má gì đem đến nhà cả. Người thỉnh cầu đâm ra suy nghĩ: “Này, chắc có điều gì đây?”; anh ta hỏi dò thì người ta cho biết là phải cho bọn nha dịch ít nhiều gì.
- Có phải tôi không cho đâu… tôi sẵn lòng đưa một rúp, hai rúp.
- Không, một rúp, hai rúp thế nào? Phải một tờ bạc trắng cơ đấy {Giấy bạc hai mươi rúp}.
- Cho bọn nha dịch những một tờ bạc trắng cơ à? Người thỉnh cầu kêu lên như thế và lại được người ta cho biết rõ ràng:
- Khoan hãy nổi nóng! Đúng như thế đấy, một rúp cho bọn nha dịch, còn lại là phần quan trên.
Người thỉnh cầu kém tinh ý đánh bốp vào trán mình một cái và nguyền rủa cái trật tự mới của sự thật, việc truy tầm những vụ hối lộ {Kiểm duyệt thay việc truy tầm những vụ hối lộ bằng những tục lệ mới} và những kiểu cách lịch sự của bọn công chức. Anh ta nghĩ: ngày trước ít ra người ta cũng biết phải làm gì: người ta đút một tờ bạc đỏ {Giấy bạc mười rúp} cho lão thủ trưởng, thế là công việc xong xuôi; ngày nay thì phải một tờ bạc trắng, mà phải mất một tuần mới đoán ra được phải làm gì… “Vứt mẹ tấm lòng vô tư và phẩm chất cao quý của bọn công chức đi!”. Người thỉnh cầu nói đúng, thật thế; nhưng mà ngày nay, còn có ai là người ăn hối lộ nữa? Tất cả mọi vị thủ trưởng đều thanh liêm, chính trực, hoàn thiện, hoàn mỹ; chỉ có bọn thư lại, bọn ký lục là đồ ăn cắp mà thôi.
Sau đó ít lâu thì một trường hoạt động rộng hơn mở ra cho Tsitsikôp; một ủy ban được lập ra để coi việc xây dựng một công thự khá quan trọng. Y tham gia và tỏ ra một ủy viên hoạt động nhất. Các ủy viên bắt tay ngay vào việc. Sáu năm trời họ quanh quẩn bên cái nhà; nhưng hoặc giả vì khí hậu gây trở ngại, hoặc giả vì vật liệu kém phẩm chất, mà tòa nhà chưa bao giờ thấy nhô lên khỏi móng. Trong lúc ấy, ở những nơi khác trong thành phố, mỗi ủy viên đều thành ra chủ nhân của một ngôi nhà xinh xắn, xây theo kiểu kiến trúc tư sản; dĩ nhiên đất ở những nơi ấy tốt hơn ở đây nhiều. Các ngài ấy bắt đầu phất và lập gia đình. Đến lúc ấy, Tsitsikôp mới nới dần những quy tắc buộc mình phải nhịn ăn, nhịn mặc, quên mình một cách khắc khổ, nghiêm khắc. Y quyết định chấm dứt lối sống trường trai khổ hạnh, và bấy giờ mới tỏ ra là xưa nay y vẫn thích đủ mọi lạc thú, nhưng y đã biết nhịn hết trong suốt thời thanh niên sôi nổi mà thường không một người nào có thể chế ngự tất cả dục vọng của mình được. Y bắt đầu xa xỉ, mướn một đầu bếp khéo, mặc những sơ mi Hà Lan {Bấy giờ vải Hà Lan rất nổi tiếng mịn, đẹp}. Y đã mua toàn thứ dạ mà chẳng ai biết mặc ở tỉnh nhỏ cả, và từ đấy y đã thích cái màu tía lốm đốm; y đã tậu một đôi ngựa đẹp và tự tay cầm cương bắt con ngựa rẽ một vòng cho đẹp; y đã quen gội đầu với ô đo Côlôn; y đã mua rất đắt thứ xà phòng thơm có đặc tính làm cho da dẻ mịn màng; y đã…
Nhưng thủ trưởng cũ, một con người nhu nhược, phải thay bằng một thủ trưởng mới, võ quan nghiêm khắc, kẻ thù quyết liệt của mọi thứ tham ô, lợi dụng và tất cả những gì bất công, bất chính. Nhận thức hôm trước là hôm sau ông ta đã làm cho mọi người phải khiếp sợ; ông ta bắt báo cáo tài chính, thấy có nhiều việc làm bất hợp pháp và mục nào trong sổ sách cũng hụt tiền cả, vì các công chức đã xây những nhà đẹp theo kiểu kiến trúc tư sản; thế là bắt đầu một cuộc thanh trừng đúng phép. Những kẻ can phạm bị cách chức; những nhà đẹp xây theo kiểu kiến trúc tư sản tịch thu làm của công và sửa sang thành nhà tế bần và thành trường học cho thiếu sinh quân. Tất cả mọi người đều bị trị cẩn thận và Tsitsikôp bị nặng hơn tất cả. Mặt mày y tuy dễ ưa, vẫn làm cho thủ trưởng không thể chịu được; tại sao thì họa có trời biết; nhưng trong những trường hợp như thế thì thường cũng chẳng tại sao cả; dù sao thì đối với y, ông ta thật ghét cay, ghét đắng. Con người dữ dội ấy quả là ghê gớm với tất cả thuộc lại; nhưng ông ta là quan võ vì vậy mà chẳng biết tí gì về tất cả những mánh khóe, mưu mẹo của bọn quan văn; nên chỉ ít lâu là bọn quan chức khác, nhờ cái vẻ giả vờ liêm chính và khéo léo chiều theo ý ông ta về tất cả mọi mặt, đã len lỏi vào được lòng tin cậy ông ta; thế là chẳng mấy chốc viên tướng {Nga hoàng Nikôlai I tin dùng bọn quan võ, thường bổ họ vào các chức quan viên. Với mục đích quân sự hóa bộ máy nhà nước, nước Nga thành một trại lính. Kỷ luật nghiêm khắc, kiểm duyệt bắt Gôgôn thay các chữ viên tướng bằng thủ trưởng} đã sa vào tay một bọn ăn cắp còn tệ hơn bọn trước nhiều, mà ông ta tuyệt nhiên chẳng chút nghi ngờ gì cả. Ông ta lại còn mừng cho mình là đã chọn được cho mình những người xứng đáng và khoe khoang cẩn thận cái đức thính nhậy của mình biết phân biệt những người có khả năng. Chẳng mấy chốc bọn công chức đã hiểu rõ tính khí của ông ta. Tất cả những ai là thủ phạm của ông ta đều thành ra những kẻ thù không đội trời chung của sự bất công; họ truy tầm nó khắp nơi, như người đánh cá, lăm lăm cái lao đuổi theo con cá chiên to béo; và cuộc săn vô tiền, tuyệt hậu ấy thành công đến nỗi chỉ ít lâu là mỗi một người được vài nghìn rúp làm vốn liếng rồi. Đồng thời, nhiều công chức cũ, đi vào con đường cải tà quy chính, cũng được phục chức. Nhưng Tsitsikôp thì mặc dù cố gắng đến đâu, cũng không thể nào len lỏi vào lòng tin cẩn của ông ta được. Viên bí thư thứ nhất của ông tướng - mà y đã kích thích với những thư giới thiệu của công tước Khôvanxki - và xưa nay vẫn xỏ dây vào mũi của ông ta và dắt một cách tài tình; đã cố hết sức xin cho y phục chức, nhưng không ăn thua. Vì ông tướng, tuy đã cho người xỏ mũi dắt đi (vả chăng ông ta cũng chẳng ngờ đến việc ấy), nhưng mà cứ thế thôi: mỗi khi mà một ý kiến nào đã vào sâu trong óc ông ta thì nó cứ cắm vào đấy chắc như đinh đóng, và chẳng có cái gì có thể nhổ nó ra được nữa. Tất cả ân huệ mà người bí thư khôn khéo đã cố xin được cho Tsitsikôp là xóa bỏ những lời phê có hại trong lý lịch của y, và muốn được thế là viên bí thư đã phải cố làm cho vị thủ trưởng mủi lòng, bằng cách mô tả với những màu sắc rất đậm, số phận thảm thương của gia đình khốn khổ của Tsitsikôp; nhưng may thay, cái gia đình đó chỉ có trong tưởng tượng.
“- Thôi, chẳng cần gì nữa! Tsitsikôp tự nhủ như vậy: đã móc thì kéo; nhưng đứt rồi thì thôi, hỏi làm gì nữa; kêu cũng vô ích. Khóc lóc cũng chẳng được gì; phải bắt tay vào làm lại sự nghiệp thôi”. Thế là y quyết tâm xây dựng lại cơ đồ khác; lại kiên trì, nhẫn nại, lại nhịn ăn, nhịn mặc: dù trước đây y rất thích để cho mọi thứ thèm muốn tự do phát triển. Y phải đổi chỗ, đến ở thành phố khác, cố xuất đầu lộ diện nơi khác. Nhưng cũng không ăn thua. Trong một thời gian rất ngắn, y phải thay đổi việc làm hai, ba lần. Toàn là những việc ghê tởm, hèn hạ cả. Phải biết rằng Tsitsikôp là con người đoan trang đứng đắn nhất, chưa từng thấy bao giờ. Dù lúc mới ra đời, bắt buộc phải lui tới một xã hội thô lỗ, y vẫn giữ được trong sạch, đến tận nơi sâu thẳm của tâm hồn; y chỉ thích làm việc trong những công sở mà bàn ghế toàn gỗ đánh vecni và tất cả mọi thứ đều có vẻ sang trọng. Không bao giờ y có thể buột mồm nói ra một lời khiếm nhã; và thấy những kẻ đồng sự tỏ ra thiếu cung kính với chức tước và phẩm hàm, bao giờ y cũng lấy làm khó chịu. Chắc bạn đọc lấy làm thích, tôi tin như thế, khi được biết rằng y thay quần áo lót hai ngày một lần; và mùa hè nóng nực thì mỗi ngày một lần; bất cứ mùi gì, dù hơi khó chịu một tí, cũng xúc phạm đến khứu giác của y. Bởi vậy, mỗi khi Pêtruska tới cởi áo hay tháo ủng cho y bao giờ cũng nhét một chiếc hoa cẩm chướng vào trong mũi. Trong nhiều trường hợp, y dễ xúc cảm, chẳng khác nào một cô thiếu nữ; bởi vậy mà phải ở trong một môi trường sặc mùi rượu mạnh và đầy những cử chỉ thô lỗ, đối với y quả là khó chịu vô cùng. Dù cố nhẫn nhịn đến đâu thì trong những lúc vận bĩ ấy, y cũng gày tọp và xanh hẳn đi. Trước kia y đã bắt đầu béo ra, thân hình đã phì nộn, tròn trĩnh, nhìn đã bệ vệ; như bạn đọc đã từng quen biết. Đã nhiều phen, ngắm mình trong gương, y bỗng nảy ra những ý nghĩ vui tươi: một người vợ trẻ, mấy đứa con ngoan, và y mỉm cười; nhưng giờ đây, tình cờ nhìn lại mình, y bất giác buột mồm kêu lên: “- Ôi! Thánh mẫu! Mình xấu đến thế này cơ à?”. Và mãi rất lâu về sau, y vẫn không muốn soi gương nữa.
Nhưng, nhân vật của chúng ta chịu đựng tất cả với một lòng nhẫn nhục phi thường và cuối cùng được vào làm ngành thuế quan. Phải nói rằng y thầm mơ, trộm ước được vào cái ngành ấy từ lâu. Y đã được thấy những nhân viên thuế quan có bao nhiêu là đồ vật đẹp, quý từ ngoại quốc đưa vào: nào là đồ sứ, nào là vải mịn mà họ gửi cho chị, em, cô, dì, cho bạn gái họ. Đã nhiều phen, thở dài, y tự nhủ: “- Đấy là nơi mà ta nên vào! Ở gần biên giới, đi lại với những người văn minh, và có thể dễ dàng kiếm được những chiếc sơ mi Hà Lan mịn biết bao!”. Phải nói thêm rằng y còn nghĩ đến một thứ xà phòng Pháp có đặc tính làm cho đôi má tươi tắn và da dẻ trắng trẻo lạ thường; y không biết tên thứ xà phòng ấy là gì, nhưng tin chắc là có thể tìm thấy ở biên giới. Vậy là ngành thuế quan đã làm cho y say mê từ lâu; nhưng những cái lộc của ủy ban xây dựng nhà cửa còn giữ y lại; vì y nghĩ rất có lý rằng sở thuế quan thì như con hạc, nhưng còn bay trên mây; mà ủy ban xây dựng thì như con chim sẻ núi, nhưng đã cầm trong tay; không nên bỏ mồi bắt bóng. Nhưng giờ đây thì y đã quyết, thế nào cũng phải vào đấy cho được và y đã vào được.
