Những Linh Hồn Chết

Chương 15: Chương 15




Hôm sau mọi việc đều được dàn xếp hết sức ổn thỏa. Kôxtanjôglô vui lòng cho vay một vạn rúp không lấy lãi, không bắt bảo đảm gì cả, chỉ lấy một tờ biên lai mà thôi; đủ biết ông ta sốt sắng giúp cho mọi người thành trang chủ như thế nào.

Ông ra dẫn Tsitsikôp đi xem khắp cả cơ nghiệp của mình. Không một phút nào bị bỏ phí; không có một chỗ nào sơ suất; nông dân làm gì cẩu thả một chút là có lời nhận xét ngay. Có ai làm ăn nhếch nhác là Kôxtanjôglô, con người trăm mắt, nghìn tai, lập tức chấn chỉnh lại. Không nơi nào thấy có kẻ lười biếng. Vẻ đồng tình và mãn nguyện lộ rõ trên mọi khuôn mặt. Nhờ một lối tổ chức đơn giản mà hoàn thiện, mọi việc đều tự động tiến hành. Lối xen kẽ đồng lúa với rừng cây gây cho Tsitsikôp một ấn tượng rất mạnh. Bao nhiêu việc đã được con người ấy thực hiện, không ồn ào, không cần vạch những kế hoạch phức tạp, cũng không cần biện luận về những phương sách bảo đảm sự phồn vinh cho nhân loại! Ngược lại, người dân thủ đô sống một cuộc đời thật là vô ích, suốt ngày ở trong các phòng khách, tuôn ra những câu chuyện nhạt nhẽo và trượt chân trên những sàn gỗ đánh xi! Tất cả những điều đó đều củng cố cho Paven Ivannôvits cái ý muốn tậu một điền trang.

Kôxtanjôglô tự mình đưa khách đến gặp Khlôbuiep, để cùng xem xét điền trang. Sau một bữa ăn sáng thịnh soạn, cả ba người ngồi vào chiếc xe của Paven Ivannôvits, bấy giờ y đang hết sức cao hứng; chiếc xe hai bánh của chủ nhân đánh không đi theo sau. Con Yarb chạy ở phía trước đuổi chim chóc bay tán loạn. Suốt mười lăm verxta đồng lúa và rừng cây của Kôxtanjôglô kế tiếp nhau. Qua hết rồi là quang cảnh đổi khác ngay: lúa mọc thưa thớt, những gốc cây đã bị đẵn chứ không phải là rừng nữa. Tuy ở một địa thế rất đẹp, cái ấp nhỏ nhắn này không hề được chăm sóc; từ xa đã thấy rõ như vậy. Trước tiên thấy hiện ra một ngôi nhà mới làm bằng đá, không người ở; có thể thấy rõ rằng nó được xây từ mấy năm nay mà vẫn không xong. Phía sau nhà ấy là một nhà khác có người ở. Họ gặp chủ nhân, đầu rối bù, mắt húp, vừa mới ngủ dậy. Ông ta trạc tứ tuần, cà vạt thắt lệch, áo đuôi én vá một miếng, giày thủng một lỗ.

Thấy khách đến, ông ta mừng quýnh như được gặp lại anh em ruột thịt sau một thời gian dài xa cách.

- Kônxtantin Fiôđôrôvits, Platôn Mikhailôvits, quý hóa quá. Thật không ngờ! Không ngờ lại có khách đến chơi! Ai nấy đều tránh tôi như tránh tà, họ chỉ sợ tôi hỏi vay tiền. Chao ôi! Đời sống gay go thật, Kônxtantin Fiôđôrôvits ạ. Vả chăng cũng tại tôi; tôi đã sống như một con lợn. Tôi ăn mặc như thế này mà tiếp các vị, giày thủng cả ra; xin các vị thứ lỗi. Tôi biết lấy gì thết các vị bây giờ?

- Thôi đừng khách sáo nữa. Chúng tôi đến có việc. Tôi đưa đến cho ông một người mua ấp đây: ông Paven Ivannôvits Tsitsikôp, Kôxtanjôglô nói.

- Rất hân hạnh được làm quen với ngài. Xin ngài cho tôi được bắt tay.

Tsitsikôp chìa cả hai tay ra.

- Ông Paven Ivannôvits ạ, tôi cũng muốn cho ông xem một điền trang khả quan. Nhưng… xin lỗi, các vị đã điểm tâm chưa?

- Rồi, rồi; Kôxtanjôglô cắt ngang. Chúng tôi không ở lâu đâu, ta đi xem ngay đi.

- Thế thì xin mời các vị đi xem cảnh lộn xộn và bê trễ nhà tôi.

Khlôbuiep và khách cầm mũ lưỡi trai và cùng đi xem xét điền trang. Họ xem làng mạc trước: một con đường dài hai bên là những túp nhà cũ kỹ, cửa sổ nhỏ xíu, bịt bằng những miếng giẻ rách.

- Xin mời các vị đi xem cảnh lộn xộn và bê trễ nhà tôi, Khlôbuiep nhắc lại. Các vị ăn sáng trước khi đến đây là rất phải. Ông Kônxtantin Fiôđôrôvits ạ, ông thử tưởng tượng là tôi không còn lấy một con gà giò nữa: tình cảnh tôi đến thế đấy.

Ông ta thở dài, và thấy rằng Kônxtantin Fiôđôrôvits chẳng có vẻ gì là ái ngại cho mình, liền đi lên trước với Platônôp, cầm tay chàng siết vào ngực mình. Kôxtanjôglô và Tsitsikôp khoác tay nhau đi sau họ một quãng.

- Gay lắm, Platôn Mikhailôvits ạ, Khlôbuiep nói với Platônôp. Ông không thể tưởng tượng là gay go đến thế nào! Không có tiền, không có lúa, không có giày; ông chưa biết cái cảnh ấy. Giá còn trẻ trung thì tôi cũng cóc cần; nhưng khi cảnh trắc trở đến với người ta, lúc sắp bước vào tuổi già, lại phải đèo bòng một vợ với năm con, thì dù muốn dù không, cũng nảy ra những ý nghĩ bi quan…

- Nhưng nếu ông bán ấp đi thì sẽ ổn chứ? Platônôp hỏi.

- Chẳng ổn chút nào! Khlôbuiep vừa nói vừa hoa tay, hoa chân. Chỉ vừa đủ trả nợ, còn lại không được nghìn rúp.

- Thế thì ông sẽ làm ăn ra sao?

- Có trời biết được.

- Tại sao ông không trù tính cách gì để cứu vãn tình thế?

- Tôi biết làm cách gì bây giờ!

- Thì ông chỉ cần kiếm lấy một chỗ làm là xong.

- Tôi chỉ là thư ký tỉnh thôi {Chức quan văn bậc mười hai, ngang với chức trung úy bên quan võ}. Liệu họ sẽ cho tôi làm gì? Một chức vụ vô nghĩa nào đấy thôi. Liệu họ trả cho tôi được bao nhiêu lương? Năm trăm rúp!

- Ông làm quản lý vậy.

- Ai người ta giao ấo cho tôi? Ấp của tôi, tôi còn phá sạch nữa là.

- Nhưng khi người ta bị nguy cơ chết đói đe dọa, cũng phải mưu tính cái gì chứ. Tôi sẽ hỏi anh tôi xem có kiếm cho ông được công việc gì không, nhờ người nào đấy ở trên tỉnh người ta nói giúp.

- Không xong đâu, Platôn Mikhailôvits ạ, Khlôbuiep vừa nói vừa thở dài và siết chặt cánh tay Platônôp. Tôi không được tích sự gì đâu: tôi đã tàn tạ trước tuổi; đau lưng không dứt được vì hồi trẻ tôi chơi bời quá độ, vai lại tê thấp nữa. Tôi thì làm được cái gì? Tại sao phải phí tiền công quỹ để trả lương cho tôi? Bây giờ không thiếu gì những viên chức chạy theo những chức vụ béo bở. Lạy Chúa, đừng để người ta tăng thêm gánh nặng của kẻ nghèo để lấy tiền trả lương cho tôi!

“Ăn chơi phóng đãng rốt cục là thế đấy! Platônôp nghĩ thầm. Còn tệ hơn cả tình trạng dửng dưng của mình nữa!”

Trong khi họ chuyện trò như vậy, Kôxtanjôglô, đi phía sau với Tsitsikôp, mỗi lúc lại tức giận thêm.

- Ông nhìn mà xem, ông ta vừa nói vừa giơ tay chỉ mấy túp nhà lụp sụp, hắn đã làm cho nông dân cùng khổ đến thế nào! Không có xe tải, cũng không có ngựa. Ông ạ, gặp cơn dịch tễ thì đừng tiếc của cải nhà mình làm gì; thà bán hết đi mà mua bò, mua ngựa cấp cho nông dân, đừng để họ thiếu công cụ làm ăn một ngày nào cả. Ông biết không, cứ như thế này thì hàng năm cũng chưa bù đắp lại được cái hại đã gây ra. Nông dân đã quen thói biếng nhác và rượu chè. Chỉ riêng một việc là ngồi không suốt một năm cũng đủ làm cho họ vĩnh viễn hư hỏng rồi; thế là bây giờ họ đã quen thói rách rưới và lêu lỏng. Còn đất nữa! Tình trạng đất đai ra sao? Ông thử nhìn mà xem! Ông ta vừa nói vừa chỉ mấy bãi cỏ hiện ra khi họ đã đi quá dãy nhà gỗ. Thế mà mùa xuân chỗ này cũng ngập nước lũ, chứ có phải không đâu. Giá phải tay tôi thì tôi sẽ trồng gai, và chỉ mỗi chỗ gai này thôi cũng thu được năm nghìn rúp; tôi sẽ gieo cải củ, cũng thu được bốn nghìn rúp. Ông thử nhìn chỗ lúa mạch ở trên gò kia kìa; đó là lúa năm ngoái còn sót lại, vì năm nay hắn ta có gieo gì đâu, tôi biết… lại mấy cái khe kia nữa!... Phải tôi thì tôi sẽ trồng ở đây những rừng cây cao đến nỗi quạ cũng không bay lên đến ngọn được. Đất đai thế này, cả một kho vàng mà bỏ đi! Cho không có gia súc mà cày đi nữa, thì cũng phải trồng rau chứ! Tôi thì tôi làm như thế đấy. Tự tay cầm lấy cuốc, cho vợ, cho con, cho đầy tớ ra làm đi; có chết cũng chết trong khi làm, đồ súc sinh! Ít nhất cũng chết trong khi làm bổn phận, chứ không phải chết bên bàn ăn trong khi đang ngốn như con lợn!

Nói đoạn Kôxtanjôglô khạc nhổ, mặt sa sầm, nước da tái bủng ra, như thường thấy ở những người mắc chứng sung mật.

Một lát sau họ đứng ở bên trên một sườn dốc mọc chênh vênh những cây hạt đỗ {Caragana arborescens, một loại cây nhỏ có quả như hạt đỗ, rất phổ biến ở miền Đông nước Nga}; một khúc sông lấp lánh ở phía xa; một góc nhà của tướng Bêtrisep nép mình trong các lùm cây, hiện ra ở chân trời. Phía sau có thể trông thấy một ngọn đồi um tùm, vì xa nên trông như phủ một làn sương lam; nhờ chi tiết đó, Tsitsikôp nhận ngay ra điền trang của Tentietnikôp.

- Nếu trồng rừng ở đây, y nói, phong cảnh có thể còn đẹp hơn nữa…

- À! Ông thích phong cảnh lắm à! Kôxtanjôglô bỗng nghiêm sắc mặt nhìn Tsitsikôp nói. Hãy coi chừng; hễ cứ tìm cách làm cho phong cảnh đẹp, ông sẽ không có bánh ăn, mà phong cảnh cũng chẳng còn nữa. Hãy chú trọng đến lợi ích đã, cái đẹp tự khắc sẽ có. Cứ xem các thành phố thì biết! Xưa nay những thành phố đẹp nhất vẫn là những thành phố tự nó mọc lên; trong đó mỗi người đều xây dựng cho nhu cầu và sở thích của mình; còn những thành phố dựng theo đồ án thì cứ như những trại lính… Gác cái đẹp sang một bên! Cái cần trước đã…

- Thật đáng tiếc là phải đợi lâu quá: tôi chỉ muốn được trông thấy ngay mọi vật được như mình mong ước!

- Dễ ông là một thanh niên hai mươi lăm tuổi chắc?... Một anh công chức ở Pêterbua?... Hãy kiên nhẫn! Làm việc sáu năm liền đi: trồng, gieo, cuốc đất không ngừng tay. Vất vả đấy. Nhưng một khi đã có đà và đất đai đã bắt đầu tự nó giúp đỡ ông, thì ông sẽ thấy nó không phải như một cái máy vớ vẩn nào đâu. Không đâu, ông bạn ạ; ngoài bảy mươi cánh tay vô hình làm việc cho ông. Mọi thứ đều sẽ tăng lên gấp mười! Trong ấp tôi, có còn phải can thiệp vào cái gì nữa đâu; bây giờ mọi sự đều tự tiến hành theo cái đà sẵn có. Phải thiên nhiên vốn ưa tính kiên nhẫn; đó là một quy luật mà chính Thượng đế đã bắt nó theo. Thượng đế vốn ưu đãi những người kiên nhẫn.

- Nghe ông nói, người ta thấy mình cường tráng hẳn lên. Trí tuệ được nâng cao lên.

- Đất đai cày bừa thế này có chết không! Kôxtanjôglô chỉ sườn đồi và kêu lên như thế, giọng chua chát. Tôi không đứng đây nữa đâu; trông thấy cảnh hỗn độn và bỏ hoang thế này tôi đến chết mất. Bây giờ ông kết thúc cuộc điều đình với hắn, không cần tôi nữa. Ông nên mau mau thu lấy cái kho tàng của lão ngốc ấy đi, đừng để hắn làm ô uế các của trời cho nữa!

Kôxtanjôglô sa sầm mặt lại, vẻ bứt rứt như những người có chứng sung mật; ông ta từ giã Tsitsikôp và đến chào chủ nhân để về.

- Sao thế, ông Kônxtantin Fiôđôrôvits? Khlôbuiep ngạc nhiên kêu lên. Vừa mới đến ông đã về ngay rồi ư?

- Tôi không có thì giờ. Ở nhà tôi có việc cần, phải về ngay, Kôxtanjôglô nói.

Ông ta chào mọi người, lên chiếc xe nhà ra về. Khlôbuiep, hình như hiểu tại sao khách vội về như vậy.

- Ông Kônxtantin Fiôđôrôvits không đành tâm đứng nhìn cái cảnh này; ông ta nói; đối với một nhà doanh nghiệp như ông ta, mà phải chứng kiến một cảnh bê trễ như thế này, thật chẳng vui tí nào. Ông Paven Ivannôvits ạ, ông thử tưởng tượng là năm nay tôi không gieo hạt nữa, có chết không. Thật tình như thế đấy! Không có hạt mà gieo, lại không có ngựa mà cày nữa. Platôn Mikhailôvits, nghe nói ông anh nhà làm điền sản sinh lợi rất tài tình; còn như Kônxtantin Fiôđôrôvits thì thật là một Napôlêông trong lĩnh vực mình. Tôi thường tự nhủ: “Làm sao một người mà lại có tới ngần ấy trí tuệ? Giá một thằng ngốc như tôi được một mảnh nhỏ cái trí tuệ ấy!...” Thưa các vị, đi qua cái cầu này, xin cẩn thận kẻo nhào xuống ao đấy ạ; mùa xuân vừa rồi tôi đã cho chữa ván cầu rồi, chứ có phải không đâu… Nông dân của tôi thật tội nghiệp; cần phải có người làm gương cho họ noi theo; nhưng tôi thì làm gương gì? Tôi không thể đòi hỏi họ nhiều được. Ông Paven Ivannôvits ạ, ông hãy nắm lấy họ. Tôi làm thế nào mà dạy họ làm ăn ngăn nắp được, trong khi chính tôi chẳng có ngăn nắp gì cả? Tôi đã muốn giải phóng họ từ lâu, nhưng như vậy cũng chẳng ăn thua gì. Trước hết họ cần phải học cách sống đã. Phải có một người nghiêm nghị và công minh ở với họ lâu lâu và tỏ ra có sức hoạt động không biết mệt mỏi… Tôi cứ suy từ bản thân tôi thì biết, người Nga cần phải được kích thích, nếu không họ sẽ han gỉ và ngủ đi mất.

- Lạ thật, Platônôp nói, không hiểu tại sao người Nga lại có thể suy đốn đến nỗi hễ một kẻ tiện dân mà không có ai giám sát là thành một thằng say rượu, một đứa vô lại?

- Tại thiếu học thức. Tsitsikôp nhận xét.