Trong chức vụ mới, y tỏ ra nhiệt thành, mẫn cán phi thường, đến nỗi người ta phải tưởng rằng trời vốn sinh ra y để làm nhân viên thuế quan. Chưa bao giờ thấy có người tháo vát, sâu sắc, tinh ý đến như thế; mà cũng chưa bao giờ nghe nói là có người như thế nữa cơ. Chỉ trong ba, bốn tuần là y đã thông thạo hết mọi mánh khóe trong nghề, đến mức không còn gì làm cho y phải lúng túng nữa hết: không cần cân, cũng chẳng cần đo, chỉ liếc nhìn hóa đơn là y biết ngay một tấm dạ hay vải nào khác dài mấy arsin: chỉ cần xách một kiện hàng lên là y xác định đúng được trọng lượng. Còn trong việc khám hành lý của khách, thì theo lời các bạn đồng sự, y đã có cái thính của một con chó săn. Người ta chỉ có thể ngạc nhiên về sự kiên nhẫn của y khi khám xét từng cái cúc, cái khuy một, với một vẻ bình tĩnh không hề nao núng, một cái lễ độ không thể chịu được. Trong khi những người bị khám sốt ruột, điên tiết, phát khùng lên, khó mà kìm được cái ý muốn giận dữ nện cho y một trận; thì y vẫn không hề thay đổi sắc mặt, vẫn lễ phép như thường lệ và nói:
- Xin phiền ngài, ngài làm ơn đứng dậy cho chúng tôi nhờ một tí; hay là: - Thưa bà, mong bà quá bước sang buồng bên, ở đấy vợ một bạn đồng sự của chúng tôi sẽ nói chuyện với bà; hay là: - Xin phép, cho chúng tôi được tháo lần lót của chiếc măng tô này; và vừa nói, y vừa rút ra nào là khăn san, nào là mùi soa, với cái vẻ bình tĩnh như y lấy từ hòm mình ra vậy.
Chính các cấp trên của y cũng phải ngạc nhiên và nói rằng y là quỷ sứ hiện hình; y bắt ra hàng lậu trong bánh xe, càng xe, trong tai các con ngựa và nhiều chỗ khác mà không một tác giả nào dám nghĩ đến việc sục vào; chỉ nhân viên thuế quan là cho phép làm việc ấy. Người hành khách khổ sở vừa qua biên giới là không thể không mất mấy phút mới trấn tĩnh được; và vừa làm dấu thánh giá, vừa lẩm bẩm; “- Ấy, ấy!”. Tình cảnh anh ta chẳng khác gì tình cảnh một cậu học trò vừa ra khỏi phòng giấy ông hiệu trưởng, sau khi được gọi vào với cái cớ là để nghe quở mắng thôi, nhưng lại bị vụt một trận khá bất ngờ.
Chỉ trong một thời gian ngắn là y làm cho bọn buôn lậu hết cách xoay sở. Y là cơn ác mộng, là vị hung thần của tất cả các tên Do Thái, Ba Lan. Đức tính liêm khiết không thể nào mua chuộc được của y, quả không gì lay chuyển nổi, gần như siêu phàm; đến những thứ vặt vãnh bắt được, mà sở thuế không thu để tránh bớt giấy tờ phiền phức; y cũng chẳng hề giữ lấy làm cái vốn nhỏ. Lòng nhiệt thành và vô tư ấy làm cho mọi người phải ngạc nhiên và chóng đến tai cấp trên. Y được thăng chức; rồi sau đấy y trình một kế hoạch lùng bắt cho kỳ hết bọn buôn lậu và chỉ xin phương tiện để tự mình thực hiện lấy kế hoạch. Người ta liền cho y một toán quân với toàn quyền tiến hành tất cả mọi cuộc lục soát. Đó chính là điều mà y mong muốn như vậy. Thuở ấy, có một hội buôn lậu thế lực rất to, tổ chức rất chặt chẽ, và hoạt động rất táo bạo; có thể đem lại cho hội viên những món lãi hàng triệu. Từ lâu, y đã biết mọi việc; nhưng với bọn phái viên đến mua chuộc, y chỉ trả lời cụt ngủn: “- Chưa đến lúc”.
Khi đã được toàn quyền hành động, y tức khắc báo cho hội biết: “- Đã đến lúc!”. Việc này làm là ăn chắc. Chỉ một năm là y có thể kiếm được nhiều hơn hai mươi năm phụng sự trung thành và lương thiện. Trước đấy y không muốn bắt mối với bọn buôn lậu; vì còn ở địa vị phụ thuộc, y chắc là chúng chẳng cho được bao lăm; nhưng bây giờ… bây giờ thì khác; y có thể ra bất cứ điều kiện gì cũng được. Để tránh những khó khăn, y mua chuộc một kẻ đồng sự; lão này, dù tóc đã hoa râm, vẫn không thể chống lại nổi sự cám dỗ. Ăn ý với nhau cả rồi, hội buôn bắt đầu hoạt động. Bước đầu đã thành công rực rỡ. Bạn đọc chắc có biết câu chuyện khá truyền tụng và lý thú về những đàn cừu qua biên giới với bộ lông hai lớp và nhập cảnh một triệu bạc đăng ten Brabăng {Brabăng là một tỉnh của nước Bỉ} lậu thuế. Việc ấy xảy ra chính trong thời mà Tsitsikôp phụng sự ngành thuế quan. Nếu y không tham gia thì chẳng có một tên Do Thái nào trên đời này có thể đưa cái chuyến kinh doanh ấy đến thành công được cả. Sau khi cừu quá quan được ba, bốn bận như thế, thì hai công chức đã được cái vốn ba mươi vạn rúp. Tsitsikôp, theo người ta nói, thì đã vượt cái số nửa triệu; vì y táo bạo hơn. Có Chúa biết được là những món tiền quá may mắn ấy sẽ đạt đến con số khổng lồ như thế nào, nếu không có việc bất hòa xảy ra, quỷ sứ đã chơi cho hai công chức một vố độc: họ cãi nhau, rồi đâm ra thù nhau chỉ vì một chuyện không đâu. Trong một bữa rượu vào, lời ra khá ầm ĩ; Tsitsikôp, có lẽ sau khi đã quá chén, gọi bạn đồng liêu là “Đồ con ông pôp” {Nguyên văn là pôpôvits}; dù đúng như vậy thật, lão kia cũng giận xanh mắt, không hiểu tại sao; và cãi lại, giọng gay gắt:
- Không phải, cậu nói dối; tớ là tư vấn quốc gia, chứ không phải là con ông pôp; cậu mới là “con ông pôp”
Một lát, lão nhắc lại: “Ừ đúng thế”.
Dù đã giã được y, đã miếng trả miếng như vậy rồi; lão vẫn chưa cho là đủ và đã gửi một cái đơn nặc danh tố giác y nữa. Vả lại, người ta cho rằng hai bên đã cãi lộn nhau vì một cô ả lẳng lơ, thịt chắc và mát như củ su hào nõn, theo lối nói của các nhân viên thuế quan; và có cả những đứa đã được thuê tiền để rình đả nhân vật của chúng ta một trận, lúc trời nhá nhem, trong một ngõ hẻm tối tăm; nhưng sau cùng thì cả đôi tình địch đều bị lừa và con mẹ vui tính kia rơi vào tay một lão thượng úy Samsariôp nào đấy. Sự thật đã xảy ra như thế nào, người ta không biết; hãy để cho bạn đọc tưởng tượng lấy, nếu bạn muốn. Cái chính là những quan hệ bí mật với bọn buôn lậu bị vạch ra cả. Viên tư vấn quốc gia tự hại mình và hại luôn cả bạn đồng liêu. Hai công chức bị đưa ra tòa; tất cả của cải bị tịch thu, sung công; chẳng khác nào sét đánh ngang đầu. Như chợt tỉnh rượu, họ hoàn hồn và kinh khiếp về việc họ đã làm. Ông tư vấn quốc gia không chống chọi lại được với số phận và qua đời ở một nơi hẻo lánh {Câu này là Gôgôn viết lại để thay vào một câu như sau, mà kiểm duyệt bỏ: ông tư vấn quốc gia, tiêu sầu trong cốc rượu, theo đúng phong tục Nga}; nhưng ông tư vấn bộ thì vẫn vững. Mặc dù các nhà chức trách theo dõi y đều rất thính, y cũng giấu được một phần của cải và vận dụng tất cả mọi thủ đoạn của bộ óc y, cái vốn kinh nghiệm già dặn của y, để tự vệ. Khi thì nhờ những cử chỉ duyên dáng; khi thì nhờ những lời lẽ cảm động; khi thì nịnh hót, việc ấy chẳng bao giờ có hại cả; lúc khác thì dùng sức thuyết phục của kim tiền và y đã khéo thu xếp, nên đã khỏi bị lột hết phẩm hàm một cách ô nhục như ông bạn đồng liêu, lại khỏi phải truy tố nữa. Nhưng mà phải từ giã cái vốn cóp nhặt được, với mọi thứ vặt vãnh nhập từ nước ngoài; và tất cả những cái ấy đều tìm được người ưa thích cả. Y chỉ còn giữ lại được mười nghìn rúp cất giấu riêng, phòng những khi bất trắc, hai tá sơ mi vải Hà Lan mịn, chiếc britska thông dụng của những kẻ độc thân và hai nông nô: xà ích Xêlifan và tòng bộc Pêtruska; cuối cùng, vì từ tâm, các nhân viên thuế quan để lại cho y được vẻn vẹn năm hay sáu bánh xà phòng con để giữ cho da dẻ tươi tắn.
Đó là cái tình cảnh của nhân vật của chúng ta lại bị sa sút vào! Đó là những cơn bất hạnh trút xuống đầu y như mưa rào; đá đổ! Đó là cái mà y gọi là “đau khổ trong sự nghiệp vì chân lý”. Bạn có thể nghĩ rằng sau những giông tố, những sự thử thách, những bước thăng trầm, và những nỗi thất vọng đến như thế; thì y sẽ rút lui với cái vốn con, vào cái cảnh tĩnh mịch, an nhàn của một thị trấn nhỏ; để suốt đời sống lười biếng, không rời cái áo ngủ vải bông và chỗ ngồi cạnh cửa sổ của một ngôi nhà con; ngày chúa nhật ra hòa giải một đám mujik đả nhau ở cạnh nhà hay tiêu khiển bằng cách xuống chuồng gà, tự tay nắn nắn con gà mái sắp đem hầm; rằng y sẽ sống như vậy một cuộc đời không tiếng tăm, nhưng không phải không có ích. Nhưng sự việc lại không như thế. Cũng phải công nhận rằng cá tính của y thật là mãnh liệt, bất khuất. Sau tất cả những cái có thể, nếu không giết chết được một con người, thì ít ra cũng làm cho nó phải nguội lạnh, phải bị áp phục y vẫn hăng hái, không hề nhụt chí; thật là khó hiểu. Ngao ngán, uất ức quá, y nguyền rủa tất cả thiên hạ; y nổi giận vì sự bất công của số phận, phẫn nộ với sự bất công của loài người; tuy vậy y vẫn không thể chừa mà không xoay sở cách khác được. Y nhẫn nại đến nỗi cái tính nhẫn nại bất động của người Đức, nhờ vào sự lưu thông chậm chạp, lười biếng của máu, mà so với cái nhẫn nại của y thì thật chẳng nghĩa lý gì cả. Trái lại, máu của Tsitsikôp sôi sục; và phải rất nhiều nghị lực mới kìm hãm nổi tất cả mọi manh tâm biểu hiện cái khí chất bồng bột của y ra ngoài. Y lập luận như thế này, và lẽ của y không phải không có chỗ đúng:
“- Tại sao nỗi bất hạnh này lại đổ xuống đầu ta? Thời buổi này có ai để mất thì giờ khi còn tại chức không? Ai mà chẳng làm giàu. Ta có làm hại ai đâu? Ta có bóc lột đàn bà góa bụa, có làm cho ai bị gậy đi ăn mày đâu? Ta chỉ lấy cái của thừa thôi; ở địa vị ta, ai mà chẳng làm thế. Ta mà không lấy, thì kẻ khác cũng chẳng tha. Tại sao người khác thì phát đạt mà ta lại phải thân giun, phận dế thế này? Rồi ta sẽ ra sao đây? Ta làm được việc gì đây? Làm sao ta có thể nhìn một người chủ gia đình đáng kính, mà không hổ thẹn được? Sao mà không phải hối hận vì biết mình sống thừa, làm chật đất như thế này được? Sau này con cái ta sẽ trách móc ta như thế nào? - Bố mình thật là đồ đểu, chẳng để lại cho mình một chút gì cả!”
Ta đã biết là Tsitsikôp rất quan tâm đến dòng dõi. Đó là một vấn đề ai cũng thiết tha. Có thể là người này, người nọ sẽ bớt ăn cắp, ăn trộm; nếu không có cái câu hỏi: “- Rồi các con mình sẽ nói ra sao?” Cứ tự nó hiện ra cho người ta, chẳng ai hiểu tại sao cả. Thế là người chủ gia đình tương lai, tựa hồ con mèo khôn ngoan, liếc nhìn xem chủ có để ý không; rồi vội vàng vồ lấy tất cả những gì vừa tầm nó, dù là xà phòng, dù là thịt mỡ, là nến, hay là một con chim sẻ vàng; bất cứ cái gì rơi vào chân nó là nào nó có để cho thoát.