- Có trời biết được, Khlôbuiep nói. Chúng ta đều là người có học; chúng ta đã theo các lớp ở trường đại học; thế nhưng phỏng chúng ta làm được gì nào? Tôi đã học được những gì? Chắc chắn không phải là nghệ thuật sống ở đời, mà là nghệ thuật tiêu tiền để mua đủ những thứ vui tinh vi; tôi đã quen nhiều món rất tốn tiền. Có phải vì tôi đã học hành chẳng ra gì không? Không, vì có nhiều bạn khác cùng một cảnh như tôi. Có vài ba người thu được lợi ích thực sự, có lẽ vì họ vốn sẵn thông minh; những người khác chỉ cố học lấy những cái làm cho sức khỏe hư hỏng và tiền của hao mòn.

- Vâng, Tsitsikôp vừa mỉm cười vừa nói: quả có thế thật.

- Đôi khi tôi có cảm tưởng rằng con người Nga đã hư hỏng không có cách gì cứu vãn được nữa. Cái gì nó cũng làm, mà không đạt kết quả nào cả. Lúc nào nó cũng nghĩ rằng từ ngày mai trở đi bắt đầu một cuộc sống mới, chịu ăn uống kham khổ; nhưng ngay tối hôm đó, nó chén một bữa bất thùng chi thình, không cựa được nữa, đến nỗi chỉ còn chớp chớp được đôi mắt, lưỡi dính bết lại; và ngồi ỳ ra đấy nhìn thiên hạ, như con cú.

- Đúng đấy, Tsitsikôp mỉm cười nói; cũng có khi như thế.

- Ta về lối này đi, Khlôbuiep nói. Ta sẽ xem qua đất đai của nông dân nhà tôi. Ông thấy không, trí khôn chẳng đến phần chúng ta. Tôi e rằng trong chúng ta chẳng có ai có trí khôn cả. Dù tôi có thấy người nào sống có nền nếp, biết dành dụm tiền của, tôi vẫn không tin hắn; đến khi già, ma quỷ cũng sẽ làm cho hắn đổ đốn và hắn sẽ buông xuôi hết một lượt. Dù văn minh hay không, chúng ta đều giống nhau cả; tôi dám cam đoan như thế! Chúng ta thiếu một cái gì đấy; nhưng thiếu cái gì thì tôi không biết thế nào mà nói.

Trên đường về, quang cảnh vẫn như thế. Đâu đâu cũng một cảnh lộn xộn, bẩn thỉu, gai mắt. Lại thêm một vũng nước to tướng đọng ngay giữa đường làng. Người ta nhận thấy nông dân cũng có cái vẻ sa đọa, cẩu thả như chủ họ. Một mụ đàn bà mặc chiếc áo vải thô rách rưới và cáu bẩn, đang ra sức nện một con bé khốn khổ, vừa nện vừa chửi bới om sòm. Cách đấy một quãng, hai người nông dân thản nhiên đứng ngắm mụ say rượu đang lồng lộn. Một trong hai người gãi gãi ở chỗ phía dưới lưng; người kia ngáp dài. Nhà cửa đều hở hoác ra như ngáp, mái nhà cũng thế. Trông thấy cảnh ấy, Platônôp cũng ngáp dài. Tsitsikôp thì tự nhủ: “Điền trang tương lai của mình đây, be bét những lỗ thủng, chằng chịt những mảnh vá”. Thật vậy, một chiếc izba lấy một cánh cổng che thay mái; những cây gỗ lấy trộm trong kho nhà chủ dùng để chống đỡ mấy khung cửa sổ sắp sụp. Có thể thấy rõ là những người mujik áp dụng cái mẹo chiếc áo caftan của Triska {Một bài thơ ngụ ngôn của Krưlôp chế giễu bọn địa chủ giật gấu vá vai, mong cầm cố gia sản để giải quyết công việc làm ăn}; họ cắt vạt áo với cổ áo để vá khuỷu tay.

- Điền trang của ông tàn tạ lắm, Tsitsikôp nói, khi họ đã đi xem xong, sắp về đến nhà.

Họ bước vào. Trong các phòng, vẻ sang trọng lẫn với vẻ xơ xác nom rất chướng mắt. Một cuốn Sêxpia gác trên một cái giá bút; trên bàn vứt một cái nắm tay bằng ngà dùng để tự gãi lưng. Bà chủ nhà ăn mặc rất nhã và hợp thời trang, nói chuyện thành phố và nhà hát mới xây dựng. Mấy đứa con, trai có, gái có, đều tinh nhanh và vui vẻ; chúng ăn mặc khá tươm tất, lại có cả một bà gia sư nữa. Nhưng như thế trông lại càng não lòng hơn. Thà chúng nó mặc váy bằng vải tréo go, mặc sơ mi rộng chạy chơi quanh nhà, chẳng có gì khác con cái nông dân mà còn hơn. Một lát sau có một bà khách lắm mồm đến thăm, bà chủ liền đưa về phòng riêng; lũ trẻ theo vào; ba người đàn ông ngồi lại với nhau.

- Thế ông định giá bao nhiêu? Tsitsikôp hỏi. Thú thật là tôi mong một giá rất rẻ, giá hạ nhất, vì tình trạng của ấp này còn tệ hơn tôi tưởng.

- Một tình trạng thảm hại, ông Paven Ivannôvits ạ, Khlôbuiep nói. Và không phải chỉ có thế đâu. Tôi chẳng giấu gì ông: trong số một trăm nông phu có tên trong sổ đinh, chỉ năm chục là sống; còn thì đã chết dịch tả và không chết thì cũng đã chuồn mất không giấy thông hành, thành thử cũng phải xem như đã chết; nếu đưa ra tòa thì đến phải cúng hết cả gia tài vào đấy. Cho nên tôi chỉ xin ba mươi lăm nghìn rúp.

Dĩ nhiên là Tsitsikôp muốn mặc cả.

- Lạy Chúa! Cái ấp thế này mà ông đòi những ba mươi lăm nghìn rúp! Hai mươi lăm nghìn thôi.

Platônôp thấy ngượng. Chàng nói:

- Mua đi, Paven Ivannôvits ạ; ấp này cũng đáng ngần ấy đấy. Nếu ông không trả được ba mươi lăm nghìn rúp, thì hai anh em tôi sẽ chung tiền nhau mua vậy.

Tsitsikôp đâm lo, vội nói: - Thôi được, tôi bằng lòng mua giá ấy. Thế là thỏa thuận; nhưng với điều kiện là trả một nửa tiền và một nửa thì sang năm.

- Không được, Paven Ivannôvits ạ, hoàn toàn không thể được. Ông trả cho tôi một nửa ngay bây giờ, rồi mười lăm ngày nữa ông trả nốt số còn lại. Vì giá có đem cầm, Ngân hàng Lomba cũng trả tôi ngần ấy; chỉ hiềm là tôi không có gì cho bọn đỉa đói nhân viên của nó ních đấy thôi.

- Làm thế nào bây giờ? Thật đấy. Tôi cũng chẳng biết nữa. Tsitsikôp nói. Tôi chỉ có cả thảy mười nghìn rúp thôi.

Hắn nói dối. Kể cả số tiền vay của Kôxtanjôglô, hắn có đến hai mươi nghìn; nhưng phải trả trong một lúc một số tiền to như vậy, hắn xót quá.

- Không được, tôi xin ông đấy, Paven Ivannôvits ạ! Xin cam đoan với ông là tôi đang cần mười lăm nghìn rúp.

- Tôi sẽ cho ông vay năm nghìn, Platônôp nói xen vào.

- Thế thì được! Tsitsikôp vừa nói vừa nghĩ bụng: “Ái chà, hắn cho vay bây giờ thật đúng lúc quá!”

Tráp bạc được bưng từ xe vào. Paven Ivannôvits lấy ra mười nghìn rúp cho Khlôbuiep, hứa đến mai sẽ đưa thêm năm nghìn nữa. Nhưng mà hứa là hứa vậy, ý định của Tsitsikôp là sẽ đưa thêm ba nghìn rúp, còn lại sẽ đưa trong hai, hay ba ngày sau, và nếu có thể thì khất nữa. Paven Ivannôvits thấy khó chịu đặc biệt khi phải buông tiền ra. Khi một việc tối cần thiết buộc y phải làm như vậy, thì y vẫn thích khất lại ngày hôm sau hơn là trả ngay hôm nay. Chúng ta cũng đều hành động như thế cả thôi. Chúng ta vốn thích chơi khăm người đến xin xỏ: cứ cho hắn ngồi rục xác ngoài phòng đợi! Ta cần gì biết mỗi một giờ đồng hồ đối với hắn quý như thế nào và công việc của hắn bị thiệt vì phải đợi như vậy! Ngày mai ông bạn hẵng ghé lại nhé; hôm nay tôi không có thì giờ!

- Ông sẽ dọn đi ở đâu? Platônôp hỏi Khlôbuiep. Ông còn có ấp nào khác không?

- Sẽ phải dọn lên tỉnh: tôi có một ngôi nhà nhỏ trên ấy. Dù sao việc đó cũng rất cần cho lũ trẻ, chúng nó phải có thầy dạy nhạc, dạy khiêu vũ, dạy thánh sử mà ở thôn quê thì thuê đắt mấy cũng không có.

“Ăn cũng không có mà ăn, thế mà còn cho con học khiêu vũ”, Tsitsikôp nghĩ thầm.

“Lạ thật!”, Platônôp tự nhủ.

- Trong khi chờ đợi, ta phải uống cốc rượu, mừng việc mua bán này chứ; Khlôbuiep nói. Này, Kiriuska, đem ra đây một chai sâm banh, cậu ơi!

- “Hắn không có bánh ăn, mà lại có sâm banh!”, Tsitsikôp nghĩ thầm.

Platônôp không còn biết nghĩ ra sao nữa.

Khlôbuiep có sâm banh trong nhà, chẳng qua là sự bất đắc dĩ. Ông ta cho người ra tỉnh mua kvax, nhưng chủ hiệu không bán chịu. Thế nhưng đằng nào cũng phải có gì mà uống, thì lại có một người Pháp làm đại lý rượu vang, mới ở Pêterbua đến, bán chịu cho mọi người; nên đành phải mua sâm banh vậy.

Sâm banh đã mang ra, họ uống ba cốc; không khí vui hẳn lên. Khlôbuiep quên hết lo âu: ông ta trở thành một người nhã nhặn và hóm hỉnh, luôn mồm nói những câu dí dỏm và kể những chuyện khôi hài. Lời lẽ của ông ta tỏ rõ một sự hiểu biết rất rộng về con người và cuộc đời. Ông ta quan sát được khá nhiều sự vật một cách chính xác; biết vẽ lại trong vài câu những đặc điểm của các trang chủ quanh vùng một cách sắc nét; vạch ra những nhược điểm và sai lầm của từng người một cách rõ ràng, biết tường tận lịch sử của những người quý tộc phá sản, những nguyên nhân và hoàn cảnh phá sản của họ; biết miêu tả những thói quen nhỏ nhặt nhất của họ một cách hài hước, độc đáo đến nỗi người khác thích mê, sẵn sàng thừa nhận ông ta là một người thông minh lỗi lạc.

- Tôi lấy làm lạ, Tsitsikôp nói, rằng một người thông minh như ông mà không tìm được cách cứu vãn tình thế.

- Tôi có cách đấy chứ, Khlôbuiep nói. Đoạn ông ta trình bày cho họ nghe một mớ dự định, toàn là những dự định vô lý, quái gở, ít căn cứ vào việc biết người và hiểu đời đến nỗi người ta chỉ có thể so vai mà rằng: “Trời! Từ chỗ hiểu đời đến chỗ biết sử dụng vốn hiểu biết đó, thật còn xa lắc, xa lơ!” - Mọi sự đều dựa vào một điều kiện cần thiết là phải kiếm ra ngay lập tức mười vạn hay hai mươi vạn rúp. Ông ta cho rằng hễ kiếm được là công việc sẽ ổn ngay; những lỗ hổng sẽ được lấp kín; ông ta có thể tăng thu hoạch lên gấp bốn và trả hết nợ nần. Và ông ta kết luận: - Nhưng các ông bảo tôi làm thế nào? Làm gì có một ân nhân sẵn lòng cho vay hai mươi vạn rúp, hay mười vạn thôi cũng thế. Có thể thấy rõ ràng đó không phải là ý Chúa.

“Chúa mà cho một thằng ngu như thế hai mươi vạn rúp thì thật là chuyện lạ!”, Tsitsikôp nghĩ thầm.

- Quả tình, tôi có một bà dì, giàu ba triệu; Khlôbuiep nói. Bà lão ngoan đạo vẫn thường cúng cho nhà thờ và các tu viện; nhưng lại rất keo kiệt khi cần giúp đỡ đồng loại. Một bà dì kiểu cổ; được trông thấy bà ta kể cũng hay. Bà ta nuôi bốn trăm con chim bạch yến, những chó cộc, những người ăn báo cô và một lũ đầy tớ quả là chẳng đâu có trong thời buổi này nữa. Tên gia nhân ít tuổi nhất cũng xấp xỉ sáu mươi, thế mà dì tôi vẫn gọi: “- Này, thằng nhỏ!”. Có người khách nào mà thiếu lịch sự, là bà ta ra lệnh đừng dọn cho ăn món này, món nọ; và lệnh đó được thi hành ngay.

Platônôp mỉm cười.

- Bà ta tên là gì và ở đâu, Tsitsikôp hỏi.

- Bà ta ở trên tỉnh, tên bà Alexanđra Ivanôpna Khanaxarôva.

- Sao ông không đến nhờ bà ta giúp đỡ? Platônôp hỏi. Tôi chắc là nếu bà ta biết tình cảnh gia đình ông thì bà ta sẽ không thể từ chối được.

- Từ chối chứ! Bà dì yêu quý của tôi nhẫn tâm lắm; thật là một quả tim sắt đá, Platôn Mikhailôvits ạ. Hơn nữa, bà ta đã nhiều kẻ theo nịnh hót lắm rồi. Trong đó có một tay muốn làm tỉnh trưởng, hắn đã tìm cách xông vào nhận họ với bà ta… Cầu Chúa phù hộ cho hắn! May ra hắn thành công cũng không biết chừng.

“Thằng cha ngu thật! Tsitsikôp nghĩ thầm. Mình mà có một bà dì như thế thì mình sẽ chăm như vú em chăm con mọn ấy chứ!”.

- Câu chuyện khô khan quá! Khlôbuiep nói. Này, Kiriuska! Đưa chai sâm banh nữa ra đây nào.

- Không, không, tôi không uống nữa đâu; Platônôp nói.

- Tôi cũng thế, Tsitsikôp nói; và cả hai đều cương quyết từ chối.

- Ít nhất các ông cũng phải hứa là sẽ lên chơi nhà tôi trên tỉnh. Mồng tám tháng bảy, tôi sẽ thết tiệc các quan chức.

- Lạy Chúa! Platônôp kêu lên. Cảnh ngộ như ông mà lại còn thết tiệc!

- Biết làm thế nào được? Đó là một bổn phận không thể tránh được, Khlôbuiep nói. Tôi phải đáp lễ họ chứ.

Platônôp trợn tròn xoe mắt. Chàng không biết rằng ở nước Nga này, ở tỉnh nhỏ cũng như ở hai kinh đô, có những bậc hiền triết mà cuộc đời là một bài tính không ai tài nào giải nổi. Có kẻ tưởng chừng như đã ăn hết của cải, nợ nần lút đầu lút cổ và trước mắt chẳng còn phương sách gì nữa; ấy thế mà vẫn mở tiệc. Tất cả các khách đến dự đều nói rằng đây là bữa tiệc cuối cùng của hắn, và ngày mai người ta sẽ lôi cổ chủ tiệc vào tù. Mười năm sau, bậc hiền triết vẫn đấy, nợ nần nhiều hơn bao giờ hết, và lại mở tiệc: và khách lại bảo đấy là bữa tiệc cuối cùng, ngày mai chủ nhân sẽ vào tù.

Ngôi nhà của Khlôbuiep trên tỉnh có một quang cảnh chẳng tầm thường chút nào. Hôm nay một ông pôp mặc áo lễ đọc kinh trong nhà; ngày mai một tốp diễn viên người Pháp tập hài kịch ở đấy. Có khi trong nhà không tìm đâu ra một mẩu bánh mì; có khi lại tiếp đủ các thứ nghệ sĩ, và khi ra về mỗi người lại mang theo một tặng phẩm. Tình cảnh Khlôbuiep đôi khi điêu đứng đến nỗi, giá phải người khác thì đã thắt cổ hay bắn vào đầu mà chết từ lâu; nhưng do một sự tương phản lạ lùng với nếp sống phóng đãng của ông ta, lòng mộ đạo của Khlôbuiep đã làm cho ông ta tránh được tuyệt vọng. Trong những lúc khó khăn ấy, ông ta đọc thân thế các vị thánh đã luyện được cho tinh thần mình vượt lên trên cảnh khốn cùng. Những khi ấy tâm hồn ông ta cảm kích khôn xiết, lòng ông ta dào dạt tình thương, mắt ông ta nhòa lệ. Ông ta cầu nguyện; và lạ thay, hầu như lần nào cũng có một sự cứu giúp bất ngờ đến với ông ta: một người bạn cũ nào đó sực nhớ tới ông và gửi tiền cho; hoặc giả một người đàn bà không quen biết gì đi qua, tình cờ biết được chuyện ông ta, liền động lòng trắc ẩn, biếu một món quà sang trọng; hoặc giả một vụ kiện mà ông ta chưa từng nghe nói đến, bỗng xoay ra có lợi cho ông ta. Bấy giờ ông ta thành kính nhận ra tấm lòng từ bi vô cùng, vô tận của đấng Sáng thế, bèn đặt một lễ Ca ngợi, rồi lại tiếp tục cuộc sống phóng đãng.

- Tôi thật ái ngại cho ông ta, Platônôp nói với Tsitsikôp khi họ đã từ giã ra về.

- Thật là một đứa con hoang dã lạc loài! Tsitsikôp nói. Những người như thế không đáng cho người ta thương hại.

Chẳng mấy chốc cả hai người đều không còn nghĩ đến Khlôbuiep nữa: Platônôp thì bởi vì vẫn thường nhìn tình cảnh của người khác một cách dửng dưng như nhìn mọi sự ở đời; những nỗi khổ của đồng loại khiến lòng chàng se lại; nhưng những ấn tượng không khắc sâu vào tâm hồn; chỉ mấy phút sau là chàng không còn nghĩ đến Khlôbuiep nữa; vì lý do dễ hiểu là đến bản thân chàng nữa, chàng cũng có nghĩ đến đâu. Tsitsikôp, thì bởi vì bao nhiêu ý nghĩ đều tập trung vào việc mua ấp vừa rồi: bỗng dưng trở thành chủ nhân thực sự của một trang ấp mà trước đây chỉ có trong trí tưởng tượng, y đâm ra tư lự; những dự định và ý nghĩ của y trở nên nghiêm trang hơn, khiến mặt y bất giác có vẻ sinh động hơn. “Kiên nhẫn, cần cù! Chẳng phải là khó: mình đã quen với hai đức tính đó, có thể nói là ngay từ thưở mới lọt lòng. Đối với mình, đó chẳng phải là cái gì mới mẻ. Nhưng giờ đây, ở cái tuổi này, liệu mình có còn kiên nhẫn được như thời trẻ trung nữa không?” Dù có xem đi xét lại việc tậu ấp vừa rồi về mặt nào, y cũng thấy là một việc có lợi. Có thể đem cầm cả điền trang sau khi đã bán từng khoảnh một những đất tốt nhất. Cũng có thể tự mình khai thác lấy, theo gương Kôxtanjôglô, tận dụng những lời khuyên của ông ta, người láng giềng và lại là ân nhân. Cũng có thể đem bán lại (nếu không thấy thích nghề nông, chỉ giữ lại các nông phu trốn và chết). Cách này còn có một cái lợi khác nữa: chẳng có gì ngăn trở y chuồn khỏi vùng này, không trả cho Kôxtanjôglô số tiền đã vay. Không phải Tsitsikôp nghĩ ra cái chước này; mà tự nó hiện ra, đầy vẻ khiêu khích và sức quyến rũ. Ai làm sinh ra những cái ý nghĩ mất dạy nó đến với người ta một cách đột ngột thế nhỉ?

Paven Ivannôvits có một cảm giác khoái lạc mới mẻ, cái khoái cảm được làm trang chủ thực sự, được làm chủ những đất đai, nhà cửa, những nông nô bằng xương bằng thịt. Dần dần y đâm ra nhảy nhót, xoa tay, nháy mắt, đưa nắm tay lên miệng làm kèn, khẽ thổi ứ ư một thứ hành khúc; thậm chí còn nói to lên mấy câu tự mình khích lệ mình và tặng mình những tính từ như cái mõm xinh xinh của ta và con gà giò beo béo của ta. Nhưng rồi sực nhớ ra rằng trong xe không phải chỉ có mình mình; y bỗng lại ngồi yên, cố ghìm nỗi hân hoan bồng bột; và khi Platônôp, nghe những âm thanh ấy tưởng là y nói gì với mình, liền hỏi: “- Cái gì ạ?” - thì y đáp: “- Không, có gì đâu!”.

Mãi đến lúc ấy, Tsitsikôp mới nhìn ra chung quanh và nhận ra rằng nãy giờ, xe họ đang đi qua một khu rừng tuyệt đẹp, trên một con đường hai bên trồng bạch dương, thân trắng bóng như một dãy rào phủ tuyết, vươn lên, thanh tú và nhẹ nhàng giữa màu xanh dịu của lá non. Mấy con họa mi thi nhau hót véo von; những đóa uất kim hương điểm vàng cho thảm cỏ xanh. Tsitsikôp không tài nào cắt nghĩa được tại sao lúc nãy đang ở giữa cánh đồng không, mà giờ đã chuyển vào một khung cảnh nên thơ như vậy. Sau rặng cây, hiện ra một ngôi nhà thờ trắng, và ở phía bên kia có thể trông thấy một cái cổng sắt. Từ cuối đường đi, một người đàn ông đang tiến về phía họ, đầu đội mũ lưỡi trai, tay cầm một cái gậy sần sùi những mấu. Một con chó Anh, chân thon, chạy trước mặt người đó.

- Anh tôi đây, Platônôp nói, xà ích dừng lại!

Chàng xuống xe, Tsitsikôp xuống theo. Hai con chó đã quấn lấy nhau. Con Azô chân thon, thè cái lưỡi mềm mại liếm lên mõm con Yarb, lên tay Platônôp, rồi chồm lên người Tsitsikôp và liếm tai y.

Hai anh em ôm chầm lấy nhau.

- Chú tệ quá, Platôn ạ, chú làm sao thế? Vaxili hỏi.

- Anh muốn nói gì kia? Platôn nói, vẻ hờ hững.

- Sao thế? Ba ngày liền chẳng thấy tăm hơi chú đâu! Một tên mã phu của Pêtukh dắt con ngựa giống của chú về, hắn bảo: “Cậu ấy đi với một người nào ấy”. Ít nhất chú cũng nhắn về cho anh biết chú đi đâu, có việc gì, bao giờ thì về chứ! Chú ạ, ai lại thế bao giờ? Suốt mấy hôm nay có Chúa biết anh đã tưởng tượng ra những gì có thể xảy đến cho chú.

- Vâng, em quên báo cho anh biết; Platôn nói. Em đi với ông đây đến anh Kônxtantin Fiôđôrôvits, hai anh chị gửi lời thăm anh. Ông Paven Ivannôvits, xin giới thiệu đây là anh Vaxili tôi. Anh Vaxili, đây là ông Paven Ivannôvits Tsitsikôp.

Hai người được giới thiệu bắt tay nhau, rồi bỏ mũ ra để ôm quàng lấy vai nhau.

- Cái lão Tsitsikôp này là ai thế nhỉ? Vaxili nghĩ thầm. Chú Platônôp vốn chẳng kén chọn chút nào trong việc giao thiệp.

Ông ta liền quan sát Tsitsikôp trong chừng mực mà lễ độ cho phép, và dáng dấp của ông bạn chúng ta làm cho ông yên tâm.

Về phía mình, Tsitsikôp cũng quan sát người mới quen trong chừng mực mà lễ độ cho phép. Ông này thấp hơn em trai, tóc sẫm hơn và mặt kém đẹp hơn nhiều; nhưng có sinh khí hơn, linh hoạt hơn, chân thành hơn. Có thể thấy rõ rằng ông ta ít ngủ gà, ngủ gật hơn; nhưng Paven Ivannôvits cũng không chú ý gì mấy đến điều ấy.

- Anh Vaxili ạ, em đã quyết định đi khắp nước Nga thần thánh với ông Paven Ivannôvits. Như vậy may ra có thể tiêu tan chứng ưu uất chăng?

- Sao chú lại quyết định chóng thế? Vaxili sửng sốt hỏi. Ông ta suýt nói thêm: “Mà lại đi với một gã lạ mặt chú mới gặp lần đầu, có thể còn tệ hơn quỷ sứ nữa!”. Đầy ý ngờ vực, ông ta nhìn trộm Tsitsikôp; nhưng không thể nhận thấy gì ngoài vẻ đúng đắn hoàn hảo của y cả.

Họ quay sang phải, đi về phía cổng. Dãy tường đã cũ, tòa nhà cũng vậy; nó thuộc loại nhà mà ngày nay không còn ai xây nữa, có nhiều hàng hiên, và mái rất cao. Hai cây bồ đề rất lớn tỏa bóng rợp cả một nửa sân; quanh gốc cây có đặt nhiều ghế gỗ dài. Những cây tử đinh hương và anh đào đang ra hoa, như họp thành một chuỗi ngọc trai bao quanh sân, cành lá che lấp hẳn dãy tường rào. Tòa gia trạch bị cây che khuất hết; chỉ ở phía dưới, mới trông thấy những cửa lớn và cửa sổ thấp thoáng qua các cành cây. Phía sau những thân cây thẳng tắp như những mũi tên có thể trông rõ những tường trắng của nhà bếp, nhà xe và kho rượu. Đâu đâu cũng màu lá xanh rờn với những tiếng họa mi lanh lảnh. Một cảm giác yên tĩnh dễ chịu bất giác tràn vào tâm hồn khách. Mọi vật đều nhắc nhở những thời phẳng lặng đã qua; khi mà mọi người đều sống hiền lành, và mọi việc đều đơn giản, chẳng có gì rắc rối.

Ông anh của Platônôp mời Tsitsikôp ngồi. Họ cùng ngồi trên những ghế dài dưới gốc bồ đề. Một chú con trai mười bảy tuổi mặc một chiếc sơ mi dài xinh xắn bằng tơ Nam-Kinh, màu hồng, bưng ra đặt trước mặt họ những bình thủy tinh đựng những thứ kvax màu sặc sỡ; thứ thì quánh như dầu, thứ thì sủi bọt như nước chanh hơi. Bày xong, chú cầm lấy một cái thuổng để tựa vào gốc cây và đi ra vườn. Cũng như ông anh rể là Kôxtanjôglô, hai anh em Platônôp đều không có người hầu chuyên môn, mà mấy người làm vườn thay nhau làm việc đó. Vaxili chủ trương là đầy tớ không nên làm thành một tập đoàn; mỗi nông dân đều có thể làm giúp việc nhà, không cần có những người được huấn luyện riêng. Người Nga rất tốt, nhanh nhẹn và cần cù khi còn mặc sơ mi ngắn và áo caftan: nhưng hễ mặc áo surtuk kiểu Đức vào là hóa ra vụng về, chậm chạp, không chịu bỏ cái áo ấy ra, không chịu đi tắm nữa; và cái surtuk kiểu Đức ấy sẽ nhung nhúc những rệp và bọ chó. Có lẽ Vaxili nghĩ cũng có lý. Nông dân thích diện lắm; đàn bà ai cũng đội những chiếc mũ trùm thêu kim tuyến; ống tay áo sơ mi của họ trông như những đường viền của một chiếc khăn san Thổ Nhĩ Kỳ.

- Ông giải khát nhé? Vaxili bảo Tsitsikôp. Những thứ kvax này xưa nay vốn là niềm kiêu hãnh của nhà chúng tôi đấy.

Tsitsikôp lấy một bình rót ra cốc uống, thấy vị hao hao như lipec, rượu mật ong, mà ngày trước y đã từng uống ở Ba Lan. Cũng sủi bọt như sâm banh, hơi xông lên the the trên mũi dễ chịu. “- Thật là một thứ rượu thần!” Y nói; đoạn lại lấy một bình khác rót cốc nữa. Lại càng ngon hơn.

- Thật là hoàng hậu của các thứ rượu! Y nói tiếp. Tôi có thể nói rằng ở nhà ông anh rể đáng kính của ông là Kônxtantin Fiôđôrôvits, tôi đã được uống một thứ rượu mùi thượng hạng; và ở đây tôi được uống một thứ kvax ngon chẳng kém.

- Rượu mùi ấy cũng ở nhà chúng tôi mà ra cả: chị tôi lấy công thức về làm đấy. Hành trình ông định vạch như thế nào? Vaxili hỏi.

- Hiện nay tôi đi du lịch, Tsitsikôp nói; người khẽ lắc lư trên chiếc ghế dài, và vừa xoa xoa đầu gối vừa nghiêng mình xuống; hiện tôi đi vì việc người khác nhiều hơn việc mình. Tướng quân Bêtrisep, bạn thân và có thể nói là ân nhân của tôi, có nhờ tôi đi thăm họ hàng. Họ hàng, dĩ nhiên, cũng có phần quan trọng, nhưng đi như thế cũng được việc cho tôi, vì chưa kể đến lợi ích về phương diện vệ sinh, chỉ được xem cảnh trần gian, thấy thế sự thăng trầm cũng có thể nói là đã được một pho sách sống, một vốn tri thức thứ hai.

Vaxili ngẫm nghĩ: “Con người này ăn nói hơi có vẻ tự phụ, nhưng trong lời lẽ cũng có phần đúng”. Sau một lát im lặng, ông ta nói với Platôn:

- Platôn ạ, anh cũng bắt đầu tin rằng một chuyến đi du lịch quả có thể thức tỉnh chú đấy. Chẳng qua chú chỉ có cái tật dửng dưng với mọi việc mà thôi. Chẳng qua chú ngủ gà, ngủ gật, không phải vì no hay vì mệt, mà vì thiếu những ấn tượng và những cảm giác mạnh. Anh thì trái hẳn. Giá có thể được, anh cũng muốn đừng cảm xúc mạnh như vậy trước mọi việc và bớt để tâm đến tất cả những việc xảy ra.

- Hơi đâu mà cái gì cũng để tâm? Platôn nói. Anh cứ tìm những duyên cớ để ưu tư và tự mình tạo cho mình những mối lo sợ.

- Việc gì phải tạo ra, một khi những điều trái ý mình cứ chốc chốc lại xảy đến, Vaxili nói. Chú có biết trong khi chú đi vắng, Lênitxưn đã chơi chúng ta một vố như thế nào không? Không chứ gì? Ấy, hắn chiếm lấy một khoảng đất hoang mà hàng năm nông dân ta vẫn dùng để mở hội mừng xuân theo cổ tục. Trước hết, khoảng đất hoang ấy có trả bao nhiêu anh cũng không bán… Đó là một nơi gắn liền với rất nhiều kỷ niệm của làng ta; đối với anh phong tục là việc thiêng liêng, anh sẵn sàng hy sinh tất cả vì cổ tục {Vaxili Platônôp tiêu biểu cho những người thuộc phái Sùng Xlav, lệ cổ}.

- Y không biết, nên mới chiếm lấy; Platônôp nói. Y là người mới đến, ở Pêterbua về còn chân ướt chân ráo. Phải cắt nghĩa cho y rõ.

- Hắn biết rất rõ. Anh đã cho người đến nói với hắn, nhưng hắn trả lời bằng những lời rất thô bỉ.

- Đáng lẽ anh phải thân hành đến gặp y mà bàn bạc, mà giãi bày.

- Chịu thôi. Hắn vênh váo quá đỗi. Anh không đến gặp hắn đâu. Chú có muốn đến thì đến.

- Em sẵn lòng đến; nhưng vì em không biết gì về công việc nên y có thể bịp em rất dễ.

- Nếu các ông bằng lòng, tôi sẽ xin đảm đương việc này; Tsitsikôp nói. Ông cho tôi rõ đầu đuôi ra sao đi.

Vaxili đưa mắt nhìn y và nghĩ bụng: “Cái lão này ham du lịch thật!”.

- Chỉ xin ông nói qua cho tôi biết đại khái hắn ta là người thế nào, Tsitsikôp nói tiếp, và đầu đuôi câu chuyện ra sao.

- Tôi thật khó nghĩ nếu nhờ ông một việc rầy rà như việc này. Theo tôi thì hắn ta chẳng ra gì; xuất thân từ một gia đình quý tộc nông thôn ở tỉnh này, hắn đã làm công chức ở Pêterbua. Ở đấy hắn lấy con rơi của một yếu nhân nào đấy; nên mới vênh váo như vậy. Nhưng ở đấy, chẳng ai ngu ngốc gì đâu. Chúng tôi không xem thời thượng như một đạo luật, cũng không xem Pêterbua như một giáo đường.

- Dĩ nhiên, Tsitsikôp nói; nhưng đầu đuôi câu chuyện ra sao?

- Ông nghe nhá, hắn đang cần đất. Ví thử hắn đừng làm thế thì tôi sẵn lòng cho không hắn một chỗ khác. Thế nhưng bây giờ cái thằng cha ưa gây sự ấy lại tưởng là tôi sợ.