Nhân vật của chúng ta than thở và rên rỉ như vậy. Nhưng trí óc y, linh hoạt chẳng kém lúc nào hết, mong muốn hành động, chỉ chờ có một kế hoạch là bắt tay vào việc. Một lần nữa, y thu mình lại, sống một cuộc đời kham khổ, tự hạn chế đủ mọi thứ; và lại từ một hoàn cảnh khá giả sa xuống một địa vị thấp hèn. Trong khi chờ được công việc khá hơn, y phải làm người chạy việc; cái nghề trong xã hội chúng ta, chưa được đếm xỉa đến; ở đâu cũng chẳng ai coi ra gì; từ bọn thư lại cặn bã đến những kẻ có việc ủy thác đều khinh thường; người chạy việc bắt buộc phải lê la trong các phòng chờ, sẵn sàng cho thiên hạ xúc phạm… Những cảnh bần cùng bắt buộc y cái gì cũng phải nhận cả.
Trong các việc người ta ủy thác cho y, có việc đi cầm mấy trăm nông nô cho Hội đồng Giám hộ {Hội đồng Giám hộ là một thứ cơ quan quản lý các công ty cho vay. Các nhà nuôi trẻ mồ côi; cũng nhận quản lý trang viên và nông nô mà người ta đem đến cầm; thành lập năm 1763 ở Mạc tư khoa và năm 1772 ở Pêterbua}. Một điền trang đang ở trong cảnh điêu tàn, đổ nát vì dịch gia súc, vì bọn quản lý ăn cắp, vì mất mùa, vì bệnh dịch làm chết nhiều thợ giỏi và sau cùng là vì cái ngu xuẩn của trang chủ đã lên Mạc tư khoa dựng một cái nhà theo đúng kiểu mới nhất; nó ngốn hết sạch gia sản tới đồng kôpêk cuối cùng, đến nỗi chẳng còn gì mà ăn nữa {Về đoạn này, Gôgôn có kể lại ý kiến của hội đồng kiểm duyệt cho Pletniôp nghe trong bức thư ngày 7 tháng bảy năm 1842 như sau: “Ủy viên Karsênôpxki bẻ: - Nhưng Hoàng đế cũng xây ở Mạc tư khoa cả một tòa cung điện thì sao! Nhân đấy, nổi lên giữa các nhà kiểm duyệt một cuộc thảo luận có một không hai trên thế giới:… Với những ý kiến đại khái như thế, họ cấm không cho Những linh hồn chết ra đời}. Rút cục phải cầm cái điền trang cuối cùng này đi. Bấy giờ cầm cố cho Nhà nước còn là việc mới lạ và làm cho người ta rất ngại. Với tư cách là đại quyền cho người đi cầm, Tsitsikôp đã làm cho mọi người đều sẵn sàng giúp đỡ (vì ai cũng rõ là không có sự chạy chọt trước như thế thì không tài nào được hay biết một chút tin tức gì, được sửa chữa một chữ, một con số nào; muốn được việc, cần phải rót vào mỗi cuống họng ít nhất là một chai vang Mađêrax); vậy là Tsitsikôp, sau khi đã làm mọi việc cần thiết, mới nói rõ, để tránh những sự lôi thôi về sau, là một nửa số dân ấp đã chết rồi.
Người thư ký hỏi: - Nhưng chúng vẫn còn tên trong sổ đinh chứ?
Tsitsikôp đáp: - Nhất định rồi.
- Vậy thì việc gì mà ngại? Đứa chết thì đứa đẻ ra; đâu lại vào đấy, chẳng hòa hay sao? {Nguyên văn là: ođin umer, đrugôi rôđitxia, a vxiô v đêlô gôđitxia. Nghĩa là một đứa chết đi, một đứa đẻ ra, mọi việc thỏa đáng cả; ở câu tiếng Nga, rôđixia vần với gôđitxia}
Người thư ký, như ta thấy, nói năng rất có vần. Nhưng lúc ấy, chính là lúc nhân vật của chúng ta bỗng nảy ra cái ý kiến hay nhất xưa nay, chưa bao giờ thấy trong óc một người.
Y nghĩ thầm: “- Mình ngu thật! Đi tìm bao tay, hóa ra bao tay đeo ở thắt lưng. Giá mình mua tất cả những đứa chết, trước khi người ta gửi về những bản điều tra dân số mới; và nếu chẳng hạn mình mua được một nghìn mà Hội đồng Giám hộ cầm cho, đúng hai trăm rúp mỗi nông phu; thì rõ ràng là được cái vốn hai chục vạn rúp rồi còn gì! Bây giờ đang là lúc tốt nhất; nhờ ơn Chúa, một trận dịch vừa giết chết bao nhiêu người. Bọn trang chủ nướng hết tiền vào bài bạc, tiệc tùng, nhiều tay phải đi làm công chức ở Pêterbua; điền trang bỏ mặc, quản lý thế nào thì quản; mỗi năm càng mỗi chật vật thêm mới nộp đủ thuế; đến nỗi anh nào cũng sẽ rất sung sướng để lại cho mình những nông phu chết, dù chỉ là để khỏi phải đóng thuế thân; và có thể nhân dịp này; mình kiếm được ít nhiều kôpêk gì chăng. Tất nhiên, việc cũng khó đấy, gay đấy; mình có thể lại bị tóm và gặp nhiều rắc rối. Nhưng trí thông minh trời cho là để sử dụng cơ mà. May mà cái mẹo này xem có vẻ huyền hoặc, nói ra cũng chẳng ai tin. Thật ra, không có đất thì không thể mua nông phu, cũng không thể cầm được. Nhưng mình sẽ mua nông phu để đưa đi đinh điền, đi đinh điền cơ mà; hiện ở các tỉnh Tavriz và Kherxon, có thể xin được đất mà chẳng mất gì, chỉ với điều kiện là di dân đến ở. Mình sẽ di chuyển tất cả chúng nó đến đấy! Chúng cứ việc mà đến sinh cơ lập nghiệp ở Kherxon! Việc di chuyển có thể tiến hành bằng con đường hợp pháp. Nếu người ta đòi một chứng thư về các nông phu thì cũng chẳng sao; mình có thấy gì trở ngại đâu. Mình sẽ đưa ra một giấy chứng nhận do đại úy - quận trưởng cảnh sát ký. Có thể gọi trại đinh điền là ấp Tsitsikôvô hay là làng Paplôpxkôê, theo tên thánh của mình cũng được”.
Cái kế hoạch lạ lùng nảy ra trong óc nhân vật của chúng ta như thế đấy; đối với kế hoạch ấy, bạn đọc mà không biết ơn chăng nữa thì tác giả cũng phải cảm bội, một lòng cảm bội khó mà tả xiết; vì cái ý kiến ấy mà không đến với Tsitsikôp thì thiên trường ca này đã không ra đời được.
Sau khi đã làm dấu thánh giá, theo tục lệ Nga, y bắt tay vào việc. Lấy nhiều cớ khác nhau, chẳng hạn như tìm một nơi ở; y đi dò xét nhiều miền trong nước ta, nhất là những miền bị thiên tai, mất mùa, chết chóc, tàn phá nhiều hơn cả; tóm lại là những nơi có thể mua những nông phu mà y cần, dễ dàng và giá hời hơn cả. Không phải bất cứ trang chủ nào y cũng hỏi cầu may; mà y chọn người hợp ý mình, hay là người có thể điều đình những việc mua bán như thế không khó khăn gì; y cố làm quen người ta trước; khiến người ta sẵn có thiện cảm với mình, để có thể, thì người ta biếu không, vì tình bạn, chẳng phải mất tiền bạc gì. Vậy thì bạn đọc cũng không nên tức giận tác giả, nếu những nhân vật xuất hiện từ trước tới nay, bạn đều không ưa: đó chỉ là lỗi Tsitsikôp thôi; về mặt ấy thì y là kẻ toàn quyền quyết định, mà chúng ta phải đi theo y đến bất kỳ nơi nào y muốn. Còn ai mà trách chúng ta về vẻ nhạt nhẽo và bộ mặt xấu xa của các nhân vật và các tính cách; thì chúng ta chỉ cần nói rằng mới đọc một tác phẩm, không bao giờ có thể thấy ngay tất cả vẻ rộng lớn của nó được. Mới đến một thành phố, dù là một chốn đế đô, thì bao giờ mà chẳng thất vọng; thoạt tiên, mọi vật đều tẻ nhạt, đơn điệu; nhà máy, xưởng thợ đều ám khói đen sì, chạy dài mãi không hết; rồi trong ánh sáng rực rỡ, trong tiếng ồn ào, náo nhiệt, mới hiện ra những nhà sáu tầng, cửa hàng, tên hiệu, những đường phố thênh thang, thẳng tắp với gác chuông, hàng cột, với tượng, tháp, tất cả cái gì mà bàn tay với thiên tài của con người đã tạo ra để làm cho đôi mắt phải kinh ngạc. Bạn đọc đã chứng kiến những cuộc mua người đầu tiên; những gì xảy ra về sau: những thành công và thất bại của nhân vật; những trở ngại gay go hơn mà y phải vượt qua; những con người lớn lao sẽ xuất hiện; những động cơ bí mật của tấn kịch sắp tác động; chân trời sẽ mở rộng; chủ nghĩa trữ tình sẽ đạt đến mức uy nghi, lộng lẫy; tất cả những cái ấy rồi sẽ đến đúng lúc. Hiện giờ thì còn một đoạn đường dài nữa phải đi nốt, đối với cái cỗ xe lưu động gồm một ông đã quá niên, một chiếc britska thông dụng của những kẻ độc thân, anh tòng bọc Pêtruska, anh xà ích Xêlifan và ba con ngựa mà bạn đọc đã biết tên, từ con Trợ tá đến cái con Vằn xỏ lá ấy.
Đấy nhân vật của chúng ta vẽ đúng chân tướng là như thế! Nhưng để đánh giá tổng kết, chắc người ta sẽ đòi phải vẽ rõ ra một nét dứt khoát: về mặt đạo đức y là người như thế nào? Y không phải là một nhân vật đức hạnh, toàn diện, toàn mỹ; điều đó đã rõ rồi. Vậy y là cái gì? Y là một kẻ vô lại chăng: Tại sao lại là một kẻ vô lại? Tại sao lại nghiêm khắc với người ta quá như thế? Ngày nay chẳng còn ai là vô lại nữa; chỉ toàn những người tử tế, đáng mến cả. Còn những kẻ có thể bị cái nhục ăn bạt tai trước công chúng, thì may ra chỉ tìm được hai hay ba người là cùng; mà chính những người ấy nay cũng đều nói đạo đức cả rồi. Tên gọi đúng nhất cho nhân vật chúng ta phải là: ông chủ - thu mua {Trong bản thảo thứ hai, từ đây cho đến hết đoạn này, Gôgôn đã viết lại những dòng cụ thể và có vẻ trữ tình hơn như sau: Tên gọi đúng nhất là kẻ mưu đồ… Mỗi người chúng ta đều có mưu đồ cả. Có những bạn đọc mếch lòng vì đó là đặc điểm nổi bật của nhân vật của tôi. Nhưng có ai mà chẳng để cho tâm hồn bị một dục vọng chủ yếu xâm chiếm? Như một bạo quân lạnh lùng, lòng lim dạ sắt; dục vọng ấy dần dần giết chết hết mọi khát vọng của người ta. Trong nhiều người, dục vọng rộng lớn hay hẹp hòi, đã phát triển lên, làm cho họ quên những bổn phận lớn lao và thần thánh, để chạy theo những việc nhỏ nhặt không ra gì. Tuân theo một dục vọng nào đấy là chúng ta điên cuồng, mù quáng hy sinh cho nó tất cả; nhưng trong sự lôi cuốn ấy có một thứ say sưa cuồng nhiệt. Tác giả những dòng này cũng có dục vọng của mình; cái dục vọng thu vào những hình tượng rực rỡ, cái ước mơ và ảo tưởng thường đến với nó trong những giây phút kỳ thú mà đôi mắt đăm đăm hướng về một thế giới khác, nó cảm thấy được đưa đi xa khỏi quả đất này. Những phút giây kỳ thú đến với nó trong căn buồng tồi tàn sát mái nhà; ấy là tất cả cuộc đời của nó; cái của đặc hữu trời cho ấy làm cho nó phải nhỏ những giọt lệ cảm niệm. Nó chẳng thèm muốn gì ở thế gian này; nó yêu cảnh nghèo nàn của nó, yêu nhiệt liệt, say đắm như một người yêu. Nhưng mà bạn đọc sẽ không tin đâu, và thế là đúng. Mỗi người đều có quyền tin hay không tin. Người bạn đọc tự để cho một dục vọng thống trị lôi cuốn, mà không hay rằng đó chỉ là một thời thượng độc đoán; người bạn đọc ấy lại luôn khinh bỉ cái dục vọng thu góp của cải, dĩ nhiên là khi anh ta thấy dục vọng ấy ở một nhân vật trường ca; vì trong đời thì anh ta vẫn thích ứng với nó khá tốt… Nhân vật của chúng ta sẽ làm cho lắm bạn đọc chán ghét. Tác giả cũng khá bị thương tổn về điểm ấy. Nhưng mà việc đâu phải thế…}. Cái khao khát thu nhặt là nguyên nhân của mọi sự; chính nó đẩy người ta đến những hành động mà người đời gọi là không sạch sẽ lắm. Thật ra, một cái tính cách loại ấy thì tự nó đã có gì ghê tởm rồi; và có bạn đọc, trong đời thật thì giao du với một con người như thế, tiếp đãi nó trong nhà và sống với nó những lúc rất thích thú; nhưng giá nó thành ra nhân vật của một vở bi kịch hay một thiên trường ca, thì lại nhìn nó với vẻ giận dữ. Nhưng người khôn là kẻ, không những không khinh thường một tính cách, mà lại quan sát nó với cái nhìn sâu sắc và dò xét đến tận nguyên lý của nó. Trong con người ta, cái gì cũng biến đổi rất chóng; chỉ trong một nháy mắt là một con sâu ghê gớm lớn lên trong bản thân chúng ta và hút hết mọi sinh chất của ta. Và nhiều lần, cái dục vọng, rộng lớn hay hẹp hòi, phát triển lên trong một con người, vốn sinh ra để xây dựng một sự nghiệp tốt đẹp, đã làm cho nó quên những bổn phận lớn lao và thần thánh để chạy theo những việc nhỏ nhặt không ra gì. Dục vọng của người ta nhiều vô số; chẳng khác nào cát biển; và có cái nào giống cái nào đâu; nhưng tất cả, dù đê tiện hay cao quý thì khi mới sinh ra, cũng đều lệ thuộc vào người ta, rồi sau đều thành ra bạo chúa đối với người ta cả. Sung sướng thay kẻ chọn được dục vọng cao quý nhất: hạnh phúc vô biên của họ lớn lên, tăng thêm từng giờ, từng phút và càng ngày họ càng vào sâu hơn trong thiên đường vô tận của linh hồn. Nhưng có những dục vọng mà quyền lựa chọn không phải ở con người. Chúng sinh ra cùng một lúc với người và người không đủ sức để tách mình ra khỏi chúng; chúng có một sức thu hút người ta liên miên, trọn đời. Vận số đã định cho chúng đóng một vai trò quan trọng ở thế gian này; dù là dưới một hình thức tối tăm hay như những sự biểu hiện rực rỡ, thế nào chúng cũng chỉ có mục đích: vì một lợi ích mà loài người chưa biết được. Và có lẽ cả cái dục vọng lôi cuốn Tsitsikôp nữa, cũng không phải từ y mà ra; có lẽ cuộc đời ủ ê của y đã mang một cái gì sau này sẽ làm cho mọi người sửng sốt và quỳ gối trước đức hiền minh của thượng đế {Ý Gôgôn định kết thúc Những linh hồn chết bằng việc cải tà quy chính của Tsitsikôp; câu này lộ rõ cái ý ấy}. Vả chăng, việc xuất hiện của con người ấy trong thiên trường ca này đây, bản thân việc ấy cũng đã là một niềm bí ẩn rồi.