- Tôi nghĩ rằng thương lượng là hơn; may ra có thể đi đến thỏa thuận được. Chưa hề có ai giao phó việc gì cho tôi mà phải ân hận bao giờ… ngay tướng quân Bêtrisep cũng vậy…

- Nhưng để ông phải bàn cãi với một con người như thế, tôi thật khó nghĩ… {Phần tiếp theo trong bản thảo đã thất lạc, trong phần thứ hai của Những linh hồn chết, in lần thứ nhất năm 1855, có chú: “Ở đây thất lạc một đoạn. Có lẽ trong đoạn này kể lại chuyện Tsitsikôp lên đường đến nhà trang chủ Lênitxưn”}

{Phần đầu câu này đã thất lạc}… đồng thời đặc biệt chú ý làm sao cho việc này được giữ kín, Tsitsikôp nói; vì tội lỗi chưa có gì đáng sợ mấy, tai tiếng mới thật là nguy hiểm.

- Quả có thế, quả có thế, Lênitxưn nói, đầu nghiêng hẳn sang một bên.

- Cùng có những ý nghĩ như nhau thật là thú vị! Tsitsikôp nói. Tôi cũng có một việc vừa hợp pháp, vừa bất hợp pháp; bề ngoài thì bất hợp pháp, nhưng thực ra lại là hợp pháp. Tuy cần có vật để đi cầm, tôi vẫn không muốn gây phiền cho ai bằng cách trả hai rúp một linh hồn sống. Nếu một mai tôi có mệnh hệ nào - Chúa phù hộ cho tôi đừng lâm vào nông nỗi ấy, - thì sẽ rất phiền cho người chủ. Cho nên tôi đã quyết định lợi dụng những nông phu đã bỏ trốn hay đã chết, nhưng vẫn còn tên trong sổ đinh, để làm một việc tốt và đồng thời cất bỏ gánh nặng cho vị trang chủ đáng thương phải nộp thuế cho chúng. Chúng tôi chỉ ký với nhau một văn khế cho có lệ thế thôi, làm như thể những nông phu đó còn sống.

“Nhưng kể ra cũng kỳ quặc thật”, Lênitxưn vừa nghĩ thầm, vừa lùi ghế lại một chút. - Việc này có một tính chất… hắn mở đầu.

- Nhưng sẽ không có tai tiếng gì đâu, mọi việc sẽ được tiến hành bí mật; Tsitsikôp nói. Như tôi đã trình bày, đây là một việc giữa những người trung thực với nhau; những người đã đứng tuổi cả, và hình như lại là những người có cấp bậc đáng trọng, cam đoan giữ bí mật cho nhau.

Hắn vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt Lênitxưn. Mặc dầu là người rất cơ mưu và thông thạo công việc; Lênitxưn vẫn thấy rất phân vân, nhất là giờ đây hình như đang mắc vào cái bẫy do chính tay mình đặt. Bản tính y không thể làm điều bất công và không ưa làm việc ám muội, dù là kín đáo cũng vậy. “Thật là một việc kỳ khôi, y nghĩ thầm. Cứ hãy kết thân ngay cả với những người tốt mà xem!”.

Nhưng số phận hình như muốn chiều Tsitsikôp. Như để giúp phần giải quyết công việc khó khăn này, người vợ trẻ của Lênitxưn bước vào: một thiếu phụ xanh xao, nhỏ bé và gầy gò; nhưng ăn mặc theo thời trang Pêterbua, và rất chuộng những người “comme il faut” {Tiếng Pháp trong nguyên văn có nghĩa là đủ phẩm chất thượng lưu}. Theo sau là một người vú em, tay bế một hài nhi, kết quả của mối tình đắm thắm giữa đôi vợ chồng trẻ. Nhờ dáng điệu ung dung, và cách nghiêng đầu, Tsitsikôp làm cho người thiếu phụ Pêterbua ưa thích; rồi đứa bé cũng vậy. Thoạt tiên nó khóc òa lên; nhưng Tsitsikôp nựng: “À gư, à gư, bé ngoan nào”, y búng ngón tay kêu tanh tách và quay cho chiếc lập lắc bằng mã não đỏ dính trên dây đeo đồng hồ ánh lên loang loáng, và cuối cùng nó chịu để cho Tsitsikôp bế. Y liền nhấc bổng nó lên trần nhà, làm cho nó nở một nụ cười xinh xinh, rất đẹp lòng ông bố và bà mẹ. Nhưng bỗng nhiên, không biết vì vui mừng hay vì một nguyên nhân nào khác, đứa bé phạm một lỗi bất lịch sự.

- Ôi! Trời ôi! Bà Lênitxưn kêu lên, nó làm hỏng mất áo của ông rồi!

Quả nhiên Tsitsikôp thấy một ống tay áo của chiếc frac mới của mình đã dây bẩn ra cả. “Ôn dịch bắt mày đi đồ quỷ con!” y tức giận nghĩ thầm.

Cha mẹ đứa bé, người vú em cuống quít chạy đi lấy ô đờ Côlôn và xúm vào lau chùi cho Tsitsikôp.

- Không sao - Tsitsikôp nói, cố hết sức làm ra bộ vui vẻ, - ở cái tuổi đời đáng yêu này, trẻ nó có làm hỏng cái gì được đâu? Hắn vừa nhắc đi nhắc lại vừa nghĩ thầm: “- Sao chó sói không ăn thịt nó đi cho rảnh! Nó chơi khăm mình thật, đồ ranh con!”.

Cái biến cố bề ngoài có vẻ vô nghĩa này đã làm cho thiện cảm của chủ nhân nghiêng hẳn về Tsitsikôp. Làm sao có thể từ chối điều gì với một ông khách đã âu yếm con mình một cách hồn nhiên như vậy và đã hy sinh chiếc frac của mình một cách đại lộ như vậy? Để khỏi làm thành một tấm gương xấu, họ thỏa thuận với nhau, giải quyết công việc một cách kín đáo; vì bản thân sự việc chưa có gì đáng sợ mấy, tai tiếng mới thật là nguy hiểm.

- Đến lượt tôi, xin phép được giúp ông một việc. Tôi muốn làm trung gian giữa ông với hai anh em Platônôp. Ông đang cần đất có phải không? {Đến đây bản thảo lại gián đoạn}

Một trong những chương cuối {Đoạn này không biết đích xác là thuộc phần nào trong tác phẩm, cũng có lẽ là tác giả định viết cho phần thứ ba}

… Trên đời này mỗi người đều lo thu xếp công việc của mình. Tục ngữ có câu: “- Ai ưa cái gì thì cứ chẳng để yên cho cái ấy”. Việc khảo sát các rương hòm đã đem lại kết quả mỹ mãn, một phần các vật đựng trong các rương hòm đó liền được chuyển sang cái tráp bất hủ nọ. Đó là một thủ thuật hết sức khôn ngoan. Tsitsikôp lợi dụng thì đúng hơn là ăn cắp. Vì trong chúng ta, ai nấy đều lợi dụng một cái gì: người thì lợi dụng những khu rừng công, người thì lợi dụng những số tiền mình được giữ, người thì tước đoạt của con cái để bao một nữ diễn viên đi qua, người thì lại ăn cướp của nông nô để sắm bàn ghế của hiệu Hambs {Một nhà sản xuất bàn ghế ở Viên, thủ đô nước Áo, rất được ưa chuộng vào thời ấy} hay sắm một cỗ xe. Biết làm thế nào được, thế gian này nhan nhản những sự cám dỗ: nào là những tiệm ăn sang trọng bán giá cắt cổ, nào là những tối khiêu vũ hóa trang, nào là những hội hè, những cuộc vui thanh nhã với gái txigan. Khó lòng mà nhịn được; nếu mọi người đều làm như thế cả, và nếp sống thời thượng đòi hỏi như thế, thì cứ thử mà cưỡng lại xem! Tsitsikôp cũng vậy; noi theo số người ưa chuộng tiện nghi mỗi ngày một đông, y đã xoay sở làm sao cho việc này có lợi cho y.

Đáng lẽ Tsitsikôp phải ra đi từ lâu; nhưng đường sá không sao đi lại được. Trong khi đó thì một phiên chợ khác sắp khai mạc trong thành phố, lần này dành cho những người thượng lưu. Phiên trước chủ yếu là để bán ngựa, bò và các loài gia súc khác, bán những nông sản mà bọn buôn nước bọt đã chiếm đoạt của nông dân. Lần này thì các nhà buôn xa xỉ phẩm đem ra bán những hàng mua ở chợ phiên Nijni Nôpgôrôt {Chợ phiên lớn nhất toàn quốc}. Thật là một tai họa cho các túi tiền Nga: đàn ông Pháp bán nước hoa, đàn bà Pháp bán mũ, - quả là một giống châu chấu Ai Cập, theo như lối nói của Kôxtanjôglô, không những ăn hết hoa màu, mà còn để trứng lại dưới đất nữa, - họ đến vơ vét những tiền bạc đã tốn biết bao công sức mới làm ra được.

Rất nhiều địa chủ, chỉ vì mất mùa nên mới phải ở nhà. Ngược lại, bọn công chức thì tiêu tiền như nước; và khốn thay, cả vợ con họ cũng thế. Sau khi đọc các thứ sách xuất bản trong thời gian gần đây nhằm gợi cho nhân loại những nhu cầu mới, họ nóng lòng muốn nếm thử tất cả những thú vui mới mẻ. Có một người Pháp mở một vôkxan, loại tiệm ăn và vui chơi ngoài trời trước đây chưa hề có ở tỉnh, với những bữa ăn rất rẻ, lại bán chịu một nửa tiền. Chỉ thế thôi, cũng đủ cho các ông trưởng phòng đã đành, mà ngay đến các thuộc viên thường cũng vậy, tha hồ chè chén, trông cậy vào những món hối lộ sau này sẽ bòn được của những người đến xin xỏ. Ai nấy thi nhau phô trương những cỗ xe ngựa thật đẹp. Các đẳng cấp ganh đua nhau trong các cuộc vui chơi… Mặc dầu trời mưa tầm tã và đường sá lầy lội, xe kôliaxka vẫn đi lại tấp nập. Không biết những cỗ xe ấy từ đâu ra; nhưng dù có ở Pêterbua, chúng cũng không đến nỗi phải xấu mặt… Bọn lái buôn, bọn chạy hàng cất mũ một cách duyên dáng, chào mời các bà, các cô. Rất ít thấy những người râu dài, đội mũ lông theo kiểu cũ. Mọi người đều có vẻ Âu Tây, chỉ thấy toàn là những cằm cạo nhẵn thín và những bộ răng thối hỏng…

Ngả người trên chiếc ghế dài, mình mặc chiếc áo ngủ Ba Tư bằng tacmalam kim tuyến, Tsitsikôp đang mặc cả với một tay buôn lậu ghé qua tỉnh, vốn dòng dõi Do Thái, nói lơ lớ giọng Đức. Tsitsikôp đã mua được một súc vải Hà Lan mịn để may sơ mi và hai hộp xà phòng thượng hảo hạng, thứ xà phòng mà sở thuế quan Rađizivilôp {Thị trấn nhỏ ở miền Vôlưni, hồi ấy là một thị trấn quan ải ở giữa nước Nga và nước Áo} ngày trước vẫn cung cấp, có cái đặc tính huyền diệu làm cho da dẻ mịn màng và trắng trẻo lạ lùng. Trong khi Tsitsikôp đang ra tay sành sỏi mua những thứ hàng cần thiết cho mọi người thượng lưu đó, thì có tiếng bánh xe lăn khẽ rung các cửa kính, và Alexêi Ivannôvits Lênitxưn Đại nhân bước vào.

- Quan lớn thấy tấm vải, mấy bánh xà phòng và những hàng vặt này thế nào? Tôi vừa mua hôm qua đấy.

Nói xong, Tsitsikôp đội lên đầu một chiếc mũ chụp thêu kim tuyến và đính ngọc trai giả, trông uy nghi như một vị quốc vương Ba Tư.

Nhưng Quan lớn không trả lời câu hỏi của Tsitsikôp mà lại nói, vẻ ưu tư: - Tôi có chuyện cần nói với ông.

Người lái buôn nói giọng Đức lập tức được mời ra ngoài; hai người ngồi lại với nhau.

- Gặp rắc rối rồi đấy! Người ta vừa phát hiện ra một chúc thư khác của mụ già, lập cách đây năm năm, để lại một nửa điền trang cho một tu viện; nửa còn lại thì chia cho hai đứa con nuôi, và trước sau chỉ có thế!

Tsitsikôp luống cuống…

- Nhưng tờ chúc thư không đáng kể. Nó không có giá trị gì hết: nó bị tờ thứ hai hủy bỏ; y nói thế.

- Việc hủy bỏ này không thấy nói đến trong chúc thư thứ hai.

- Nhưng hiển nhiên là như thế rồi, còn phải nói gì nữa. Tôi biết rất rõ ý nguyện của người quá cố: lúc ấy tôi ở cạnh bà ta; tờ chúc thư thứ nhất không có hiệu lực. Ai ký? Ai làm chứng?

- Tờ chúc thư này được nhận thực rất hợp thức và có chữ ký của hai nhân chứng: Khavanôp và Burmilôp, nguyên thẩm phán Tòa án Lương tâm {Theo sổ tay của Gôgôn thì đó là một tòa án độc lập không thuộc quyền tỉnh trưởng, mà các thẩm phán lấy lương tâm xét xử chung thẩm, không có thủ tục khống tố, những vụ mà luật pháp được khinh giảm, như những vụ mà can phạm là vị thành niên, người điên}.

“Rầy thật! Tsitsikôp nghĩ thầm. Khavanôp xưa nay vẫn có tiếng là người trung thực; Burmilôp là một lão già mê tín mà những ngày lễ người ta vẫn giao cho đọc Thư Sứ đồ {Theo phong tục Nga, vào ngày chủ nhật và ngày lễ, nhà thờ thường mời những người tai mắt trong xứ đọc to thiên Thư Sứ đồ Kinh Thánh}” - Thật là vô lý! Hắn nói to lên, tự vũ trang bằng một quyết tâm không gì lay chuyển nổi. Tôi là người biết rõ việc này hơn ai hết: tôi đã chứng kiến phút lâm chung của người quá cố. Tôi sẵn sàng lấy tư cách nhân chứng mà tuyên thệ trước tòa.

Những lời lẽ quả quyết này làm cho Lênitxưn yên tâm trong chốc lát. Ông ta tự trách mình là trong khi bối rối, đã ngờ cho Tsitsikôp viết ra tờ chúc thư nọ. Y đã vội vàng thề thốt như vậy thì hiển nhiên là không phải. Chúng ta không biết liệu Paven Ivannôvits có cả gan tuyên thệ trước Kinh Phúc âm không; dù sao y cũng đã đủ can đảm nói như vậy.

- Ông cứ yên tâm: tôi sẽ đem việc này nói với mấy vị cố vấn pháp luật, còn ông thì xin đừng làm gì cả, phải tuyệt đối đứng hẳn ra ngoài. Tôi muốn ở lại trong thành phố này bao nhiêu lâu là tùy tôi.

Tsitsikôp lập tức sai thắng ngựa và lên xe đến nhà một cố vấn pháp luật nổi tiếng là có kinh nghiệm trong việc tố tụng. Tuy đã bị cáo từ mười lăm năm nay, hắn đã xoay sở tài tình đến nỗi người ta không thể nào tước quyền làm luật sư của hắn được. Mọi người đều biết rõ rằng cứ những công trạng của hắn, lẽ ra hắn phải bị đày biệt xứ sáu lần rồi. Đâu đâu người ta cũng nghi hắn. Nhưng không ai đưa ra được những bằng chứng buộc tội hắn cả. Hẳn là bên trong phải có một uẩn khúc gì đây; và giả sử cái chuyện của chúng ta diễn ra ở thời gian ngu muội, chắc chắn người ta sẽ cho hắn là một tay phù thủy. Vẻ lạnh lùng của viên luật sư, chiếc áo ngủ cáu bẩn của hắn tương phản gay gắt với những bộ bàn ghế rất đẹp bằng gỗ đào hoa tâm, với chiếc đồng hồ quả lắc mạ vàng đậy trong cái lồng kính, với bộ đèn treo bằng pha lê mà người ta có thể trông thấy qua cái chụp bằng sa; nói chung là với mọi vật ở xung quanh đều mang dấu vết rõ rệt của nền văn hóa Âu châu.

Sự tương phản đó khiến Tsitsikôp kinh ngạc; nhưng y không để ý lâu và liền giãi bày những điểm gay go của vụ này; lại dùng những lời lẽ rất bùi tai để tả lòng biết ơn, nhất định sẽ hậu tạ những lời khuyên khôn ngoan và công lao của luật sư.

Đáp lại, vị luật gia tả cái tính phù du bất ổn của mọi sự ở thế gian này, và khéo léo ngụ ý cho khách hiểu rằng tiền có trao thì cháo mới múc.

Dù muốn, dù không cũng đành phải nhờ đến sức thuyết phục của kim tiền. Vẻ lạnh nhạt hoài nghi của nhà hiền triết biến ngay tức thì. Hắn tỏ ra một người rất tốt, nói chuyện rất có duyên và trong lĩnh vực xã giao cũng chẳng thua kém gì ngay cả Tsitsikôp nữa.

- Ta không nên làm cho sự việc phức tạp thêm làm gì, tôi chỉ xin phép nói với ông rằng chắn hẳn ông chưa xem kỹ tờ chúc thư; tất nhiên nó phải có một điều khoản bổ chính về sau. Ông hãy lấy chúc thư ấy đem về nhà ít lâu. Tuy đó là một việc cấm, nhưng nếu thỉnh cầu cho đúng cách một vài quan chức nào đấy… Về phía tôi, tôi sẽ can thiệp.

“Mình hiểu rồi”, Tsitsikôp nghĩ thầm rồi nói: - Thật ra, tôi cũng không nhớ rõ là có điều bổ chính hay không. Y làm như thể tờ chúc thư không phải do chính tay y viết ra ấy!

- Ông cứ xem xét cho kỹ thì hơn. Vả lại - viên luật sư nói tiếp với một giọng đầy thiện ý bao dung, - ông đừng mất bình tĩnh, dù có xảy ra việc gì rầy rà cũng vậy. Ông đừng bao giờ tuyệt vọng. Không có gì là không thể cứu vãn được cả. Ông nhìn tôi đây mà xem. Tôi bao giờ cũng điềm tĩnh. Dù người ta có sinh sự kiện cáo tôi thế nào, sự điềm tĩnh của tôi vẫn không thể nào lay chuyển nổi.

Quả nhiên, gương mặt của nhà cố vấn pháp luật hiền triết phản ánh một sự điềm tĩnh lạ lùng, khiến cho Tsitsikôp thấy yên tâm.

- Dĩ nhiên, điều đó tối quan trọng, y nói; tuy vậy ông cũng nhận cho rằng có thể có những trường hợp những lời vu cáo của kẻ thù, những cảnh ngộ khó khăn có thể làm cho người ta mất hết bình tĩnh.

- Xin ông tin cho rằng như thế là hèn nhát, nhà pháp luật trả lời rất ôn tồn. Ông phải làm sao cho vụ này được thẩm vấn toàn bằng văn bản, giấy trắng mực đen, không có một lời khai miệng nào hết. Và hễ ông thấy sắp đến lúc kết thúc, và có giải pháp, thì đáng lẽ tự thanh minh và biện hộ cho mình, ông cứ việc ra sức làm cho mọi việc rối tung lên, bằng cách chen vào đấy những yếu tố ngoại lai.

- Nghĩa là để…

- Để làm cho rối tung lên, chỉ có thế thôi; phải đưa vào vụ này những sự việc phụ làm cho một số người khác dính líu vào: thế thôi! Sau đấy có viên công chức nào ở Pêterbua về thì hắn cứ thử gỡ đầu mối đi mà xem! Phải, cứ thử gỡ mà xem, nếu liệu sức có thể gỡ được! - Hắn vừa nhắc lại vừa nhìn chằm chằm vào mặt Tsitsikôp với một vẻ thích chí đặc biệt, như ông thầy nhìn cậu học trò khi giảng một mục lý thú của ngữ pháp Nga.

- Hay lắm, nhưng với điều kiện là phải tìm ra những sự việc có thể làm rối mắt thiên hạ; Tsitsikôp nói; mắt cũng nhìn nhà hiền triết một cách thích chí, như người học trò đã hiểu được cái mục lý thú ông thầy vừa giảng cho.

- Bao giờ cũng tìm được. Ông hãy tin tôi; được vận dụng thường xuyên thì trí tuệ sẽ tinh xảo. Trước hết ông nhớ cho rằng người ta sẽ giúp ông. Nguyên cái tính chất rắc rối của vụ này cũng đã có lợi cho nhiều người: cần nhiều viên chức hơn và họ được lĩnh nhiều hơn… Tóm lại, phải làm cho nhiều người dính líu vào. Nếu có những người liên lụy vào mà không việc gì thì cũng chẳng sao; họ sẽ phải thanh minh, làm đơn trả lời. Cái đó có lợi lắm! Có thể làm cho mọi việc rối tung lên đến nỗi không còn ai hiểu đầu đuôi ra làm sao nữa. Tại sao tôi lại điềm tĩnh được? Tại vì tôi có một đường lối xử sự đã vạch sẵn. Hễ tình hình công việc của tôi mà trở nên nghiêm trọng, thì tôi sẽ lôi ông tỉnh trưởng, ông phó tỉnh trưởng, ông cảnh sát trưởng, ông tổng giám đốc ngân khố: ai nấy đều dính líu vào đấy cả. Tôi biết hết những hành vi cử chỉ của họ, những mối thù hiềm, những chuyện hờn dỗi, những thủ đoạn bon chen của họ. Dù họ có tìm được cách thoát đi nữa, thì cũng sẽ tìm ra những người khác. Đục nước béo cò.

Rồi viên trạng sư hiền triết nhìn vào tận mắt Tsitsikôp, lần này cũng với cái vẻ khoái trá như ông thầy đang giảng cho học trò nghe mục còn lý thú hơn nữa của bộ ngữ pháp Nga.

“Người này quả là một bậc hiền triết!” Tsitsikôp nghĩ thầm, đoạn từ giã vị cố vấn pháp luật và ra về với một tâm trạng hết sức phấn chấn.

Hoàn toàn vững dạ, y gieo mình một cách ung dung uể oải xuống những cái đệm êm ái của chiếc kôliaxka và ra lệnh cho Xêlifan bỏ mui xuống. (Khi đi đến nhà viên cố vấn pháp luật thì xe trương mui và buông rèm kín mít). Y ngồi lại cho thật thoải mái như một viên đại ta khinh kỵ hưu trí hay như đích thân Visnêpôkrômôp, chân bắt tréo lên, ngoảnh về phía khách qua đường một khuôn mặt hòa nhã, tươi rói dưới một chiếc mũ lụa mới tinh, đội hơi lệch sang một bên. Xêlifan được lệnh đánh xe đến chợ bán tạp hóa. Những lái buôn ngoại quốc và bản xứ đứng trên bậc các cửa hiệu, kính cẩn cất mũ chào; và Tsitsikôp cũng ngả mũ đáp lại, không khỏi có phần trịnh trọng. Y đã quen được nhiều người trong bọn; những người khác, tuy chưa quen, nhưng rất hài lòng về cái vẻ ung dung, đĩnh đạc của cái ông lớn ấy; cũng chào y. Chợ phiên Tfuxlavl vẫn tiếp tục họp; sau phiên chợ bán những xa xỉ phẩm dành cho những khách thượng lưu. Những lái buôn đi xe ngựa đến đây, đều định bụng là sẽ ra về bằng xe trượt tuyết {Tức là định ở cho hết thu sang đông, đến tháng chạp là lúc tuyết xuống đóng kín mặt đất}.

Đứng cạnh cửa hàng mình, một gã bán dạ, mặc chiếc áo dài may theo kiểu Mạc-tư-khoa, ngả mũ chào Tsitsikôp một cái hết sức lễ độ, tay kia mân mê cái cằm mới cạo.

- Xin ngài ban cho chúng tôi hân hạnh được đón tiếp ngài; hắn nói, giọng cầu kỳ.

Tsitsikôp bước vào hiệu.

- Nào, anh bạn, đưa dạ xem nào.

Gã lái buôn nhã nhặn lập tức giở một tấm ván ngăn ở gần quầy thu tiền; sau khi đã dọn cho mình một lối đi như vậy, hắn quay lưng về phía hàng hóa và mặt về phía khách hàng. Đầu để trần, mũ vẫn cầm tay, hắn chào Tsitsikôp một lần nữa. Sau cùng, hắn đội mũ và chống hai tay lên quầy, nói:

- Ngài muốn chọn thứ dạ nào? Dạ của các xưởng Anh hay dạ nội hóa?

- Dạ nội hóa, Tsitsikôp nói; nhưng hạng nhất ấy, loại mà người ta vẫn gọi là dạ Anh ấy!

- Ngài dùng màu nào? Gã lái buôn vừa hỏi vừa đu đưa người một cách duyên dáng trên đôi tay chống thành vòng cung.

- Màu ô liu lấm chấm, hoặc màu da chai có ánh ngả sang màu tía: Tsitsikôp nói.

- Chúng tôi xin chọn hầu ngài loại tối thượng hảo hạng. Phải sang các thủ đô của thế giới văn minh mới tìm được thứ tốt hơn. Thằng nhỏ, lấy xem cái số 34 kia, trên cao ấy. Không phải thứ này, cậu ạ: mày thì lúc nào cũng ngơ ngơ ngẩn ngẩn như đồ vô sản {Ở đây, gã lái buôn dùng chữ nhầm. Đáng lẽ nói prôlêtiet nghĩa là người bị phá sản, sạt nghiệp; hắn lại nói prôlêtar nghĩa là người vô sản}. À đấy, đúng rồi! Ném xuống đây! Một loại dạ trứ danh!

Và vừa giăng tấm dạ ra, gã lái buôn vừa đưa đến sát tận mũi Tsitsikôp; thành thử không những y có thể vuốt ve tấm hàng mà lại còn có thể ngửi nó nữa.

- Cái này tốt, nhưng còn có thứ hơn nữa cơ; Tsitsikôp nói. Tôi đã từng làm thuế quan. Thử đưa xem loại thật tốt hơn tất cả ấy, màu thẫm hơn, ngả sang màu tía nhiều hơn là màu da chai.

- Chúng tôi hiểu rồi: đúng là ngài thích cái màu hợp thời trang nhất hiện nay. Chúng tôi có một loại dạ tối hảo hạng. Xin thưa trước là giá có cao. Nhưng phẩm chất cũng cao ngang thế.

Gã người Âu leo lên. Súc hàng được ném xuống. Hắn giăng tấm dạ ra với cái nghệ thuật ngày xưa, trong chốc lát quên khuấy đi rằng mình thuộc thế hệ mới. Hắn đưa hàng ra chỗ sáng, thậm chí còn bước ra ngoài cửa hiệu cho khách xem, mắt hấp háy vì chói nắng, và cuối cùng tuyên bố:

- Màu tuyệt đẹp: huyết dụ lửa khói {Màu đỏ như lửa, nhưng lấp loáng có ánh xanh như khói}.

Hàng đã vừa lòng khách; hai bên thỏa thuận về giá cả, mặc dù gã lái buôn cam đoan là chỉ bán giá nhất định. Tấm dạ lập tức được xé ra khỏi súc - một động tác rất gọn của hai cánh tay thay cho nhát kéo - và được gói lại theo kiểu Nga với một tốc độ phi thường. Một lát kéo vào đầu mũi dây buộc, và nhoáng một cái, mọi thứ đều đã nằm gọn trong xe. Gã lái buôn cất mũ chào. Hắn có đủ lý do để làm như vậy: món hàng vừa bán rất được giá.

- Cho tôi xem thứ dạ đen; có tiếng ai nói.

“Ái chà, Khlôbuiep đây rồi”, Tsitsikôp vừa nghĩ thầm vừa quay lưng lại để khỏi phải trông thấy ông ta, vì cho rằng phải nói với ông ta về việc cái gia tài cho rõ ràng là dại dột. Nhưng Khlôbuiep đã trông thấy y.

- Ông Paven Ivannôvits, ông cố tình tránh mặt tôi hay sao? Tôi tìm ông khắp nơi mà chẳng gặp; chúng ta cần nói chuyện nhiều với nhau kia mà!

- Thưa bác, thưa bác, Tsitsikôp vừa nói vừa bắt tay Khlôbuiep; xin cam đoan là tôi rất muốn hầu chuyện bác; nhưng thật có chút thì giờ rỗi rãi nào đâu!

Trong khi nói như vậy, y nghĩ thầm: “Quỷ bắt mày đi cho rảnh!”. Bỗng y thấy Murazôp bước vào. - À! Trời ơi, Afanaxi Vaxiliêvits! May quá!

Vừa lúc ấy Visnêpôkrômôp cũng bước vào cửa hiệu và nhắc lại: - Afanaxi Vaxiliêvits!

Và gã lái buôn lịch sự, cất mũ với một động tác của cánh tay vẽ thành một đường vòng cung rất rộng, cả người cúi rạp xuống, mồm thốt lên:

- Xin kính chào ngài Afanaxi Vaxiliêvits.

Bấy nhiêu gương mặt đều phản chiếu cái vẻ khúm núm, tôi đòi của những kẻ phàm trần đứng trước các nhà triệu phú.

Ông già chào mọi người và quay thẳng về phía Khlôbuiep nói: - Xin ông thứ lỗi cho! Từ ngoài xa trông thấy ông vào đây, tôi quyết đến làm phiền ông. Nếu ông có thì giờ và tiện đường đi, xin ông vui lòng ghé qua nhà tôi một chút. Tôi có câu chuyện cần thưa với ông.

- Thưa, xin vâng ạ! Khlôbuiep nói.

- Trời đẹp quá, ông Afanaxi Vaxiliêvits nhỉ, Visnêpôkrômôp nói tiếp; thật là một tiết trời khác thường!

- Phải, đội ơn Chúa, trời đẹp lắm. Nhưng cũng phải có mấy hạt mưa mới gieo được.

- Vâng, đúng thế đấy ạ, Visnêpôkrômôp nói; đi săn cũng cần có mấy hạt mưa.

- Phải, mưa xuống mấy hạt cũng hay, Tsitsikôp tán thành, tuy y chẳng cần đến mưa chút nào cả; nhưng bao giờ người ta cũng thích tán thành những lời nói của một nhà triệu phú.

- Đến chóng mặt lên được, Tsitsikôp nói, khi Murazôp đã đi khuất. Con người ấy mà có bạc triệu trong tay! Thật khó lòng mà tin được!

- Đó là một việc trái tự nhiên, Visnêpôkrômôp nói; vốn liếng không được tập trung vào tay những cá nhân. Bây giờ khắp châu Âu đều có những cuốn sách bàn vấn đề đó. Khi người ta có tiền, cần phải cho người khác được nhờ với: phải mở tiệc, tổ chức vũ hội, phô trương một sự xa xỉ hữu ích, đưa lại bánh mì cho công nhân và thợ thủ công.

- Có điều này tôi không thể hiểu được, Tsitsikôp nói; là ông ta có bạc triệu mà lại sống như gã nhà quê! Có mười triệu bạc thì làm gì mà chả được! Nếu muốn, thì người ta có thể chỉ lui tới toàn các tướng quân và các vương công mà thôi.

- Vâng, gã chủ hiệu nói thêm; tuy có nhiều đức tính đáng quý, Afanaxi Vaxiliêvits vẫn thiếu văn hóa về nhiều mặt. Khi một anh lái buôn đã có vai vế, anh ta thành một thương gia {Tư sản trong xã hội Nga hoàng} và phải xử sự cho ra một thương gia, thuê lô ở nhà hát, gả con cho một vị tướng. Một ông đại tá quèn đã không thích hợp với anh ta nữa rồi. Anh ta cho chị nấu bếp thôi việc và đặt bữa ăn ở một khách sạn.

- Dĩ nhiên, Visnêpôkrômôp nói, có mười triệu thì làm gì mà chả được! Cứ thử cho tôi mười triệu xem.

“Không, Tsitsikôp nghĩ thầm; mày chẳng dùng được vào việc gì ra trò đâu. Nhưng phải tay tao thì lại là chuyện khác”.

“Ước gì ta có được mười triệu sau những thử thách gian khổ này nhỉ, Khlôbuiep nghĩ. Kinh nghiệm đã dạy cho ta biết giá trị của mỗi đồng kôpek. Ta sẽ biết dùng khác hẳn”. Sau một phút suy nghĩ, ông ta tự hỏi: “Liệu bây giờ ta có dùng tiền khôn ngoan hơn không?”. Rồi ông ta so vai nghĩ tiếp: “Mẹ kiếp! Chắc rồi ta cũng lại phung phí, như ngày trước mà thôi!”.

Chỉ lát sau, ông ta ra khỏi hiệu, rất nóng lòng muốn biết Murazôp sẽ nói gì với mình.

- Tôi đang đợi ông đây, Xêmiôn Xemiônôvits ạ, Murazôp nói khi thấy ông ta vào; mời ông sang phòng tôi.

Murazôp dẫn Khlôbuiep vào một căn buồng nhỏ, giản dị chẳng khác gì gian buồng của một anh thuộc loại lương mỗi năm bảy trăm rúp.