Nhưng mà cái nặng nề không phải là việc nhân vật làm cho người ta không ưa; mà là điều chắc chắn tuyệt đối rằng chính nhân vật ấy, chính cái thằng cha Tsitsikôp ấy, lại có thể làm hài lòng các bạn đọc. Giá mà tác giả không dò vào tận những uẩn khúc của tâm hồn y, xáo trộn những cái gì trốn tránh ánh sáng ở tận chốn sâu thẳm, phát giác ra những tư tưởng thầm kín nhất mà người ta không bao giờ ngỏ với ai; giá tác giả chỉ giới thiệu y như y đã ra mắt Manilôp và bà con trong thành phố; thì mọi người đã say mê và cho y là một con người lý thú. Chẳng cần gì đó là bộ mặt, một con người cứ chấp chới như một ảo ảnh không chút sinh khí; chỉ biết là đọc xong cuốn sách, tâm thần không bị hoang mang, người ta yên tĩnh trở lại với cái bàn đánh bài, rất thân thiết với toàn thể nước Nga. Vâng, bạn đọc thân mến ạ, bạn không muốn thấy nỗi thống khổ của nhân loại bóc trần ra. Bạn bảo: “- Ích gì? Tự chúng tôi, há chúng tôi không biết rằng trong đời có nhiều cái đáng khinh và vô lý lắm hay sao? Cơ hội được nhìn thấy những cảnh nặng nề nào có thiếu đâu. Hãy trình bày cho chúng tôi xem những bức tranh đẹp đẽ, hấp dẫn có hơn không? Để chúng tôi vui chơi cho khuây khỏa có hơn không?” .
Một trang chủ bảo người quản lý rằng: “- Này chú, sao lại đem chuyện điền trang làm ăn không ra gì mà nói với tôi? Tôi biết rõ rồi, chú ạ; chú không có gì khác nói với tôi nữa sao? Chú để cho tôi quên đi, đừng biết đến nữa; thế là tôi được sung sướng”.
Và thế là số tiền có thể vãn hồi được tình thế, lại hoang phí vào nhiều cách mua vui, giải phiền cho ông chủ. Một cái trí tuệ, có thể dồi dào phương sách ứng biến với thời cơ lại ngủ lì; trong lúc ấy thì điền trang phải đem bán đấu giá; rồi thì trang chủ đi khắp thế gian để tìm cách khuây khỏa, nhưng tâm hồn đầy oán hận và sẵn sàng làm những việc đê tiện mà trước đây hắn vẫn ghê tởm.
Tác giả lại còn vấp phải những lời buộc tội của những người tự xưng là yêu nước nữa. Những kẻ ấy ngồi yên trong cái xó của họ, chỉ quan tâm đến những việc vụn vặt của họ, lo cóp nhặt vốn liếng, kiếm cho nhiều tiền trên lưng người khác; nhưng hễ xảy ra một việc gì mà họ cho là xúc phạm tới Tổ quốc, hễ ra đời một cuốn sách có nói đến những sự thật nhiều khi cay đắng; là họ tức tốc xồ đến, như con nhện thấy một con ruồi mắc vào cái mạng của nó, và kêu lên: “- Tất cả những gì tả trong ấy đều quan hệ đến chúng tôi; đem phơi bày cả ra chốn thanh thiên bạch nhật như thế có đúng không? Ngoại quốc người ta sẽ nói thế nào? Được nghe một dư luận xấu về mình, dễ chịu lắm hay sao? Thế mà không phiền lòng à? Hay chúng ta không phải là những người yêu nước?”
Đối với những lời nhận xét hiền minh như thế, nhất là về việc dư luận nước ngoài, thì tác giả xin thú thực là không có gì trả lời cả {Những lối nhận xét như thế tuy Gôgôn đoán trước, nhưng sau này sẽ có thật; lúc Những linh hồn chết đưa ra kiểm duyệt. Trong thư ngày 7 tháng giêng năm 1842 viết cho Pletniôp. Gôgôn kể lại rằng: “Bây giờ, đây là ý kiến của các nhà kiểm duyệt Âu châu, những người trẻ tuổi, từ nước ngoài về: “- Dù sao (một người trong bọn tên là Krưlôp nói) giá tiền mà Tsitsikôp trả - hai rúp rưỡi một đầu người - cũng làm cho linh hồn chúng ta phẫn nộ. Dĩ nhiên giá tiền ấy chỉ để mua một cái tên ghi trên giấy; nhưng cái tên ấy là một linh hồn, một linh hồn người; nó đã sống và có tồn tại. Ở Pháp, cũng như ở Anh, sẽ không ai chấp nhận được điều ấy. Rồi đây không một người ngoại quốc nào muốn đến nước ta nữa đâu”. Vì những ý kiến đại khái như thế, hội đồng kiểm duyệt không cho Những linh hồn chết ra đời}. Phải chăng ngoài cái này ra. Có hai người chính trực sống ở một góc hẻo lánh trên đất Nga. Một người, tên là Kifa Môkiêvits; tính tình hiền lành, sống uể oải, thờ ơ; không ngó gì đến gia đình; cuộc đời chỉ hướng về việc suy cứu, tư biện; và bận rộn về vấn đề sau này, mà ông ta gọi một cách trịnh trọng, là một vấn đề triết học:
“- Đấy, những ác thú chẳng hạn, - vừa nói ông ta vừa đi đi, lại lại trong phòng, - ác thú ra đời đều trần trụi cả. Tại sao lại trần trụi như thế? Tại sao không như loài chim, tại sao lại không từ một quả trứng mà nở ra? Thật ra, thật ra, càng đi sâu vào thiên nhiên, càng không nắm được gì hết”.
Kifa Môkiêvits nghĩ như vậy. Nhưng đó không phải là cái cốt yếu. Người chính trực là Môkii Kifôvits, con ông ta {Gôgôn thích đặt cho nhân vật những cái tên oái oăm như vậy}; đúng như thường nói ở nước Nga thì anh ta là một bôgatưa {Bôgatưa là người tráng sĩ trong văn học dân gian Nga}; và trong khi ông bố mải suy nghĩ đến việc đời của các ác thú, thì bản chất dồi dào sinh lực của tuổi hai mươi kia cứ nóng nảy đòi phô trương ra. Anh ta chẳng biết làm cái gì nhẹ nhàng cả; lúc nào cũng do anh ta mà, hoặc có người sái tay, hoặc có người dập mũi. Trong nhà cũng như quanh vùng, ai thấy anh ta cũng phải chạy trốn, từ chị hầu buồng cho chí con chó giữ nhà; anh ta đập nát cả giường của anh ta ra. Môkii Kifôvits như thế, nhưng thật ra lại là một tâm hồn phúc hậu. Nhưng nó chưa phải là cái cốt yếu. Cái cốt yếu là như thế này:
Tôi tớ trong nhà và quanh vùng thường kêu với ông bố rằng: - Thưa cha, thưa chủ, Kifa Môkiêvits ạ, ngài làm phúc cho, chao ôi là cậu cả Môkii Kifôvits! Chẳng còn ai có thể yên ổn được với cậu ta nữa.
- Vâng, nó nóng nảy, nóng nảy lắm, ông bố thường đáp lại thế; nhưng làm thế nào được? Nó lớn rồi, đánh nó sao được nữa; vả lại mọi người sẽ bảo tôi là ác; mà nó thì tự ái. Mắng nó trước mặt người khác tất nhiên nó làm thinh; nhưng không may mà người ngoài biết được, cả thành phố sẽ biết và cho nó là đồ chó. Người ta mà cho là như thế thì không khổ cho tôi hay sao? Tôi chẳng phải bố nó là gì? Vì tôi bận triết học và nhiều khi không có thì giờ, nên không phải là bố nó nữa hay sao? Quỷ bắt họ đi, tôi vẫn là bố nó, là bố nó, là bố nó chứ! Chính đây, vâng, chính quả tim này là nơi tôi đặt Môkii Kifôvits!
Rồi Kifa Môkiêvits nắm tay đấm ngực bình bịch và nổi khùng lên quát: “- Nếu con trai tôi là đồ chó thì nó cứ là đồ chó; nhưng ít ra cũng không phải tôi đi nói ra cho thiên hạ biết; không phải tôi đi tố cáo nó!”
Sau khi đã biểu lộ tình phụ tử như thế rồi; ông ta để cho Môkii Kifôvits tiếp tục những hành vi hảo hán của người bôgatưa; và trở về với đề tài ưa thích của mình, ông ta tự đặt cho mình những câu hỏi đại khái thế này;
“- Nếu con voi mà từ một quả trứng nở ra, thì vỏ trứng sẽ dày một cách phi thường; đại bác bắn không vỡ được và phải sáng chế ra một thứ súng mới vậy!”
Hai cư dân ở cái xó yên tĩnh ấy sống như thế; họ bỗng như hiện ra ở một khung cửa sổ vào cuối thiên trường ca của chúng ta, để khiêm tốn đáp lại lời buộc tội của những người yêu nước nhiệt thành, từ trước đến bây giờ chỉ yên thân nói triết lý hay làm giàu bằng cách đục khoét Tổ quốc thân yêu của họ; và đối với họ, cái cần không phải là không làm việc ác, mà chỉ đừng có ai nói rằng họ làm việc ác. Nhưng, không phải thế; những lời buộc tội ấy không phải vì lòng yêu nước, cũng không phải vì tình cảm bột phát nào; mà che giấu một cái gì đấy. Tại sao không nói ra? Ai là người phải công bố chân lý thần thánh, nếu không phải là tác giả? Các anh sợ một cái nhìn sắc sảo; chính các anh sợ phải thám sát sự vật sâu sắc; các anh thích đi lướt qua tất cả mọi vật với đôi mắt trống rỗng chẳng có chút tư tưởng nào. Các anh cũng thật bụng chê cười Tsitsikôp đấy; và có lẽ các anh còn khen cả tác giả nữa; các anh nói:
- Tuy vậy, hắn cũng quan sát kỹ được một số nét nào đấy! Chắc hắn phải là một thằng cha vui tính lắm!
Sau đấy, lòng tự phụ tăng lên gấp bội và một nụ cười tự mãn nở trên môi, các anh nói thêm:
- Phải thú thật rằng ở một số tỉnh, người ta kỳ quái đến lố bịch; hơn nữa còn là những tên vô lại chính tông!
Nhưng mà, ai là một người trong các anh, giữa cảnh yên tĩnh, tịch liêu của những phen tự vấn lương tâm, với lòng khiêm tốn cơ đốc giáo, sẽ nghĩ kỹ đến câu hỏi nặng nề này: “- Ở tôi cũng có một phần nào của Tsitsikôp chăng?”. Chắc là không có ai như vậy! Nhưng giữa lúc ấy mà có một người quen biết nào, phẩm hàm không cao mà cũng không thấp, đi qua gần chỗ anh; thì anh liền thúc khuỷu tay vào người bên cạnh và vừa kêu, vừa cười ầm lên:
- Nhìn kìa, nhìn kìa; Tsitsikôp, Tsitsikôp đi qua kia kìa!
Rồi, như một đứa trẻ, quên hết sự tôn trọng đối với địa vị và tuổi tác, anh chạy theo y, gọi mãi để chòng ghẹo:
- Tsitsikôp! Tsitsikôp! Tsitsikôp!
Nhưng mà chúng ta đã nói khá to, không nhớ rằng nhân vật của chúng ta, ngủ quên trong khi ta kể chuyện y, đã tỉnh dậy rồi và có thể nghe thấy tên y được nhắc đi nhắc lại. Bạn đọc thì có cần gì cái việc Tsitsikôp giận mình hay không giận; nhưng còn tác giả thì trong bất cứ trường hợp nào, cũng không nên sinh sự với nhân vật của mình: cả hai chúng tôi còn không ít dặm trường nữa phải cùng đi với nhau, tay khoác tay; trước mắt còn hai phần lớn của cuốn sách, đâu phải là việc nhỏ.
- Này, này! Mày nghĩ gì thế? Tsitsikôp quát Xêlifan.
- Cái gì ạ? Xêlifan dài cái giọng ra hỏi lại.
- Sao, cái gì à? Đồ con vịt! Đi cái lối gì thế? Nhanh lên chứ!
Sự thật là Xêlifan đã nhắm đôi mắt lại để ngủ gà, ngủ gật từ lâu; trong cơn mơ màng chỉ thỉnh thoảng lắm mới giật giật dây cương, khẽ chạm vào sườn các con ngựa cũng đã thiu thiu ngủ; còn Pêtruska thì cái mũ bay mất từ lâu, cũng ngả người ra đằng sau, tựa đầu vào gối Tsitsikôp mà ngủ, khiến cho Tsitsikôp phải đẩy ra. Xêlifan tỉnh dậy và vụt lấy, vụt để lên lưng con Vằn, làm cho nó phải chạy nước kiệu; rồi hoa cây roi trên đầu cả ba con, hắn nói giọng nho nhỏ, ê a như hát: “- Có gì mà sợ!”
Ba con ngựa rùng mình và kéo vun vút chiếc britska, nhẹ nhàng như một cái lông. Xêlifan chỉ cần hoa roi, và kêu: “- Hê, hê, hê”; hắn nhảy chồm chồm trên ghế, mỗi khi chiếc trôika lên hay xuống những cái dốc, nhiều vô số trên đường trường; nhưng con đường cũng nghiêng và thấp dần xuống. Người Tsitsikôp cũng nẩy nhè nhẹ trên chiếc đệm da, y mỉm cười vì y thích đi nhanh.
Vả lại người Nga nào mà chẳng thích đi nhanh? Họ không thích thế nào được, khi mà tâm hồn họ khát khao vui chơi, bay lượn và thỉnh thoảng lại nói: “- Quỷ bắt hết cả đi!”. Người ta không thích thế nào được khi người ta cảm thấy một mối nhiệt thành kỳ diệu? Có thể nói là một sức mạnh huyền bí đã mang anh đi trên cánh. Ta bay và tất cả mọi vật cũng bay như ta; các cột chỉ verxta đều bay, những gã lái buôn ta gặp, ngồi trên thành xe kibitka {Kibitka là xe chở hàng có mui} cũng bay; rừng hai bên đường cũng bay với những hàng cây tùng, cây bách âm u với những tiếng rìu bổ và tiếng quạ kêu; tất cả những gì trên đường trường đều bay và mất hút vào nơi xa xăm. Có cái gì ghê rợn trong những sự hiển hiện ngắn ngủi ấy mà sự vật đều thoáng qua không kịp dừng lại; chỉ có bầu trời, những đám mây nhẹ và mảnh trăng đi qua những đám mây ấy là trông còn đứng yên mà thôi. “- Ôi! Trôika! Con chim - trôika: ai đã phát minh ra ngươi?” Ngươi chỉ có thể sinh ra giữa một dân tộc dũng cảm; trên đất nước không làm cái gì nửa vời này, mà đã lan ra như một vết dầu trên một nửa thế giới, chưa kịp đếm hết trên bao nhiêu verxta, là đã mỏi mắt rồi!... Chiếc xe không có gì phức tạp, người ta sẽ nói như thế: nó không được đóng bằng đinh ốc sắt, mà chỉ dựng lên và lắp vào một cách đại khái, bằng rìu và dao gọt; do bàn tay khéo léo của người mujik ở Iarôxlap. Người đánh xe không đi ủng to kiểu Đức; với bộ râu và đôi bao tay, hắn ngồi lên xe, có quỷ biết là như thế nào; nhưng khi hắn vừa khẽ nhướn người lên, hoa cây roi và cất tiếng hát, thì mấy con ngựa hùng dũng lồng lên: các nan hoa chỉ còn là một mặt phẳng liền; dặm trường phải rung chuyển, khách bộ hành hoảng hốt thốt lên một tiếng kêu; và chiếc trôika vút lên, vút lên, vút lên… Và, từ xa, chỉ còn thấy như một vật lao xuyên qua không khí.
“Và ngươi, nước Nga, chẳng phải ngươi cũng bay vút lên như một chiếc trôika mãnh liệt, không ai có thể vượt được? Ngươi đi qua, dặm trường bụi cuốn mịt mù; những chiếc cầu kêu răng rắc; mọi vật bị bỏ lại, nằm lại đằng sau ngươi! Kẻ nhìn ngươi phải dừng chân, sửng sốt vì sự thần diệu phi thường ấy. Phải chăng là sét trên trời giáng xuống? Cuộc chạy không gì kìm hãm nổi, làm cho người ta khiếp sợ ấy có ý nghĩa gì? Có cái sức bí ẩn nào tiềm tàng trong các con ngựa mà thế gian chưa từng thấy bao giờ ấy? Ôi, tuấn mã, tuấn mã, tuấn mã, tuyệt vời! Những cơn gió lốc nào thổi tung bay bờm của các ngươi? Cái tai rất thính nào ẩn trong mỗi một mạch máu li ti của các ngươi; vừa nghe trên đầu cất lên bài hát quen thuộc, các tuấn mã ưỡn đều bộ ngực đồng đen cùng một lúc; và móng chân chỉ hơi lướt qua mặt đất, chúng vươn mình thành một đường căng thẳng duy nhất, lao vút qua không khí, được cuốn theo một linh cảm thánh thần… Nước Nga, ngươi bay đi đâu? Hãy trả lời ta.” - Không hề có câu trả lời. Tiếng nhạc ngựa nghe vẫn du dương; không khí bị xé tan, ầm ầm như tiếng sấm, và chuyển thành gió; tất cả những gì ở trên trần thế đều bị bỏ lại sau; và với một cái nhìn thèm thuồng, các dân tộc rẽ ra, nhường lối cho nước Nga.
Nicolas Vassilievitch Gogol
Những linh hồn chết
Dịch giả: Hoàng Thiếu Sơn
BỐN BỨC THƯ CỦA TÁC GIẢ
nói về Những linh hồn chết.
Phần thứ nhất
{Bốn bức thư này in trong chương XVII của cuốn Trích thư từ gửi các bạn tôi xuất bản cuối năm 1846; nhưng những thư này chỉ là những lời thanh minh của tác giả, không phải là những thư gửi đi cho ai cả}
I.
Anh có tỏ ý phẫn nộ vì cái giọng quá quắt của một số lời chỉ trích Những linh hồn chết. Tôi thấy như thế không được đúng: việc đó cũng có mặt tốt: đôi khi cũng cần có người phỉ báng mình. Người nào đã mê say với những cái đẹp rồi thì không thấy được những cái xấu, cho nên cái gì cũng dung thứ cả; ngược lại người nào đã muốn dèm pha thì cố tìm cho ra những cái xấu của anh và nêu rõ cái xấu đó lên đến nỗi buộc lòng anh phải thấy. Người ta ít khi có dịp nghe sự thật lắm; cho nên chỉ cần được một phần nhỏ sự thật thôi, người ta cũng đã có thể dung thứ cái giọng phỉ báng của kẻ lên tiếng nói sự thật. Những lời phê phán của Bungarin Xenlôpxki, Pôlêvôi có nhiều cái đúng, kể cả lời họ khuyên tôi nên học tiếng Nga trước khi có tham vọng viết lách {Những linh hồn chết phần thứ nhất, ra đời năm 1842, bị những nhà phê bình lạc hậu và phản động ghen ghét la ó. Trong tờ Tín sứ Nga, nhà phê bình lãng mạn chủ nghĩa N.A Pôlêvôi cho rằng Những linh hồn chết chỉ là một bức biếm họa, không thể xem là nghệ thuật được và tác giả chưa biết viết văn, còn mắc nhiều lỗi ngữ pháp; Pôlêvôi viết: “- Hãy gác sang một bên những cảm hứng bồng bột của anh mà đi học tiếng Nga đi!”. Có người chế giễu chữ poema ở bìa sách và suy diễn ra, gọi cả những sách giáo khoa vật lý học và sách dạy làm vườn là poema. Nhưng những lối phê bình ấy làm cho quần chúng chân chính rất căm phẫn}. Quả nhiên, giá tôi giữ bản thảo trong ngăn kéo thêm một năm nữa, chứ đừng vội vã cho in; thì chính bản thân tôi cũng đã thấy rằng không thể nào đem nó ra mà xuất bản dưới một hình thức kém cỏi như vậy. Tuy những bài thơ châm biếm và những lời chế giễu lúc đầu có làm cho tôi khó chịu thật; nhưng vẫn rất bổ ích cho tôi. Ôi! Những lời dèm pha liên miên ấy, cái giọng phỉ báng và những lời chế giễu cay cú ấy, thật có lợi cho ta không biết bao nhiêu mà kể! Trong thâm tâm ta thường giấu nhiều tự ái ti tiện, nhiều tham vọng xấu xa, đến nỗi ta cần phải luôn luôn bị châm chích, đánh đập bằng đủ mọi thứ khí giới; và phải cảm ơn bàn tay đã đánh ta.
Tôi những mong được phê phán nhiều hơn nữa, nhưng lại muốn rằng người phê phán không phải là những người làm văn học, mà là những người có kinh nghiệm về thực tế. Tiếc thay, ngoài những người làm văn học, không có một bộ óc thực tiễn nào lên tiếng cả. Tuy nhiên Những linh hồn chết cũng đã gây nên lắm xôn xao bàn tán, lắm lời đồn đại, đã xúc phạm đến lòng tự ái của khá nhiều người vì lối giễu cợt, vì tính xác thực, vì lối biếm họa. Tuy đầy rẫy những sự lầm lẫn, sai lệch hiển nhiên; nó cũng đả động đến một tình hình mà ai nấy đều được chứng kiến hàng ngày. Tôi lại còn xen vào đấy một số đoạn có tính chất khiêu khích, hy vọng rằng sẽ có người lên tiếng quát mắng tôi và trong cơn phẫn nộ, sẽ vô tình mách cho tôi biết cái sự thực mà tôi đang tìm kiếm. Tại sao chưa có ai lên tiếng cả? Ai ai cũng đều có thể làm việc đó, và có đủ cơ sở để làm việc đó. Người viên chức có thể công khai chứng minh cho tôi thấy rằng câu chuyện tôi kể là không xác thực, bằng cách kể ra vài ba sự kiện có thật đã xảy ra và như vậy là đã đưa ra một lời cải chính hùng hồn hơn bất cứ lời biện luận nào. Vả chăng, cũng bằng cách ấy, người kia cũng lại có thể xác nhận thêm những lời miêu tả của tôi. Việc dẫn sự kiện có sức thuyết phục hơn là những lời lẽ rỗng tuếch và những bài luận văn về văn học. Nhà buôn, trang chủ, nói tóm lại là bất cứ ai biết cầm bút, cũng đều có quyền làm như vậy; dù người ấy chỉ sống quanh quẩn trong nhà hay vẫn thường đi đây đó khắp đất nước Nga. Ngoài ý kiến cá nhân của mình ra, bất cứ người nào, dù giữ chức vụ gì, ở địa vị xã hội nào, nghề nghiệp, học vấn ra sao, cũng đều có dịp quan sát sự việc trên một quan điểm riêng. Với đề tài của Những linh hồn chết, lẽ ra quần chúng độc giả có thể viết nên một cuốn sách hay hơn Những linh hồn chết không biết bao nhiêu mà kể; một cuốn sách có thể dạy nhiều điều, không những cho tôi, mà ngay cho các bạn đọc nữa; bởi vì giấu giếm mà làm gì, chúng ta đều biết nước Nga rất ít.