- Ông ạ, tôi chắc bây giờ tình cảnh của ông đã khá hơn. Chắc bà dì ông mất đi, ông cũng có được ít nhiều gì chứ?

- Thực tình mà nói thì tôi cũng không biết tình cảnh của tôi có khá hơn không nữa, ông Afanaxi Vaxiliêvits ạ. Tôi chỉ được cả thảy có năm mươi nông dân và ba vạn rúp; số tiền ấy tôi phải trả nợ hết, mà cũng chỉ trả được có một phần; và thế là bây giờ tôi lại cạn túi. Ông Afanaxi Vaxiliêvits ạ, ông có biết không? Vụ tờ chúc thư này khả nghi lắm lắm! Để tôi kể cho ông nghe, ông sẽ lấy làm lạ về những việc đang xảy ra. Cái lão Tsitsikôp ấy…

- Khoan đã, ông Xêmiôn Xemiônôvits ạ; trước khi nói đến cái lão Tsitsikôp ấy, ta hãy bàn chuyện ông đã. Ông thử nói cho tôi nghe, theo ước lượng của ông, thì ông cần có bao nhiêu tiền để hoàn toàn thoát khỏi cơn túng quẫn?

- Tình cảnh tôi khó khăn lắm, Khlôbuiep nói. Muốn thoát khỏi cơn túng quẫn, trả hết nợ và có đủ phương tiện để sống một cuộc đời hết sức thanh đạm tôi cần ít nhất là mười vạn rúp, nếu không được nhiều hơn.

- Thế giả sử ông có được số tiền ấy, ông sẽ tổ chức đời sống ra sao?

- Được thế thì tôi sẽ thuê một căn nhà nhỏ và sẽ lo việc giáo dục con cái. Không cần nghĩ đến bản thân tôi làm gì: đời tôi thế là hết, tôi không còn được tích sự gì nữa.

- Nếu thế thì ông sẽ ngồi không. Nhưng ông cũng biết thừa là trong cảnh nhàn cư, người ta có thể bị những sự cám dỗ mà một người bận rộn không đời nào biết đến.

- Ông bảo tôi biết làm thế nào được, tôi là người bỏ đi; khắp người tôi tê liệt, lưng đau như dần.

- Nhưng làm sao có thể sống mà không làm việc được? Làm sao có thể vẫn ở trên đời này mà không có chức vụ, không có một chỗ đứng? Ông cứ thử nhìn tất cả các tạo vật của Chúa mà xem: mỗi vật đều có một công dụng, mỗi vật đều được dành cho một mục đích nào đấy. Đến như hòn đá cũng có công dụng của nó; thế mà con người, tạo vật khôn ngoan nhất, lại không chịu làm một cái gì có ích ư? Như thế có công bằng không?

- Nhưng tôi có hoàn toàn ngồi không đâu. Tôi sẽ chăm lo việc giáo dục con cái kia mà!

- Không được, ông Xêmiôn Xemiônôvits ạ; không được đâu, không có gì khó khăn hơn việc đó nữa. Làm sao một người không giáo dục nổi bản thân lại có thể giáo dục được con cái? Cách giáo dục duy nhất là làm gương. Nhưng cuộc đời của ông liệu có đáng đem ra làm gương cho chúng noi không? Cùng lắm cũng chỉ dạy được cho chúng ăn không ngồi rồi và đánh bài mà thôi. Không được đâu, ông Xêmiôn Xemiônôvits ạ, ông hãy giao các cháu cho tôi; ở với ông, chúng sẽ hư hỏng. Ông hãy suy nghĩ cho chín: sự nhàn rỗi đã làm hỏng đời ông; ông cần phải trốn nó đi mới được. Làm sao có thể sống mà không phụ thuộc vào cái gì cả được? Người ta phải có một nhiệm vụ gì chứ. Ngay như kẻ làm công nhật cũng có ích cho cái gì đó. Bánh hắn ăn là hạng bánh một kôpek, quả có như vậy; nhưng đó là cái ăn kiếm được bằng mồ hôi, nước mắt, và hắn thấy có hứng thú trong khi làm việc.

- Ông Afanaxi Vaxiliêvits ạ; quả tình tôi đã cố thử thắng bản thân. Nhưng chẳng ăn thua gì! Tôi già rồi, tôi đã thành bất lực rồi. Đi làm công chức ư? Tôi đã bốn mươi lăm tuổi đầu, chả nhẽ lại đi ngồi cùng bàn với bọn sai nha? Hơn nữa, tôi không ăn của đút được. Tôi sẽ làm hại thân tôi và làm hại người khác. Vả lại họ đã có cách với nhau cả. Không xong, ông Afanaxi Vaxiliêvits, tôi đã nghĩ chín rồi; tôi đã điểm qua tất cả các chức vụ; dù ở chức vụ nào tôi cũng sẽ bất lực. May ra chỉ có nhà dưỡng lão là thích hợp với tôi.

- Nhà dưỡng lão là để cho những người đã từng làm việc; còn những kẻ suốt thời thanh niên chỉ chơi bời, thì người ta trả lời họ như con kiến trả lời con ve: Thế thì bây giờ anh múa đi! {Trong bài thơ ngụ ngôn của thi hào Pháp La Fôngten. Con ve và con kiến, con ve vô tư lự hát suốt mùa hè, đến mùa đông không có gì ăn phải đến vay con kiến cần kiệm và biết lo xa, bị con này hỏi mỉa: mùa hè làm gì. Ve trả lời là mùa hè mải hát, thì kiến bảo: “- Thế thì bây giờ múa đi!”} Vả lại ngay ở nhà dưỡng lão người cũng làm việc, chứ có phải đánh bài uyxt đâu. Xêmiôn Xemiônôvits ạ, Murazôp vừa nói vừa nhìn ông ta chằm chằm; ông tự dối mình và lừa cả tôi nữa.

Murazôp nhìn vào tận mắt ông ta; nhưng ông Khlôbuiep đáng thương kia chẳng biết trả lời ra sao cả và Murazôp thấy thương hại.

- Này, ông Xêmiôn Xemiônôvits ạ… Ông đọc kinh; ông đi nhà thờ, tôi biết; ông không bỏ sót một lễ chiều, lễ sáng nào. Dù không thích dậy sớm, ông vẫn đi lễ, ông đi từ bốn giờ sáng trong khi mọi người còn ngủ.

- Đó là việc khác, Afanaxi Vaxiliêvits ạ. Tôi làm như thế không phải vì thế gian, mà vì Đấng đã phán truyền cho tất cả chúng ta sống trên thế gian. Tôi tin rằng Người sẵn lượng từ bi đối với tôi; rằng mặc dù tôi hư hỏng. Người vẫn có thể tha thứ và đón tôi về với Người; trong khi thiên hạ hắt hủi tôi, trong khi người bạn thân nhất của tôi cũng sẽ phản tôi, rồi sau đó lại bảo rằng làm như vậy là vì thiện ý.

Một nỗi buồn vô hạn hiện lên trên mặt Khlôbuiep. Murazôp im lặng một lát, như để cho Khlôbuiep trấn tĩnh lại, rồi nói:

- Tại sao ông không ra làm việc? không phải làm vì thế gian, cũng không phải để vừa lòng người đời? Ông hãy phụng sự Đấng có lòng từ bi như vậy. Làm lụng cũng làm cho Người vui lòng như cầu nguyện. Ông hãy làm lấy một việc gì; nhưng làm như thế vì Người, chứ không phải vì thiên hạ. Ông làm cái việc giã nước trong cối {Thành ngữ Nga, có nghĩa là làm một việc vô ích, đại ý như ta nói dã tràng xe cát} cũng được; nhưng vừa làm vừa nghĩ rằng mình vì Người mà làm. Như thế đã có ngay một cái lợi là ông sẽ không còn thì giờ để làm điều xấu, để thua bạc, để chè chén với bọn ăn ghẹ, để chơi bời phóng đãng. Xêmiôn Xemiônôvits ạ, ông có biết Ivan Pôtapưts không?

- Có, và tôi rất trọng ông ta.

- Ấy đấy, ông ta là một nhà buôn rất giỏi. Ông ta có nửa triệu bạc. Thấy làm gì cũng lãi, ông ta đã muốn sống một cuộc đời sang trọng. Con trai học tiếng Pháp, con gái lấy một vị tướng. Chẳng còn ai trông thấy mặt ông ở cửa hiệu hay ở sở chứng khoán nữa; suốt ngày ông ta la cà trong các quán rượu, tiệc tùng với bạn bè và cuối cùng ông ta vỡ nợ. Lại thêm một nỗi khổ nữa, là Chúa đã cho con trai ông về thiên đường. Bây giờ thì, ông thấy không, ông ta làm người chạy việc cho tôi.

Ông ta đã đổi lốt hẳn. Công việc của ông ta đã trở lại bình thường. Ông ta lại có cái vốn năm mươi vạn rúp để buôn bán. Nhưng ông ta bảo: “- Không, tôi nay là người chạy việc, tôi chỉ muốn làm người chạy việc đến trọn đời. Bây giờ trong người tôi thanh thản, khỏe khoắn; chứ trước kia tôi đã bắt đầu phệ ra và bị chứng thủy thũng đe dọa… Xin chừa!”.

Bây giờ ông ta không uống trà nữa, chỉ ăn toàn bánh mì tiểu mạch với xúp bắp cải mà thôi. Ông ta ngoan đạo và sẵn lòng cứu giúp kẻ nghèo hơn hết thảy chúng ta đây; vì có lắm người, sau khi đã hoang phí hết tiền của thì lấy làm sung sướng được cứu giúp người nghèo.

Ông già cầm lấy tay Khlôbuiep. Con người đáng thương ấy đang suy nghĩ rất lung.

- Xêmiôn Xemiônôvits! Giá ông biết ông làm cho tôi khổ tâm đến nhường nào! Lúc nào tôi cũng nghĩ đến ông! Ông ạ, ông cũng biết là ở trong tu viện có một vị ẩn sĩ, không hề tiếp ai. Ông ta là một người thông minh lỗi lạc. Ông ta rất ít nói, nhưng khi ông ta khuyên ai điều gì… Tôi có nói với ông ta rằng tôi có một người bạn, mà tôi không nói rõ tên, đang lâm vào tình trạng thế này thế nọ. Lúc đầu ông ta lắng nghe, rồi bỗng ngắt lời tôi và nói: “- Phải nghĩ đến Chúa trước khi nghĩ đến mình. Người ta đang xây một ngôi nhà thờ mà tiền thì thiếu: cần phải quyên tiền cho nhà thờ”. Nói đoạn, ông ta đóng cửa lại trước mặt tôi. “Như thế nghĩa là thế nào, tôi nghĩ bụng. Ông ta không muốn khuyên bảo mình hay sao?”. Tôi đến tìm Cha Bề trên. Tôi vừa bước vào, Cha đã nói: “- Ông có biết ai có thể đảm đương việc đi quyên tiền xây nhà thờ không? Cần phải là người quý tộc hay là nhà buôn, có giáo dục kha khá và thấy rõ rằng việc thiện này là một cách cứu vớt linh hồn mình”. Tôi sửng sốt: “- À lạy Chúa! Ra ý ẩn sĩ muốn nói như vậy đấy. Ông ta dành công việc này cho Xêmiôn Xemiônôvits đấy. Được đi đây đi đó, Xêmiôn Xemiônôvits sẽ chóng khỏi bệnh. Cầm sổ quyên đi gặp hết trang chủ đến nông dân, hết nông dân đến người thành thị, ông ta sẽ biết được hoàn cảnh sinh hoạt và nhu cầu của từng người; thành thử sau khi đã đi qua vài tỉnh, khi về ông ta sẽ biết rõ vùng này hơn hết thảy những kẻ chỉ luẩn quẩn ở nhà như chúng ta”. Lại vừa đúng là người ta đang cần những người như thế. Công tước có nói với tôi là ngài đang thiết tha mong có một viên chức biết rõ mọi việc như trong thực tế; vì ngài bảo là trên giấy tờ người ta chẳng trông thấy gì hết, cái gì cũng rối tung lên.

Khlôbuiep ngạc nhiên nhìn Murazôp và nói:

- Ý giúp đỡ của ông làm tôi khó nghĩ quá, Afanaxi Vaxiliêvits ạ. Tôi thật khó lòng mà tin được rằng ông có thể bàn với tôi một việc như thế; làm việc đó phải là một người tháo vát, không biết mệt. Vả lại làm thế nào mà bỏ vợ con ở nhà, chẳng có miếng bánh ăn được.

- Ông đừng lo. Tôi xin nhận việc chu cấp cho họ; con ông sẽ có thày dạy. Chẳng thà đi quyên cho Chúa, còn hơn là bị gậy đi ăn xin cho mình ông ạ; cao quý hơn nhiều. Tôi sẽ cho ông một chiếc xe mui nhỏ; ông đừng sợ xóc, vì như thế có lợi cho sức khỏe của ông. Tôi sẽ giao tiền cho ông đi đường, để ông có thể cứu giúp những kẻ túng quẫn nhất ở những nơi mà ông đi qua. Như vậy ông có thể làm nhiều việc thiện, ông sẽ không lầm lẫn và những kẻ được ông giúp sẽ là những kẻ đáng được. Đi như vậy, ông sẽ biết thiên hạ sống ra sao. Người ta sẽ không ngờ vực ông như ngờ vực một quan chức mà mọi người đều sợ. Biết là ông đi quyên tiền cho nhà thờ, người ta sẽ sẵn lòng bắt chuyện với ông.

- Thật là một ý hay, và tôi rất muốn thực hiện, ít nhất là một phần; nhưng tôi thấy công việc quá sức tôi.

- Có việc nào là việc vừa sức ta không? Murazôp nói. Không, việc gì cũng quá sức ta cả; không có sự giúp đỡ của Chúa, ta không thể làm gì hết. Nhưng ta có sức mạnh nhờ cầu nguyện. Ta làm dấu thánh, ta cầu xin sự cứu giúp của Chúa, ta cầm lấy chèo và ta vào bờ được. Không phải suy nghĩ gì nhiều nữa; ông hãy nhận lấy một cách đơn giản như nhận một mệnh lệnh của Chúa. Xe sắp thắng xong, ông đến gặp Cha Bề trên mà lấy sổ quyên và xin cha ban phước cho, rồi lên đường!

- Tôi xin theo lời ông, và nhận việc này như nhận lời chỉ bảo của Chúa. “Xin Chúa ban phước cho con!” ông ta khấn thầm và tức thì sức mạnh với tinh lực tràn vào lòng ông ta. Tâm trí ông ta như bừng tỉnh với niềm hy vọng thoát khỏi tình cảnh đáng buồn của mình. Một tia sáng lóe lên ở đằng xa.

- Bây giờ xin phép hỏi ông một câu, Murazôp nói. Cái lão Tsitsikôp ấy là người thế nào?

- Chuyện hắn thật là không tiền khoáng hậu, để tôi kể ông nghe. Hắn làm những việc hết sức bỉ ổi… Afanaxi Vaxiliêvits ạ, ông có biết tờ chúc thư ấy là giả mạo không? Người ta đã tìm ra tờ thật, nói là để điền trang lại cho hai người con nuôi.

- Ông nói sao? Ai làm ra chúc thư giả ấy?

- Người ta bảo chính Tsitsikôp làm ra, và chúc thư ấy được ký sau khi người đương sự chết rồi. Một người đàn bà được mua chuộc đã ký giả vào đấy. Tóm lại, thật là một vụ hết sức nhơ nhuốc. Hiện có vô số đơn khiếu nại từ khắp nơi gửi về. Có nhiều người đến dạm hỏi Maria Iêrêmêiepma; hai viên công chức đã đánh nhau vì cô ta. Tình hình như thế đấy, Afanaxi Vaxiliêvits ạ.

- Thế mà tôi chẳng biết gì cả; vụ này thật là đáng khiển trách. Paven Ivannôvits, nói thật, là một người rất khó hiểu.

- Tôi cũng đã đệ một lá đơn khiếu nại, để nhắc họ nhớ rằng có một người bà con gần có quyền hưởng gia tài.

“Cứ để cho chúng xâu xé nhau! Khlôbuiep nghĩ thầm khi ra về. Afanaxi Vaxiliêvits không phải là người ngốc. Ông ta giao cho mình việc này, chắc là đã nghĩ kỹ; mình cứ việc làm cho tròn phận sự”. Ông ta đã lo đến việc lên đường trong khi Murazôp vẫn còn nghĩ mãi: “Cái lão Paven Ivannôvits này, thật là một người khó hiểu. Giá hắn để ngần ấy ý chí và nghị lực mà làm việc thiện!”