Chao ôi! Tại sao không có ai công khai lên tiếng! Thật có thể tưởng chừng như mọi vật đều đã chết; và ở nước Nga, những linh hồn sống đã nhường chỗ cho Những linh hồn chết! Thế mà người ta lại trách tôi không biết rõ nước Nga! Làm như thể do một phép lạ của Đức chúa Thánh thần tôi nhất thiết phải biết rõ tất cả những sự việc xảy ra ở bất cứ xó xỉnh nào; phải học cho kỳ hết, không cần ai chỉ dẫn cả. Tôi làm thế nào mà học hỏi được! Thử nghĩ một nhà văn như tôi, vì nghề nghiệp phải ngồi ru rú ở nhà, sống cuộc đời khổ hạnh, lại thêm bệnh tật nữa và buộc lòng phải sống xa nước Nga; thì còn học hỏi làm sao được? Tôi không thể học hỏi các nhà văn hay các nhà báo, vì họ cũng sống cô độc và quanh quẩn trong phòng giấy. Nhà văn chỉ có một người thầy: bạn đọc. Thế nhưng những bạn đọc ấy đã từ chối, không chịu dạy dỗ tôi. Tôi biết rằng tôi sẽ phải chịu trước Thượng đế một trách nhiệm ghê gớm vì đã không làm tròn bổn phận; nhưng tôi lại biết rằng những người khác cũng sẽ phải chịu một trách nhiệm như thế. Và đây không phải là những lời nói suông: có Thượng đế chứng giám cho tôi, đây không phải là những lời nói suông.
1843
II.
Tôi đã cảm thấy từ trước là những đoạn mạn đàm trữ tình trong thiên trường ca của tôi sẽ bị hiểu sai. Những đoạn ấy thiếu minh xác, ít ăn nhập với tình tiết và phong cách của cuốn truyện, đến nỗi khiến cho những người công kích tôi, cũng như những người bênh vực tôi, đều bị lầm. Người ta đã tưởng lầm rằng tất cả những đoạn nói về nhà văn nói chung, đều nhằm nói về tôi cả; tôi đã lấy làm xấu hổ khi thấy họ giải thích những đoạn ấy để bênh vực tôi. Chẳng qua, cũng đáng kiếp cho tôi! Lẽ ra, dù sao tôi cũng không nên cho xuất bản một tác phẩm tuy cắt khéo, nhưng khâu thì lại vụng, bằng chỉ trắng lên vải đen; như một bộ áo quần mà người thợ may vừa lược chỉ qua để thử. Tôi lấy làm lạ sao người ta ít có lời chê trách tôi về nghệ thuật và nghiệp vụ như vậy. Âu cũng tại những người phê phán tôi quá phẫn nộ, mà cũng tại họ không đủ sức khảo sát cách cấu tạo của một tác phẩm. Lẽ ra phải nêu rõ phần nào có vẻ dài một cách quái gở so với các phần khác; ở chỗ nào nhà văn đã tự phản mình, vì không nhất quán dùng cái giọng mà mình đã chọn từ đầu. Thậm chí cũng không có ai nhận thấy phần thứ hai của cuốn sách không được gọt giũa bằng phần đầu; nó chứa đựng những chỗ hổng lớn; những nét thứ yếu được khai triển quá mức, choán hết chỗ của những nét chính; các chương quá khác nhau, làm cho cuốn sách có tính chất vá víu, khiến người đọc không thấy tinh thần chung của nó. Nói tóm lại, lẽ ra nhà phê bình có thể có những lời phê phán sáng suốt và chính xác hơn, chê trách tôi nhiều hơn và một cách đích đáng hơn không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ ấy. Đây tôi muốn nói đến cái đoạn mạn văn trữ tình đã bị các nhà báo công kích nhiều hơn cả, vì họ thấy nó biểu lộ một sự kiêu ngạo, một lòng tự mãn {Biêlinxki phê bình Những linh hồn chết, phần thứ nhất, ngay khi sách mới xuất bản, trong tạp chí Niên san của Tổ quốc, ca tụng khả năng hiện thực chủ nghĩa và tâm hồn nhiệt thành của tác giả: nhưng cho rằng tác phẩm có những đoạn tỏ lòng yêu nước quá huênh hoang}, một lối khoác lác xưa nay chưa từng thấy ở một nhà văn nào. Đó là đoạn mạn văn ở chương cuối: sau khi tả Tsitsikôp ra đi, tác giả bỏ nhân vật của mình ở giữa đường thiên lý, thay mình vào chỗ đó và ngạc nhiên trước vẻ đơn điệu chán ngắt của sự vật, trước khoảng không gian bao la hoang vắng và tiếng hát ai oán từ dải đất Nga vang lên suốt từ biển này sang biển kia; trong một phút cảm khái, đã lên tiếng hỏi bản thân nước Nga, van xin nước Nga cắt nghĩa mối cảm xúc khó hiểu đang làm lòng mình thắt lại: tại sao cứ có cảm giác như tất cả mọi sinh linh, mọi sự vật trong nước Nga đều như đang nhìn mình đăm đăm và chờ đợi ở mình một cái gì? Người ta đã thấy trong những lời lẽ đó bằng chứng của kiêu ngạo, một sự huênh hoang không tiền khoáng hậu; nhưng thật ra đây không phải là huênh hoang, cũng chẳng phải là kiêu ngạo, mà chỉ là sự diễn đạt một cách vụng về của một tình cảm chân thành. Ngay giờ phút này, tôi vẫn còn cảm thấy ấn tượng đó. Tôi không sao chịu đựng nổi những âm thanh ai oán, não lòng của một bài ca Nga khi nó rung lên trong không gian vô tận của thôn quê ta. Những âm thanh ấy ám ảnh tâm hồn tôi. Thậm chí tôi còn lấy làm lạ sao mỗi một người trong chúng ta lại không biết đến cái cảm giác đó. Ai là người trông thấy những không gian vắng lặng, lạnh lẽo ấy mà không thấy lòng mình se lại; ai là người trong những âm thanh thê thiết của bài dân ca Nga, không nhận thấy những lời trách móc đau xót đối với bản thân mình - tôi nói rõ: đối với bản thân mình - thì người ấy đã làm xong bổn phận của mình một cách trọn vẹn, trừ phi không có một tâm hồn Nga.
Sự vật như thế nào, ta hãy cứ nhìn nhận nó như thế. Gần một trăm năm mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Hoàng đế Piôtr đệ nhất mở mắt ra cho chúng ta, dắt dìu chúng ta bước lên con đường văn hóa Âu châu, và đặt vào tay chúng ta đủ mọi phương tiện hành động: thế nhưng nông thôn của ta vẫn buồn tẻ và hoang vắng như xưa. Quanh ta mọi vật đều có vẻ ghẻ lạnh, thù địch; tưởng chừng chúng ta chưa phải đang ở trong nhà mình, mà chỉ là đang cắm trại trên đường trường; tưởng chừng đối với ta, nước Nga không phải là một nơi trú ẩn ấm áp, thân tình, mà là một ngôi trạm phủ tuyết lạnh ngắt; ở đấy chỉ thấy hiện ra một gã coi trạm lạnh nhạt buông thõng một câu trả lời gắt gao: “- Không có ngựa!”. Tại sao lại như thế? Lỗi tại ai? Tại chính phủ hay tại ta? Nhưng chính phủ vẫn hoạt động không ngừng: chứng cớ là những tập quy chế, chỉ thị, sắc lệnh dày cộm, cái số khổng lồ những tòa nhà đã xây, những cuốn sách đã xuất bản; những thiết chế đủ loại, giáo dục có, từ thiện có, bác ái có; không kể những thiết chế mà ở nước ngoài không thấy chính phủ nào lập ra. Từ trên có những câu hỏi đưa xuống, ở dưới có những lời giải đáp đưa lên. Đôi khi ở trên đưa xuống những câu hỏi chứng tỏ sự đại lượng của một vài nhà vua đã dám hy sinh cả quyền lợi bản thân. Thế mà ở dưới đã trả lời ra sao? Tất cả đều tùy ở cách thức, ở nghệ thuật ứng dụng một tư tưởng sao cho nó thành hiện thực và đi hẳn vào đời sống. Một đạo dụ, dù nội dung có hay ho, dù lời lẽ có chính xác bao nhiêu chăng nữa, cũng vẫn chỉ là một tờ giấy không hồn; nếu ở dưới không tỏ ra có ý muốn đem ứng dụng nó theo một cách thức thích đáng, theo cái cách thức mà chỉ có người nào quan niệm sự công bằng dưới ánh sáng của Thượng đế, chứ không phải dưới ánh sáng của con người, mới tìm ra được. Nếu không, tất cả sẽ thành ra có hại. Chứng cớ là những tay gian lận và ăn hối lộ tinh ma của chúng ta vốn biết cách xoay xở với tất cả các quy chế; một đạo dụ mới đối với họ là một nguồn thu hoạch mới, một phương tiện mới để làm cho sự giải quyết công việc rối ren thêm, để thọc thêm một gậy vào bánh xe.
Nói tóm lại, nhìn về đâu tôi cũng thấy rằng thủ phạm chính là những kẻ có bổn phận thi hành pháp luật. Có người vì quá ước ao danh vọng và huân chương, mà đâm ra hấp tấp. Lại có người vì muốn tỏ ra nhiệt thành và tận tụy - một thói xấu rất Nga, - mà cứ đâm đầu vào công việc, không chịu khó nghiên cứu, những tưởng mình có thể điều khiển công việc một cách thành thạo; nhưng hễ thất bại một lần là nản chí ngay, và sau đó, - cũng một thói xấu không kém tính chất Nga, - lập tức thờ ơ với công việc. Lại có người, khi lòng tự ái nhỏ nhen của mình bị tổn thương, liền để lọt vào tay một tên trùm bịp bợm cái cương vị mà ở đấy mình đã bắt đầu phấn đấu cho chính nghĩa. Nói tóm lại, trong chúng ta, ít có người biết yêu cái thiện đến mức có thể vì việc thiện mà hy sinh tham vọng, tự ái cùng tất cả những cái nhỏ nhen của một lòng vị kỷ dễ đâm ra cay cú đến mức có thể khép mình vào một luật lệ bất di bất dịch là phụng sự đất nước, chứ không phải phụng sự bản thân mình; luôn luôn nhớ rằng mình ở cương vị là để mưu cầu hạnh phúc cho người khác, chứ không phải cho bản thân. Ngược lại từ ít lâu nay người Nga chúng ta tuồng như có dụng tâm muốn phô trương tính vị kỷ và dễ chạnh lòng của mình ra.
Không biết trong chúng ta liệu có những người mà sau khi làm tròn nhiệm vụ mình rồi, có thể đứng trước toàn thể thiên hạ tuyên bố rằng mình không có lỗi gì đối với nước Nga hết; rằng khắp những khoảng đồng không mông quạnh của đất nước này, không có cái gì có thể coi như một lời trách móc đối với mình cả; rằng mọi vật đều hài lòng về mình và không còn mong chờ gì hơn nữa không? Tôi không biết số người có thể làm như vậy có nhiều không. Tôi chỉ biết rằng riêng tôi, tôi đã nghe thấy lời trách móc thầm lặng đó. Giờ đây, nó vẫn còn văng vẳng bên tai tôi. Sự nghiệp văn chương của tôi có hèn kém thật, nhưng lẽ ra dù sao nó cũng có thể giúp tôi là một việc có ích hơn. Tuy lòng tôi xưa nay vẫn ấp ủ khát vọng làm điều thiện và chỉ vì khát vọng đó mà tôi cầm bút; những cái đó phỏng có gì quan trọng đâu! Tôi đã làm tròn nhiệm vụ ấy như thế nào? Chẳng hạn, cuốn sách vừa rồi của tôi, nhan đề Những linh hồn chết, liệu có gây được cái ấn tượng mà lẽ ra nó phải gây nên; nếu nó được viết cho đúng với yêu cầu không? Vì không biết diễn đạt những ý nghĩ của chính mình; tuy đó là những ý nghĩ khá giản đơn, tôi đã làm cho nó bị hiểu sai, và lại hiểu sai theo một hướng có phần tai hại. Lỗi tại ai đây? Tôi có nên viện cớ là đã nghe theo những thị hiếu xốc nổi của những kẻ tài tử ưa chuộng những phong cách hào nhoáng và trống rỗng không? Tôi có nên đổ lỗi cho hoàn cảnh và tuyên bố rằng vì cần kiếm kế sinh nhai mà phải cho in vội, in vàng tác phẩm của mình không? Không. Ai là người đã từng quyết chí làm tròn nhiệm vụ một cách trung thực thì không thể để cho hoàn cảnh chi phối mình được; nếu cần, thà ngửa tay ra ăn xin, chứ quyết không nhượng bộ trước những lời chê trách hời hợt hay những ước lệ giả dối của xã hội được. Người nào đã vì muốn tuân theo những ước lệ giả dối đó mà làm hỏng một tác phẩm có ích cho nước nhà, thì người đó không phải là người yêu nước. Chính vì tôi đã cảm biết được cái tính nhu nhược đáng hổ thẹn của tôi, cái tính hèn nhát đáng khinh của tôi, nỗi bất lực của lòng yêu nước của tôi; cho nên tôi mới nghe thấu được lời trách móc đau xót mà tất cả những sự vật đang ở trong nưóc Nga đã lên tiếng nói với tôi. Nhưng một sức mạnh cao cả đã nâng tôi dậy; không có lỗi lầm nào không bổ cứu được; và tuy lúc đầu tôi đã chán nản trước cảnh tượng những không gian hoang vắng, về sau chính cảnh tượng ấy đã làm cho tôi đầy nhiệt tình: tôi đã thấy khoảng không vô tận ấy là một môi trường hoạt động tuyệt vời. Và tự đáy lòng tôi đã thốt lên lời kêu gọi đất nước Nga: “- Chẳng phải Ngươi vốn có sứ mệnh sinh ra những bậc anh hùng đó sao? Ngươi hiến cho họ biết bao nhiêu là không gian để xây dựng sự nghiệp!”
Đó không phải là một câu văn viết cho kêu để lòe người, cũng không phải là một lời huênh hoang. Không: lời kêu gọi đó tôi thốt ra tự đáy lòng, và đến nay lòng tôi vẫn còn rung cảm vì nó. Giờ đây, sống ở nước Nga bất cứ lúc nào người ta cũng có thể trở thành một bậc anh hùng. Mỗi địa vị, mỗi chức vụ đều đòi hỏi bản lĩnh anh hùng. Mỗi người trong chúng ta đã làm ô uế tính chất thiêng liêng của địa vị và chức vụ của mình (tất cả mọi chức vụ đều thiêng liêng), đến nỗi phải có những sự cố gắng anh dũng mới đưa được địa vị và chức vụ trở lại trạng thái cao cả thích đáng. Trực giác tôi đã cảm thấy được sự nghiệp cao quý ấy, sự nghiệp ngày nay chỉ dành cho dân tộc Nga mà thôi; vì chỉ có dân tộc Nga biết được chủ nghĩa anh hùng và thấy trải ra trước mắt mình những khoảng không vô tận như vậy. Chính vì thế mà tôi đã thốt lên lời than kia, lời than mà người ta đã tưởng lầm là một biểu hiện của tính kiêu ngạo, một lời huênh hoang.
1843
III.
Tôi lấy làm lạ rằng một người am hiểu lòng người như anh mà lại có thể đi hỏi tôi những câu ngớ ngẩn chẳng khác gì những người khác. Phần lớn những câu hỏi ấy đều liên quan đến phần sau này của bộ sách: tò mò như vậy mà làm gì? Chỉ có mỗi một câu hỏi thật là tế nhị và xứng đáng với anh; và tuy cũng chưa dám chắc là có thể trả lời một cách thỏa đáng, tôi vẫn ước ao rằng có những người khác cũng hỏi tôi câu đó. Cụ thể là: tại sao những nhân vật trong các tác phẩm gần đây của tôi, nhất là trong Những linh hồn chết, tuy không phải là những bức chân dung của người thật, lại cũng chẳng có gì hấp dẫn cho lắm, mà sao vẫn có vẻ thân thuộc, gần gũi với chúng ta; tưởng như có thể tìm thấy ở các nhân vật đó những nét riêng của bản thân mình? Mới năm ngoái đây thôi, giá có ai hỏi như vậy, dù người đó là anh đi nữa, thì tôi sẽ lúng túng, khó trả lời. Nhưng bây giờ thì tôi xin thú hết: sở dĩ các nhân vật của tôi gần gũi với lòng người là vì chúng ở lòng người mà ra; tất cả những tác phẩm gần đây của tôi đều là lịch sử của tâm hồn tôi. Để anh hiểu rõ hơn những điều này, tôi xin giãi bày để anh rõ tôi là nhà văn như thế nào. Người ta đã bình luận về tôi khá nhiều: người ta đã xác định một số khía cạnh trong tài năng của tôi, nhưng vẫn chưa nhận ra nét căn bản của nó. Puskin là người duy nhất đã nhận thấy nét đó. Puskin vẫn nói với tôi rằng chưa có nhà văn nào có được đến mức như tôi, cái năng khiếu làm hiện rõ sự nhạt nhẽo của cuộc đời, làm cho sự tầm thường dung tục nổi lên, sắc sảo đến nỗi những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đập ngay vào mắt người ta. Đó chính là cái khả năng thiên bẩm trội nhất của tôi, cái khả năng mà quả nhiên không còn nhà văn nào có. Tôi bẩm sinh đã có khả năng đó, và sau một cơn khủng hoảng tinh thần, nó lại càng phát triển thêm. Và đó chính là điều mà dạo ấy tôi chưa thể thú nhận, dù là với Puskin cũng vậy.
Trong Những linh hồn chết, khả năng đó còn thể hiện một cách mạnh mẽ hơn nữa. Sở dĩ Những linh hồn chết đã làm cho nước Nga hoảng sợ và đã gây nên nhiều tiếng xôn xao như vậy, không phải là vì nó phát hiện những ung nhọt hay những bệnh tật ở bên trong; đó không phải là vì nó bày ra cái cảnh đắc thắng của sự xấu xa và cái cảnh những người vô tội bị áp bức, khiến người ta sửng sốt. Không, các nhân vật của tôi không phải là những kẻ vô lại. Tôi chỉ cần thêm một nét dễ ưa vào một trong các nhân vật đó là bạn đọc sẽ vừa lòng với tất cả các nhân vật khác; nhưng vẻ tầm thường dung tục của toàn thể khiến bạn đọc ghê tởm. Các nhân vật của tôi nối đuôi nhau xuất hiện, nhân vật này lại tầm thường hơn nhân vật kia; và độc giả hoài công đi tìm một đoạn có thể an ủi mình, một nơi có thể dừng lại để thở; gấp sách lại, bạn đọc tưởng như vừa từ cái hầm ngột ngạt bước ra để trở lại với ánh mặt trời. Giá đó là những tên gian phi có lắm màu, lắm vẻ đẹp mắt, thì hẳn người ta đã bỏ quá cho tôi; đằng này lại là những kẻ rất mực tầm thường, nên người ta không dung thứ được. Sự vô nghĩa lý của người Nga đã làm cho bạn đọc hoảng sợ hơn là những thói hư tật xấu của họ. Đáng khen thay nỗi kinh hoàng đó! Đã thấy ghê tởm như vậy trước sự đê tiện, hẳn phải có những đức tính trái ngược với sự đê tiện. Vậy thì cái khả năng trội nhất của tôi chính là ở chỗ đó; và xin nhắc lại rằng cái khả năng ấy lẽ ra không phát triển mạnh như vậy nếu tâm trạng của tôi và quá trình diễn biến tinh thần của tôi không góp sức vào đấy. Trong các bạn đọc của tôi, không có ai biết rằng trong khi cười các nhân vật của tôi, họ cũng cười cả chính bản thân tôi đó.
Tôi không có một tật xấu, một đức tính nào đủ mạnh để chế ngự các tật xấu, các đức tính khác; ngược lại, tất cả những tính xấu mỗi cái một tí, đều họp nhau trong con người tôi; tôi chưa từng thấy ai tập họp nhiều tính xấu như thế. Thượng đế đã phú cho tôi một bản tính rất phức tạp. Người đã cho tôi một vài đức tính; đức tính đẹp nhất mà tôi không biết làm thế nào để tạ ơn người, là ước vọng tu thân. Tôi chưa bao giờ thích thú với những thói xấu của mình và cũng may mà Thượng đế chí nhân đã cho tôi phát hiện dần từng thói xấu một chứ không phải đột nhiên khám phá ra tất cả một lúc, trong khi tôi chưa quan niệm được lòng từ bi vô cùng vô tận của Người; nếu không thì chắc chắn tôi đã treo cổ mà chết cho rồi. Trong khi tôi dần dần phát hiện ra những tính xấu của mình, thì một sự xui khiến kỳ diệu của bề trên làm cho tôi tăng thêm ý muốn trút bỏ những tính xấu đó đi; một cơn khủng hoảng tinh thần kỳ dị đã thúc đẩy tôi chuyển những tính xấu đó cho các nhân vật của tôi. Cơn khủng hoảng đó cụ thể ra sao thì anh cũng không nên biết làm gì; ví thử điều đó có chút gì bổ ích cho bất cứ ai, thì tôi đã nói ra từ lâu rồi. Từ dạo ấy, tôi bắt đầu lấy những tính xấu của tôi thêm vào các tính xấu của nhân vật. Tôi làm như thế này: tôi lấy tính xấu của tôi gán cho một người nào mà cương vị và chức vụ khác tôi, rồi theo dõi tác dụng của nó trong người ấy; tôi cố gắng hình dung người đó là một kẻ thù không đội trời chung của tôi, đã từng lăng nhục tôi một cách tàn tệ; tôi hằn học, chế nhạo, dè bỉu hắn. Giá có ai trông thấy những quái vật mà ngòi bút tôi đã vẽ ra lúc đầu, người đó hẳn phải rùng mình, sởn gáy. Tôi chỉ xin nói với anh rằng khi nghe tôi đọc những chương đầu của Những linh hồn chết dưới dạng thức nguyên sơ, thì Puskin, - tính vốn hay cười xưa nay và bao giờ cũng vui lên khi nghe tôi đọc, - lần này lại cau mặt, mỗi lúc một thêm ủ dột. Khi tôi đọc xong, Puskin thốt lên, giọng thảm đạm: “Trời ơi, nước Nga của chúng ta thật buồn quá!”
Tôi lấy làm lạ Puskin biết rõ nước Nga như vậy mà vẫn không nhận thấy rằng đây toàn là biếm họa và bịa đặt! Đến đây tôi mới hiểu thế nào là ý nghĩa của một tác phẩm tự đáy lòng viết ra, và người ta có thể trình bày bóng tối và tình trạng thiếu ánh sáng đáng sợ dưới một hình thức khủng khiếp như thế nào. Từ đấy tôi bắt đầu suy nghĩ cách làm giảm bớt cái ấn tượng nặng nề mà Những linh hồn chết có thể để lại trong lòng người đọc. Tôi nhận ra rằng có nhiều tính xấu không đáng để cho người ta tức giận; tốt hơn là hãy cứ vạch hết cái hư không của nó ra. Tôi cũng muốn xem thử người Nga ta sẽ nói thế nào khi đứng trước sự ti tiện của nó. Theo bố cục của Những linh hồn chết đã được vạch ra từ lâu, thì những nhân vật có mặt trong phần đầu của thiên trường ca chính là những con người vô nghĩa lý. Song không thể vẽ thành những bức chân dung được, mà phải dồn vào các nhân vật đó, dĩ nhiên là dưới một hình thức sa đọa hơn; những nét mượn của những kẻ hay tự cho mình tốt hơn kẻ khác. Ngoài những nét của bản thân tôi ra, ở đây có thể tìm thấy những nét của các bạn tôi. Có một số nét vốn là của anh; tôi sẽ chỉ cho anh thấy khi nào việc đó có thể bổ ích cho anh; và từ bây giờ cho đến lúc ấy thì tôi sẽ giữ kín. Tôi đã phải tước của tất cả những người tốt mà tôi biết, những cái đê hèn và xấu xa ngẫu nhiên thấy có ở họ, để đem trả lại cho các chủ nhân chính đáng của nó. Anh đừng hỏi tôi tại sao phần đầu lại phải chứa toàn những nét đê tiện và đưa lên sân khấu toàn những kẻ dung tục; các tập sách sau sẽ trả lời anh rõ. Tuy có bao nhiêu khuyết điểm như vậy, phần đầu cũng đã có công hiệu: nó đã làm cho mọi người căm ghét các nhân vật của tôi và cái vô nghĩa lý của chúng; nó đã gây nên một sự bất mãn đối với bản thân và một cảm giác buồn buồn mà tôi cho là cần thiết. Tạm thời tôi thấy như thế đã là đủ. Dĩ nhiên, cái công hiệu đó sẽ lớn hơn, nếu tôi chịu khó gọt giũa cho cuốn sách hoàn chỉnh hơn, chứ đừng vội đem xuất bản. Vì chưa tách hẳn ra khỏi bản thân tôi được, cho nên các nhân vật của tôi chưa có một cuộc sống thật là độc lập. Tôi chưa đặt được cho chúng đứng thật vững trên cái mảnh đất mà rồi đây sẽ là đất của chúng; tôi chưa bao bọc chúng trong một bầu không khí có tính chất Nga đầy đủ. Cuốn sách này là một tác phẩm đẻ non; nhưng cái tinh thần chủ đạo đã bắt đầu toát ra được chút ít và việc xuất bản vội vàng như vậy cũng có thể có ích cho tôi, ở chỗ nó khiến cho các bạn đọc nảy ra ý mách bảo tôi những điều nhầm lẫn, mà tôi đã có thể phạm phải trong khi miêu tả cuộc đời tư nhân cũng như sinh hoạt xã hội của dân Nga. Giá anh đừng hỏi tôi những câu ngớ ngẩn đã choán hết nửa bức thư của anh, những bức câu hỏi chỉ nhằm thỏa mãn về một trí tò mò vô ích; mà lượm lặt tất cả những lời nhận xét xác đáng về cuốn sách của tôi, dù là nhận xét của anh hay nhận xét của những người thông minh khác cũng sống một cuộc đời hoạt động và thực tiễn như anh; giá anh thêm vào đấy một số sự kiện khả dĩ xác nhận hay phản bác ý này hay ý khác của tôi; mà những sự kiện hay những mẩu chuyện như vậy thì ở tỉnh anh, cứ xung quanh mỗi trang của tôi, có thể thu nhặt được hàng tá; giá được như thế thì anh đã làm một việc hữu ích và công việc của tôi sẽ dễ dàng hơn biết bao nhiêu!