Trong khi đó, đơn khiếu nại gửi tới tấp đến các tòa án. Lần lượt thấy xuất hiện những người có thể thừa hưởng gia tài mà xưa nay chẳng ai từng nghe nói đến. Như một đàn quạ sà xuống một cái xác chết đã thối, ai nấy đều dòm dõi cái gia tài kếch sù của bà già để lại. Có những đơn tố giác Tsitsikôp, những đơn phủ nhận tính xác thực của tờ chúc thư sau, cũng như của tờ chúc thư trước; có những chứng tích về tội biển thủ và thụt két. Tsitsikôp lại còn bị tố cáo là đi mua những linh hồn chết và buôn lậu trong thời gian làm ở ngành thuế quan. Người ta lục lạo cả cuộc đời của Tsitsikôp, vạch rõ những ba đào đã xảy ra ngày xưa cho y. Có trời biết họ làm thế nào mà đánh hơi được những việc đó; chỉ biết là họ bới ra được nhiều việc mà Tsitsikôp vẫn tưởng là ngoài y với bốn bức tường ra, chẳng ai hay biết gì hết. Vả chăng, tất cả những việc đó đều được nhà chức trách giữ kín và chưa đến tai Tsitsikôp; mặc dù một mảnh giấy của nhà pháp luật gửi đến đã cho y biết rằng sắp có chuyện chẳng lành.

Nội dung mảnh giấy ấy chỉ vắn tắt: “- Tôi xin vội vàng báo để ông rõ rằng sẽ có chuyện lôi thôi; nhưng xin ông nhớ là không nên bối rối. Hãy bình tĩnh, hãy bình tĩnh. Rồi mọi việc sẽ được dàn xếp ổn thỏa”. Mảnh giấy làm cho Tsitsikôp hoàn toàn vững dạ. Y tự nhủ: “Đúng là một thiên tài!”.

May mắn hơn nữa là vừa lúc ấy thợ may lại đem áo đến. Y đang nóng lòng được mặc chiếc frac mới, màu huyết dụ lửa khói. Y mặc cái quần vào, thấy vừa vặn, sít sao quá, hai bên hông cũng vừa đẹp, đôi bắp chân cũng thế; chất dạ ăn sát vào từng chi tiết một, làm cho các bắp thịt trông lại càng dẻo dai hơn. Khi đã mắc cái khóa lưng ở phía sau thì bụng y phềnh ra như cái trống, y cầm cái bàn chải đập vào bụng và kêu lên:

- Trông thộn quá! Nhưng nhìn gộp vào thì lại rất cân xứng!

Cái áo lại còn có vẻ khéo cắt hơn cái quần nữa; không một nếp nhăn; vạt áo buông rất thẳng; áo ăn sát vào người, làm nổi bật cái lưng ong. Tsitsikôp phàn nàn là hơn vương vướng ở nách bên phải, thì người thợ may chỉ mỉm cười: như thế, áo lại càng bó sát lấy người và chỉ làm nổi bật tấm thân lên thôi.

- Xin ngài yên tâm, về kỹ thuật may thì xin ngài cứ yên tâm, - hắn cứ nhắc đi nhắc lại với một vẻ đắc thắng không hề giấu giếm; - trừ ở Pêterbua ra thì không nơi nào may được như thế này đâu!

Chính gã thợ may là người Pêterbua, tuy trên biển hiệu, hắn đề: Thợ ngoại quốc ở Luân Đôn và Ba Lê. Hắn vốn là kẻ làm đến nơi đến chốn và khi tuyên bố mình là người của hai thành phố như vậy, hắn muốn khóa mõm tất cả các bạn đồng nghiệp: từ đấy về sau, bọn này đành phải chịu làm người Karlxru hay Kôbenhagen {Karlxru, một thành phố lớn ở Đức, Kôbenhagen, thủ đô nước Đan Mạch, là những thành phố ăn diện kém Luân Đôn và Ba Lê nhiều} mà thôi.

Tsitsikôp trả tiền cho thợ may; và khi chỉ còn lại một mình trong phòng, y tha hồ ngắm nghía mình trong gương, con amore {Tiếng Ý trong nguyên văn có nghĩa là: một cách âu yếm}, với tư cách một nghệ sĩ có khiếu thẩm mỹ. Mỗi bộ phận của bức tranh hình như đều được tăng thêm sắc đẹp; đôi má hồng hào hơn, cái cằm duyên dáng hơn; cổ áo trắng làm nổi nước da đôi má; cái cà vạt xa tanh xanh làm nổi màu cổ áo; những nếp gấp hợp thời trang trên vạt trước áo sơ mi làm nổi chiếc cà vạt; chiếc gi lê nhung sang trọng làm nổi vạt trước áo sơ mi và chiếc frac màu huyết dụ lửa khói làm nổi toàn bộ lên. Y quay sang phải: tuyệt! Quay sang trái: còn tuyệt hơn nữa! Quả là cái lưng ong của một viên thị thần {Chức quan coi việc quản lý trong cung, hầu cận vua, chúa} hay của một nhân vật gãi cũng gãi theo lối Pháp, một con người mà ngay lúc giận dữ cũng không văng ra một câu nói tục nào bằng tiếng Nga, mà chửi bới, nguyền rủa toàn bằng tiếng Pháp cả! Tóm lại, thật là văn minh đến cực điểm! Đầu hơi nghiêng nghiêng, y đứng theo cái tư thế của một gã công tử hợm mình đang tiếp chuyện một phu nhân đứng tuổi có học thức tinh tế: thật là một đề tài rất đẹp để vẽ thành tranh, chỉ còn thiếu có họa sĩ và bút vẽ nữa mà thôi. Đắc chí, Paven Ivannôvits phác một bước vũ antrasat. Chiếc tủ ngăn rung lên, một lọ ô đơ Côlôn lăn xuống đất. Không chút nao núng, y chỉ chửi cái lọ là đồ ngốc, rồi nghĩ thầm: “Nên đến thăm nơi nào trước đây? Tốt hơn cả là…”.

Bỗng phòng ngoài nghe như có tiếng cựa giày lạch cạch. Một viên sen đầm hiện ra với đầy đủ trang bị như thể chỉ một mình hắn đại diện cho cả một quân đoàn.

- Có lệnh đòi lên trình diện ngay quan lớn tổng trấn.

Tsitsikôp đớ người ra. Trước mắt y sừng sững một ngoáo ộp, ria mép vểnh lên, đầu đội cả một cái đuôi ngựa {Mũ sắt của sen đầm thời ấy có ngù rất dài làm bằng lông đuôi ngựa}, mỗi vai đeo một chiếc nịt da, một thanh gươm lớn lủng lẳng bên sườn. Y có cảm giác là bên sườn kia còn đeo một khẩu súng và có trời biết là còn những gì nữa… cả một quân đoàn tập trung vào một cá nhân! Y toan cãi; ngoáo ộp liền tuôn ra, rất cục cằn: - Lệnh đòi lên ngay tức khắc!

Ở phòng ngoài, Tsitsikôp thoáng thấy bóng một ngoáo ộp nữa; nhìn qua cửa sổ, y thấy một cỗ xe. Biết làm thế nào bây giờ? Mình vẫn mặc nguyên chiếc áo lễ đẹp màu huyết dụ lửa khói, y đành phải lên xe; và với viên sen đầm áp giải một bên, y run rẩy đi đến dinh tổng trấn. Vào đến phòng chờ, người ta cũng chẳng để cho y có thì giờ hoàn hồn nữa.

- Vào đi! Công tước đang đợi, người trực nhật nói.

Y trông thấy như qua một làn sương mù gian phòng đợi, nơi mấy anh chạy giấy đang nhận những gói công văn, rồi một gian phòng lớn mà y vừa đi qua, vừa nghĩ thầm: “Họ sẽ tống cổ mình đi Xibia, không xét xử lôi thôi gì nữa”. Trống ngực y đập còn mạnh hơn trống ngực của gã tình nhân hay ghen nhất. Cuối cùng, cánh cửa oan nghiệt mở ra; phòng làm việc hiện lên; y trông thấy những cái tủ, những tập hồ sơ, những chồng sách, và công tước tổng trấn, hiện thân của thịnh nộ.

“Hung thần! Hung thần! Tsitsikôp tự nhủ. Hắn sẽ xé xác mình ra như con sói xé xác con cừu non!”.

- Gớm nhỉ! Công tước nói, đôi môi run lên vì giận; ta đã tha cho ngươi; đáng lẽ phải tống ngươi đi đày khổ sai, thì ta cho phép ngươi ở lại trong thành phố; thế mà để trả ơn ta, ngươi lại đi làm cái việc bịp bợm, bỉ ổi nhất xưa nay chưa từng có ai làm!

- Thưa Đại nhân, việc bịp bợm, bỉ ổi nào kia ạ? Run lẩy bẩy, Tsitsikôp hỏi.

- Con mụ đàn bà, công tước vừa nói vừa tiến lại gần và nhìn chằm chặp vào Tsitsikôp; con mụ đàn bà đã viết cái chúc thư do ngươi đọc cho, đã bị bắt và sẽ được đem ra đối chất với ngươi.

Mắt Tsitsikôp tối sầm lại. Mặt y trắng bệch ra như tờ giấy.

- Thưa Đại nhân! Con xin thưa hết sự thật. Con có tội, thật là có tội; nhưng không đến nỗi như Đại nhân nghĩ, những kẻ thù đã vu oan cho con.

- Không ai có thể vu oan cho ngươi được, vì ngươi có nhiều mánh khóe bỉ ổi mà một tên lừa đảo vô liêm sỉ nhất cũng không tưởng tượng ra nổi. Ta tin rằng suốt đời, ngươi chưa từng có một hành động nào mà không bất lương. Mỗi đồng kôpek ngươi kiếm ra đều do thủ đoạn vô liêm sỉ; mỗi đồng kôpek ngươi kiếm ra là một vụ ăn cắp và một hành động nhơ nhuốc, đáng gia hình bằng knut {Knut là roi da gồm nhiều sợi có buộc những cục sắt nhỏ, công cụ để gia hình thông dụng dưới thời Nga hoàng} và đày đi Xibia. Quá quắt lắm rồi! Mày sẽ phải tống ngục ngay tức khắc và vào đấy, cùng với bọn vô lại đê hèn hạng nhất, sẽ chờ người ta quyết định số phận mày. Mà thế còn là một ân huệ cho mày đấy, vì mày còn tệ hơn bọn chúng nữa; chúng nó chỉ mặc sơ mi thụng và tulup, còn mày thì…

Công tước nhìn chiếc frac màu huyết dụ lửa khói và kéo dây chuông.

- Xin Đại nhân! Tsitsikôp kêu lên. Xin Đại nhân thương tình! Đại nhân là một người cha. Đại nhân không thương con thì cũng xin Đại nhân rủ lòng thương mẹ già con!

- Mày nói dối! Công tước tức giận quát lên. Trước kia mày đã van xin ta vì mấy đứa con, vì cái gia đình bịa đặt của mày; bây giờ mày lại nói đến mẹ mày.

- Thưa Đại nhân! Con là một tên vô lại, một kẻ khốn nạn nhất đời. Quả con đã nói dối; con không hề có con cái, không hề có gia đình; nhưng có Chúa chứng dám cho con, xưa nay con vẫn mong có một người vợ, mong làm bổn phận của một con người và một nông dân, để xứng đáng được xã hội trọng nể. Nhưng hoàn cảnh oái ăm thay! Thưa Đại nhân, con đã phải kiếm kế sinh nhai trong những điều kiện khủng khiếp. Cứ mỗi bước là gặp những cám dỗ… những kẻ thù... cả cuộc đời con như một cơn lốc hay một con tàu bềnh bồng trên sóng, phiêu bạt theo gió. Thưa Đại nhân, con chỉ là một con người!

Nước mắt y bỗng tuôn ra như suối. Mình diện nguyên chiếc frac màu huyết dụ lửa khói, chiếc gi lê nhung, chiếc cà vạt xa tanh, cái quần hoàn mỹ, bộ tóc thơm phức ô đơ Côlôn, y sụp xuống chân công tước và dập trán xuống sàn nhà.

- Lui ra! Quân đâu! Lôi nó đi! Công tước quát.

- Xin Đại nhân! Tsitsikôp rống lên, hai tay ôm chặt lấy chiếc ủng của công tước.

Người công tước run lên bần bật.

- Ta bảo mày lui ra! Ngài vừa quát vừa cố gỡ chân ra khỏi đôi tay của Tsitsikôp.

- Xin Đại nhân, con cứ phủ phục ở đây cho đến khi Đại nhân làm phúc tha cho con! Tsitsikôp nói; tay vẫn không buông chiếc ủng của công tước và cứ lê gối theo chân ngài trên sàn gỗ, trong bộ lễ phục đẹp đẽ màu huyết dụ lửa khói.

- Buông ra, công tước nói với cái cảm giác ghê tởm mơ hồ như khi người ta trông thấy một con bọ mà không đủ cam đảm giẫm cho chết. Ngài giãy chân ra mạnh đến nỗi đá phóc vào mặt Tsitsikôp, làm cho mũi, môi và cằm y đau ê ẩm; nhưng y vẫn không chịu buông tay và càng bám chặt hơn nữa vào chiếc ủng. Sau cùng, phải hai viên sen đầm lực lưỡng dùng vũ lực kéo y ra và xốc nách lôi tuột qua khắp các phòng. Y nhợt nhạt, thẫn thờ, ở trong cái trạng thái hôn mê khủng khiếp của một kẻ đang đứng trước một cái chết thảm khốc, không sao tránh khỏi, trước cái cảm giác hãi hùng hết sức trái ngược với bản tính con người…

Ở chân thang máy, y gặp Murazôp. Một tia hy vọng lóe lên. Chỉ trong nháy mắt y vùng ra khỏi tay hai viên sen đầm và sụp xuống chân Murazôp, khiến cho ông già hết sức ngạc nhiên.

- Ông ơi, Paven Ivannôvits ơi! Ông làm sao thế?

- Cứu tôi với! Họ đưa tôi vào tù, vào chỗ chết…

Hai viên sen đầm túm hắn lôi đi, không cho nói nốt… Một gian hầm bẩn thỉu và ẩm thấp, nồng nặc mùi đế ủng và xà cạp của lính coi ngục, một cái bàn bằng gỗ mộc; hai cái ghế ọp ẹp; một cửa sổ có chấn song, một cái lò sưởi thủng móp, phun khói ra các kẽ hở mà chẳng tỏa được tí hơi ấm nào: đó là nơi trú ngụ mới dành cho nhân vật của chúng ta; con người mà, chỉ một lát trước đây, đang tưởng mình được hưởng những lạc thú ở đời và được đồng bào chú ý vì một chiếc frac màu huyết dụ lửa khói. Thậm chí người ta cũng không để y có thì giờ thu vén những thứ cần dùng, lấy cái tráp… Bao nhiêu giấy má, văn khế mua người chết, tất cả đều đã vào tay các nhà tư pháp. Y buông phịch người xuống, và một nỗi buồn u uất cấu xé lòng y như một con sâu háu đói. Với một tốc độ mỗi lúc một tăng, nó gặm nhấm cõi lòng bơ vơ không nơi nương tựa đó. Chỉ cần một ngày sầu thảm như thế nữa thôi là Tsitsikôp đã không còn ở trên thế gian này nữa. Nhưng một bàn tay hộ mệnh đang che chở cho y. Một giờ sau, cửa ngục mở ra, và ông già Murazôp bước vào.

Một kẻ lữ hành đang bị cơn khát bỏng họng hành hạ, người đầy bụi bặm, phờ phạc, kiệt sức mà được người ta đổ cho một tí nước suối vào cái cổ họng khô rát; hắn cũng không thấy mát, thấy mình hồi sinh, như thằng cha Tsitsikôp bất hạnh khi thấy Murazôp vào.

Từ cái sàn gỗ mà y đã nằm vật xuống trong cơn tuyệt vọng, y giơ tay nắm chặt lấy tay Murazôp mà hôn, mà áp lên ngực, và nói: - Cứu tinh của tôi! Chúa sẽ thưởng cho ngài đã rủ lòng vào thăm một kẻ khốn nạn!

Đoạn y khóc òa lên.

Ông già ái ngại nhìn y và chỉ nói:

- Ôi, Paven Ivannôvits, Paven Ivannôvits! Ông đã làm gì thế?

- Biết làm sao được! Cái tính vô độ đáng nguyền rủa nó hại tôi, tôi quên hết chừng mực! Tôi không biết dừng lại kịp thời. Quỷ Xa tăng đã cám dỗ tôi, đã lôi tôi ra khỏi giới hạn của lương tri! Tôi đã sa ngã, tôi đã sa ngã, thật vậy: nhưng làm sao người ta lại có thể hành động như thế này? Bỏ tù một người quý tộc mà không xét xử, không điều tra!... Một người quý tộc, Afanaxi Vaxiliêvits ạ!... Không để cho người ta có thì giờ ghé về nhà thu xếp đồ đạc nữa! Bây giờ mọi vật đang bỏ đấy, vô chủ. Cái tráp của tôi, Afanaxi Vaxiliêvits, cái tráp của tôi! Bao nhiêu tài sản của tôi đều ở cả trong ấy. Tất cả những gì tôi đã đổ mồ hôi trán ra mới kiếm được, trong bao nhiêu năm lao lực, chịu đựng thiếu thốn. Cái tráp của tôi, Afanaxi Vaxiliêvits ơi! Người ta sẽ lấy hết, cướp hết! Trời ơi là trời!