Nhưng chẳng ai chịu nghe tôi cả; ai nấy đều coi khinh những câu hỏi của tôi, và chỉ những câu hỏi của bản thân họ thì họ mới cho là quan trọng; thậm chí còn có những người, tuy không hiểu rõ mình muốn gì cho lắm, vẫn đòi hỏi tôi phải thẳng thắn, phải thành khẩn thế nào đấy, tôi cũng không biết nữa. Việc gì cứ phải muốn biết trước sự việc; việc gì phải vội vàng như thế? Anh cũng đã bắt đầu nhiễm cái thói ấy rồi đấy. Anh thử nghĩ xem: trong thiên nhiên, mọi sự đều diễn ra một cách khôn ngoan, thong thả, hài hòa biết chừng nào! Các hiện tượng liên hệ với nhau một cách ăn ý biết chừng nào! Chẳng biết tại sao chỉ có chúng ta là cuống quít, quay cuồng như thể lên cơn sốt nóng. Anh viết thư cho tôi đúng như thế đấy: “Phải làm sao cho phần thứ hai ra thật chóng”. Anh đã cân nhắc kỹ những lời lẽ ấy chưa? Tôi đã dại dột đem xuất bản phần thứ nhất quá sớm; tôi lại sẽ dại dột một lần nữa, nếu hấp tấp cho xuất bản phần thứ hai, chỉ vì tôi đã làm cho mọi người bất bình. Tôi điên rồi hay sao? Nỗi bất bình ấy cần cho tôi; những nỗi bất bình có lẽ sẽ cho tôi biết một điều gì. Vả lại anh căn cứ vào đâu mà kết luận rằng phần thứ hai phải cho ra đúng vào lúc này? Anh chui được vào não tôi chắc? Anh đã hiểu thấu thực chất của cái phần thứ hai đó chưa? Theo anh thì nó phải ra ngay bây giờ, theo tôi thì phải hai hay ba năm nữa là sớm nhất mà cũng phải xem từ bây giờ đến lúc ấy, hoàn cảnh có thuận lợi cho tôi không đã. Vậy ai đúng? Người đã mang sẵn cái phần thứ hai ấy trong óc, hay người chưa biết gì về nội dung của nó cả? Ở Nga, có cái mốt thật kỳ lạ! Một anh chàng lười biếng, ăn không ngồi rồi, lại xen vào thôi thúc một người bạn, và chắc là trong bụng cũng cho rằng người bạn đó sẽ mừng quýnh lên khi nghĩ rằng anh ta không làm gì cả. Hễ thấy một người nào nghiêm túc bắt tay vào một công việc nghiêm túc là từ bốn phía người ta xô nhau vào thôi thúc; rồi nếu công việc có hỏng thì người ta lại trách là làm vội quá. Nhưng la rầy anh như thế cũng đã đủ. Anh có một câu hỏi xác đáng thì tôi đã trả lời rồi: tôi lại còn cho anh biết những điều mà cho đến nay, tôi chưa hề nói với ai cả. Tuy vậy, anh cũng đừng vin vào những lời tâm sự ấy mà cho rằng tôi cũng là một con quái vật giống như các nhân vật của tôi. Không, tôi không giống họ đâu. Tôi yêu cái thiện; tôi đi tìm cái thiện; cái thiện làm cho tôi nức lòng. Tôi không ôm ấp các tính xấu của tôi như họ; tôi căm ghét, tôi ghê tởm những thói đê tiện làm cho tôi cách xa cái thiện. Tôi đấu tranh với những thói đó, và nhờ ơn Chúa, tôi sẽ thắng được. Bởi vì, quả là ngu xuẩn, nếu ta bắt chước các bậc trí thức lỗi lạc của ta mà cho rằng con người chỉ có thể tu thân ở nhà trường, và sau đó thì không còn có thể thay đổi một tí gì trong nhân cách nữa! Một ý nghĩ kỳ quặc như vậy chỉ có thể sinh ra trong cái đầu óc đần độn của một gã phong lưu công tử mà thôi. Tôi đã bỏ được nhiều thói xấu trước kia, bằng cách đem gán cho các nhân vật của mình, và như vậy là đã đưa các thói xấu ấy ra cho bản thân mình chế nhạo và cho kẻ khác dè bỉu. Trong khi giật bộ trang phục mỹ lệ và cái mặt nạ anh hùng mà ở nước ta sự xấu xa vẫn khoác, tôi đã bắt đầu tự giải thoát. Khi tôi xưng tội với Đấng đã sáng tạo ra tôi và đã rủ lòng muốn cho tôi sửa chữa các khuyết điểm, thì tôi thấy mình còn nhiều tính xấu lắm; nhưng đó không còn là những tính xấu năm ngoái nữa; một sức mạnh thần thánh đã giúp tôi thoát khỏi chúng rồi. Tôi khuyên anh không nên bỏ ngoài tai những lời của tôi: đọc xong thư, anh hãy tĩnh mặc một lát, hãy ôn lại cả cuộc đời của mình; rồi anh sẽ thấy tôi nói đúng.
Nếu anh chủ tâm suy nghĩ về câu trả lời của tôi: anh sẽ thấy nó cũng có thể dùng để trả lời những câu hỏi khác của anh. Anh cũng sẽ hiểu tại sao cho đến nay tôi vẫn chưa đem hiến bạn đọc những đoạn có sức an ủi khích lệ, tại sao tôi chưa lấy những người có đạo đức làm nhân vật. Những nhân vật như thế không thể bịa ra được. Bao giờ mà còn chưa giống họ ít nhiều, bao giờ mà còn chưa đủ sức mạnh và chí kiên nhẫn để có được một vài đức tính quý báu, thì tất cả những gì viết ra dưới ngòi bút của anh, đều có mùi xác chết và cách xa sự thật một trời một vực. Tôi cũng chẳng hề bịa ra những cơn ác mộng; những cơn ác mộng ấy đang đè nén tôi, và từ tâm hồn tôi chỉ toát ra được những gì vốn sẵn có ở trong ấy mà thôi.
1843
IV.
Phần thứ hai Những linh hồn chết đã bị đốt, bởi vì nó phải bị đốt.
Muốn tái sinh thì trước hết phải chết đi đã. Cũng thật khổ tâm cho tôi khi phải đem đốt một công trình đã tốn của tôi năm năm làm việc không tiếc sức; trong đó mỗi dòng đều làm cho tôi bồi hồi xúc động; một tác phẩm trong đó tôi đã để lại tất cả những gì tốt đẹp nhất của mình. Nhưng tôi đã đốt hết, và làm thế vào một giờ phút trông thấy cái chết trước mắt và muốn để lại một kỷ niệm xứng đáng với vong hồn mình hơn.
Tôi cảm tạ Thượng đế đã cho tôi có đủ sức làm như vậy. Ngọn lửa vừa thiêu hủy những tờ cuối cùng của cuốn sách, thì nội dung của nó, một con phượng hoàng {Trong thần thoại, phượng hoàng là con chim sống nhiều thế kỷ giữa sa mạc Ả Rập rồi tự thiêu trên dàn hỏa và tái sinh từ đám tro tàn của mình} mới, bỗng hồi sinh dưới hình dáng tinh khiết, rực rỡ hơn; và tôi nhận ra rằng cái mà trước đây tôi tưởng là một sự hài hòa thật ra chỉ là một mớ hỗn mang. Đem xuất bản phần thứ hai dưới hình thức đó sẽ có hại cho tôi nhiều hơn là có lợi. Kể ra, cũng có thể làm vui lòng một vài người ham chuộng thứ sách như thế, nhưng điều đó có gì quan trọng đâu; người đáng cho tôi quan tâm không phải là họ, mà chính là quần chúng độc giả; tôi viết Những linh hồn chết là viết cho quần chúng độc giả. Miêu tả dăm ba tính cách đẹp đẽ, tiêu biểu cho những đức tính của giống nòi ta, sẽ chẳng đưa lại kết quả nào khác hơn là làm tăng tính khoe khoang và hợm hĩnh của chúng ta. Trong chúng ta, nhất là trong đám thanh niên, có nhiều người quá tâng bốc các đức tính Nga; lẽ ra phải làm cho những đức tính đó phát triển trong bản thân họ, thì họ lại chỉ lo phô trương nó ra và hò hét với châu Âu: “Hỡi những người nước ngoài, hãy nhìn mà xem: chúng tôi tốt hơn các anh đây này!” - Lối hợm mình này rất tai hại. Nó vừa làm cho người khác bực tức, vừa làm cho chính mình thiệt thòi. Tính khoe khoang làm cho những hành vi cao quý nhất cũng thành ra ti tiện. Thế mà giờ đây, dù chưa làm được chút gì, ta đã đi phô trương những kỳ công tương lai của ta! Riêng tôi, tôi thấy thà nhất thời nản chí còn hơn là tự túc, tự mãn. Quả nhiên, khi nản chí, con người ta đi tới chỗ thấy rõ sự ti tiện của mình, cái trống không của mình, và dù muốn, dù không, cũng phải nhớ đến Thượng đế là đấng sáng tạo ra mọi vật, từ chỗ hư vô; trái lại, nếu tự mãn, con người sẽ tự mình trốn tránh mình để hiến thân cho quỷ Xa tăng, cha đẻ của lòng kiêu ngạo, thường làm cho con người lóa mắt vì ánh hào quang giả dối của những đức tính mà họ tưởng là mình có. Có những thời mà người ta chỉ có thể hướng một xã hội hay cả một thế hệ về cái thiện bằng cách cho nó thấy hết sự bỉ ổi của nó; có những thời mà cách tốt nhất để nói đến cái mỹ, cái thiện là vạch rõ ngay ra một cách thật rõ ràng một con đường đưa mỗi người đến được cái mỹ, cái thiện. Có lẽ đúng ra việc đó phải làm thành cốt tủy của phần thứ hai Những linh hồn chết, nhưng trong phần này, cái đó lại quá mờ nhạt; chính vì thế mà tôi đã đốt nó đi… Anh đừng phê phán; anh đừng kết luận; anh sẽ nhầm như một số bạn tôi; vì muốn xem tôi là nhà văn lý tưởng đúng như họ quan niệm, nên đòi hỏi tôi phải đáp ứng cái lý tưởng đó. Khi sáng tạo ra tôi. Thượng đế chẳng hề giấu không cho tôi biết sứ mệnh của tôi. Tôi sinh ra không phải để mở đầu một thời đại trong văn học, mà để làm tròn một nhiệm vụ đơn giản hơn, quen thuộc hơn, một nhiệm vụ mà mỗi người trong chúng ta đều phải nghĩ đến, chứ không riêng gì tôi. Lĩnh vực của tôi là tâm hồn, là việc nghiên cứu cuộc đời một cách nghiêm túc. Cho nên tôi phải hành động thong thả và trù tính chuyện lâu dài. Người khác cứ việc mà vội vã; tôi thì tôi không cần. Khi cần, tôi đốt đi, và chắc hẳn tôi làm như vậy là phải; vì tôi không tiến hành một việc gì mà không cầu nguyện. Anh sợ sức khỏe của tôi kém quá không cho phép tôi viết phần thứ hai. Nói cho đúng, sức khỏe của tôi quả cũng đã khá suy rồi; đôi khi cơn bệnh làm tôi đau đớn đến nỗi, giá không có sự phù trợ của Chúa, thì tôi đã không tài nào chịu nổi. Tôi đã kiệt sức và ngoài ra, tôi nhát lạnh đến nỗi sưởi mấy cũng không thấy ấm; lẽ ra phải cử động nhiều, nhưng tôi không đủ sức. Chật vật lắm tôi mới làm việc được mỗi ngày một tiếng, mà công việc không phải bao giờ cũng có kết quả. Nhưng tôi không hề mất hy vọng. Đấng đã dùng sự phiền não, những bệnh tật, những trở ngại đủ thứ để thôi thúc sự nảy nở trong con người tôi những năng lực và những tư tưởng mà không có, thì tôi không thể nào soạn nổi tác phẩm này. Đấng đã giúp cho tôi viết xong hơn một nửa tác phẩm đó, chắc chắn sẽ cho tôi đủ sức hoàn thành đến cùng. Trong khi thể xác tôi suy vi, thì tinh thần tôi càng ngày càng vững mạnh; mà tinh thần mạnh thì rồi thể xác cũng sẽ mạnh theo. Tôi nghĩ rằng khi đã đến lúc thì chỉ trong vài tuần là tôi sẽ hoàn thành cái công trình đã tốn của tôi những năm năm đau khổ.
1846