Không có đủ sức cưỡng lại cơn tuyệt vọng mới này, y khóc nức nở; tiếng khóc xuyên qua những bức tường dày của ngục thất, âm ỉ ra mãi tận xa. Y giật đứt cái cà vạt bằng xa tanh và nắm lấy chỗ sát cổ áo xé toạc chiếc lễ phục đẹp đẽ màu huyết dụ lửa khói.

- Chao ôi, Paven Ivannôvits! Số của cải ấy đã làm ông mờ mắt! Nó làm cho ông không thấy được tình cảnh khủng khiếp của ông.

- Ân nhân của tôi ơi, cứu tôi với, cứu tôi với! Con người khốn nạn tuyệt vọng kêu lên, phủ phục xuống chân Murazôp. Công tước quý ông lắm: vì ông, việc gì ngài cũng làm.

- Không đâu, Paven Ivannôvits ạ; tôi rất muốn giúp ông, nhưng không thể được. Không phải ông lọt vào tay một người nào, mà đang ở dưới uy quyền của một pháp luật không gì lay chuyển nổi.

- Chính quỷ Xa tăng, thằng đao phủ của loài người, đã cám dỗ tôi!

Y nện đầu vào tường và giáng một quả đấm xuống bàn, mạnh đến nỗi bật máu ra; nhưng chẳng thấy đau đớn gì.

- Paven Ivannôvits, hãy bình tâm; hãy nghĩ cách hòa giải với Chúa, chứ không phải với người; hãy nghĩ đến linh hồn mình.

- Chao ôi cái số phận tôi! Afanaxi Vaxiliêvits! Ai đời lại có một số phận như thế? Vì nếu tôi có kiếm được vài xu, thì chính là nhờ kiên gan làm lụng chứ nào phải trộm cắp của người hay ăn cướp của công như bao nhiêu kẻ khác. Tôi gom góp để làm gì? Để được nhàn hạ khi tuổi già; để lại ít nhiều cho vợ, cho những đứa con mà tôi định tâm là sẽ có, để giúp ích và phụng sự tổ quốc. Tôi muốn có của chỉ vì thế! Tôi đã đi theo con đường quanh co, tôi xin nhận như thế. Nhưng chỉ sau khi tôi thấy rõ rằng theo con đường chính trực người ta chẳng tiến được chút nào, mà theo đường vòng người ta lại đi nhanh hơn. Nhưng tôi đã làm việc, tôi đã nỗ lực. Tôi lấy cái gì là lấy của kẻ giàu có. Ông thử nghĩ đến những bọn vô lại ăn cắp của công hàng nghìn rúp, bóc lột kẻ nghèo, cướp đến những đồng xu cuối cùng của kẻ đói khổ!... Số phận đâu mà hẩm hiu đến thế! Mỗi lần sắp đạt kết quả, có thể nói là đã sờ được ở đầu ngón tay, là một cơn bão táp nổ ra; người ta lao vào một tảng đá ngầm, thuyền vỡ tan tành. Tôi đã có gần ba mươi vạn rúp vốn liếng; một ngôi nhà ba tầng, đã mua được hai cái ấp… Afanaxi Vaxiliêvits, sao lại có một nỗi bất hạnh đến như thế? Sao lại có những vố phũ phàng đến như thế? Đời tôi há chẳng phải như một con thuyền bềnh bồng trên sóng đó sao? Công lý của Thượng đế ở đâu? Đâu là sự đền đáp cho một trí kiên nhẫn, một sự bền gan không lấy gì sánh được? Vì đã ba lần tôi phải bắt đầu lại từ hai bàn tay trắng, tôi bắt đầu lại với mấy đồng xu; giá phải người khác thì đã mất hết hy vọng và thành ra con ma men rồi. Tôi đã phải đấu tranh, chịu đựng, đau khổ biết bao nhiêu… Mỗi kôpek là phải đem hết sức mạnh của tâm hồn ra mới kiếm được. Hãy cho rằng có kẻ kiếm ra tiền chẳng khó nhọc gì; nhưng đối với tôi thì đúng như câu tục ngữ đã nói: mỗi kôpek đóng chặt xuống đất với một cái đinh đáng giá những ba kôpek; thế là tôi phải vận dụng một ý chí gang thép để đánh gãy cái đinh mà lấy đồng kôpek; và có Chúa biết cho là tôi đã làm thế với chí kiên cường không mệt mỏi.

Trong lúc quá buồn khổ, y khóc hu hu, để mình rơi bịch xuống một chiếc ghế, giật đứt mảnh vạt áo rách treo lủng lẳng mà ném ra xa. Y giơ hai tay túm lấy những mớ tóc mà trước kia đã chăm chút biết bao, nhổ từng nắm không tiếc tay; y tìm trong cái đau đớn về thể xác một phương thuốc đánh lạc nỗi đau khổ về tinh thần.

Hồi lâu, Murazôp im lặng ngắm cái cảnh tượng lạ lùng ấy. Kẻ khốn nạn mới đây còn vênh vang đi lại với cái thư thái thong dong của một người thiệp thế hay một quân nhân; giờ đây quẫn chí đang vật vã điên cuồng, áo quần hở hang, khó coi, chiếc frac thì rách vạt, cái quần thì hở cúc, bàn tay thì vấy máu, nỗi uất hận trút vào những sức mạnh thù địch vẫn hành hạ con người.

- Chao ôi! Paven Ivannôvits, Paven Ivannôvits! Giá ông dùng cái nghị lực và chí kiên nhẫn của ông vào việc thiện, giá ông theo đuổi một mục đích tốt hơn; ông đã thành một người như thế nào rồi! Ông đã có thể làm được bao nhiêu việc hữu ích! Giá tất cả những người phúc thiện cũng ra công gắng sức làm việc tốt như ông đã ra công thu góp tiền bạc, giá họ biết hy sinh lòng tự ái và tham vọng để làm việc đó thì trời ơi, trái đất của chúng ta phồn vinh biết chừng nào!... Paven Ivannôvits, Paven Ivannôvits! Ông còn có tội với bản thân nhiều hơn là với đồng loại. Ông đã làm ô uế những khả năng phong phú mà tạo hóa đã ban cho ông. Sinh ra để trở thành một vĩ nhân, ông chỉ biết làm hỏng cả đời mình. Đó là điều làm cho tôi phiền lòng hơn cả.

Lòng người thật lắm uẩn khúc. Dù một kẻ lầm lạc có đi xa con đường chính trực bao nhiêu, dù một tên tội phạm thâm căn cố đế có lòng lim dạ sắt bao nhiêu, có lê la bao nhiêu trong ao tù của cuộc đời bất nghĩa chăng nữa; nhưng khi người ta đem con người hắn và những khả năng mà hắn đã làm nhơ bẩn ra trách hắn; thì hắn cũng bất giác bị lay chuyển và xúc động.

- Afanaxi Vaxiliêvits - con người khốn nạn cầm tay Murazôp nói - ôi, giá tôi ra được khỏi nơi này, lấy lại được của cải của tôi! Tôi xin thề với ông là từ nay tôi sẽ sống một cuộc đời khác hẳn. Xin ông cứu tôi với, ân nhân ơi, cứu tôi với!

- Tôi biết làm thế nào được? Muốn thế phải chống lại pháp luật. Cứ thử cho là tôi dám làm như thế đi nữa: nhưng công tước là người nghiêm minh; dù có thế nào ngài cũng không lùi bước.

- Ân nhân ơi! Không có việc gì mà ông không làm được. Pháp luật chẳng phải là cái làm cho tôi khiếp sợ: tôi sẽ có cách dàn xếp với pháp luật; nhưng vô cớ bị tống ngục, phải nằm bẹp ở đây như con chó, trong khi tài sản của tôi, giấy má của tôi, cái tráp của tôi… Cứu tôi với! Y ôm chặt lấy hai chân ông già, nước mắt chảy xuống ướt dầm dề đôi chân.

- Chao ôi Paven Ivannôvits, Paven Ivannôvits! Ông già Murazôp lắc đầu nói, mớ tài sản ấy làm cho ông mù quáng đến thế kia ư! Nó làm cho ông không nghe được tiếng nói của linh hồn ông nữa!

- Tôi cũng sẽ nghĩ đến linh hồn tôi, nhưng xin ông cứu lấy tôi đã!

- Paven Ivannôvits, tôi không đủ quyền để cứu ông; nhưng tôi sẽ cố hết sức làm cho số phận ông đỡ khổ và đưa ông ra khỏi nơi này. Vạn nhất mà tôi làm được như vậy, thì xin ông đền công cho tôi bằng cách từ bỏ mọi mưu toan mua bán của ông. Tôi xin lấy danh dự mà nói với ông rằng giá tôi có mất hết tài sản, và tài sản thì tôi có nhiều hơn ông, tôi sẽ không hề khóc lóc. Bởi vì cái đáng kể không phải là những của cải người ta có thể tịch thu của mình, mà là những của cải không ai có thể lấy trộm hay cướp của mình được! Ông đã sống khá đủ trên thế gian này. Chính ông cũng gọi cuộc đời ông là một con thuyền bềnh bồng trên sóng. Ông có đủ tiền của để sống cho trọn đời. Hãy kiếm lấy một nơi yên tĩnh mà ở, cạnh một nhà thờ và gần những người hèn mọn; hoặc giả ông thiết tha muốn có người nối dõi, thì lấy một người con gái trung hậu, địa vị tầm thường, đã quen sống với cuộc đời giản dị. Hãy quên cuộc đời phồn hoa và những cám dỗ của nó. Đồng thời cũng để cho cuộc đời phồn hoa quên ông đi; nó không đem lại yên tĩnh cho con người. Ông cũng đã biết là ở đấy chỉ có cám dỗ và phản bội mà thôi.

- Vâng, vâng, nhất định là như thế! Tôi vẫn có ý định sống một cuộc đời giản dị, phải chăng, làm nghề trồng trọt. Chính con quỷ cám dỗ, chính Xa tăng đã quyến rũ tôi, đã kéo tôi ra khỏi con đường chính trực!

Y cảm thấy trong lòng chớm nở những tình cảm mới mẻ, xưa kia đã bị bóp nghẹt vì lối giáo dục khắc khổ và không hồn, vì cảnh sống khô cằn của một thời thơ ấu ảm đạm, cảnh hiu quạnh của nhà bố, vì sự nghèo nàn của những ấn tượng thiếu thời, vì cái nhìn nghiệt ngã của số mệnh ngắm y một cách cau có qua một ô cửa kính mờ đục, phủ đầy tuyết. Y cất tiếng rên, và giơ hai tay bưng lấy mặt, nói giọng thảm sầu: “Phải rồi, phải rồi!”.

- Cái vốn biết người, hiểu đời đã không giúp ích được gì cho ông trong việc phi pháp; nhưng giá được dùng để phụng sự chính nghĩa!... Nào, Paven Ivannôvits, phải tỉnh ngộ; còn kịp đấy…

- Không, muộn quá rồi! Tsitsikôp rên rỉ với một cái giọng khiến Murazôp phải rùng mình. Quả tôi đã bắt đầu thấy mình đi lầm đường, thấy rằng mình đã rời khỏi con đường chính trực; nhưng biết làm thế nào được? Tôi không cưỡng nổi. Tôi đã được giáo dục không phải cách. Cha tôi dạy luân lý cho tôi, đánh đập tôi, bắt tôi chép những câu cách ngôn; nhưng bản thân ông lại ăn trộm gỗ của láng giềng trước mắt tôi và còn bắt tôi giúp sức nữa. Ông ta đã gây ra trước mắt tôi một vụ kiện bất công, bất chính và quyến rũ một người con gái mồ côi mà ông ta là người đỡ đầu. Gương xấu đã thắng những lời răn dạy. Afanaxi Vaxiliêvits ạ, tôi thấy, tôi biết rằng tôi đang sống một cuộc đời bậy bạ; nhưng thói xấu không làm cho tôi ghê tởm. Bản tính tôi đã thành đê tiện; tôi không thấy yêu thích điều thiện, không có cái khuynh hướng kỳ diệu muốn làm những việc nhân đức; nó thường trở thành một bản tính thứ hai, một tập quán… Tôi nói thật như vậy. Biết làm thế nào!

Ông già buông một tiếng thở dài nặng trĩu.

- Paven Ivannôvits, ông có bao nhiêu là nghị lực, bao nhiêu là kiên nhẫn! Phương thuốc này đắng thật, nhưng có người bệnh nào lại không chịu uống, khi biết rằng đây là cách duy nhất có thể chữa khỏi bệnh. Nếu ông không thấy yêu điều thiện, cũng hãy cứ làm việc thiện một cách miễn cưỡng đi. Như vậy, ông sẽ có công hơn người làm việc thiện vì yêu thích. Ông hãy tự bắt buộc vài lần rồi lòng yêu thích sẽ đến. Thiên đường phải chinh phục bằng bạo lực {Lời trong Kinh Thánh}, chỉ có dùng sức mạnh mới vào được vương quốc của Chúa. Thế nào, Paven Ivannôvits, ông có cái sức mạnh mà bao nhiêu người khác không có, cái chí kiên nhẫn không gì thắng nổi ấy, mà ông vẫn không làm được hay sao? Tôi tin rằng ông có bản chất của người anh hùng. Vì ngày nay mọi người đều nhu nhược, không có chí khí.

Những lời ấy như đã gây một ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn Tsitsikôp và làm rung lên một sợi tơ đồng tham vọng trong lòng y. Cái gì như thể một ánh quyết tâm long lanh trong mắt y.

- Afanaxi Vaxiliêvits! - Y nói, giọng rắn rỏi - miễn là ông tìm cách cho tôi được tha và đi khỏi nơi này với một số tiền này đó thì xin thề với ông là tôi sẽ bắt đầu một cuộc đời mới. Tôi sẽ mua một cái ấp; tôi sẽ làm nghề nông; tôi sẽ thu nhặt tiền của không phải cho tôi, mà để giúp đỡ kẻ khác trong chừng mực mà sức tôi có thể làm được; tôi sẽ tự quên mình; tôi sẽ quên những cuộc truy hoan ở thành thị, tôi sẽ sống một cuộc đời giản dị, điều độ.

- Cầu Chúa phù hộ cho ông giữ vững ý định ấy! Ông già nói, lòng vui mừng khôn xiết. Tôi sẽ hết sức xin công tước tha ông. Không biết có xin được hay không; dù sao, ông cũng sẽ được đối xử khoan hồng hơn. Ông cho phép tôi hôn ông. Vì ông đã đem đến cho tôi một niềm vui lớn. Cầu Chúa phù hộ cho ông! Tôi đến gặp công tước đây.

Tsitsikôp ngồi lại một mình.

Cả con người y xao xuyến, bồi hồi, rồi tâm hồn y dịu lại. Ngay đến bạch kim là kim loại ít sợ lửa nhất, cũng phải chảy ra khi ngọn lửa trong lò to lên. Nếu thổi to ngọn lửa làm cho độ nóng không thể chịu được nữa, thì chất kim loại kiên gan kia sẽ trắng ra và chảy thành nước; con người rắn rỏi nhất cũng vậy, cũng tan đi trong lò lửa của hoạn nạn, khi hoạn nạn tăng lên, và như một ngọn lửa vô địch, tấn công cái bản chất đã chai sạn của hắn…

“Mình thì không biết và không cảm thấy điều thiện, nhưng mình sẽ đem hết sức làm cho người khác cảm thấy. Mình xấu xa và không xứng đáng; nhưng mình sẽ dùng hết sức để làm cho người khác tránh điều xấu. Mình là một con chiên ghẻ; nhưng mình sẽ cố gắng cho khỏi gây nên tai tiếng ô nhục. Mình sẽ làm lụng, sẽ đổ mồ hôi nước mắt, mình sẽ làm ăn lương thiện để có ảnh hưởng tốt đối với kẻ khác! Quả tình có thể nói là mình đã thành người hoàn toàn vô dụng! Nghề nông làm cho mình thích, mình có những đức tính cần kiệm, tháo vát, biết lo xa, cả tính nhẫn nại nữa. Chỉ cần có quyết tâm là được…”.

Tsitsikôp suy nghĩ như vậy. Những khả năng tinh thần của y như bừng tỉnh, tự nhận thức được bản thân. Do một bản năng mơ hồ, trong thâm tâm y dường như đã bắt đầu hiểu rằng có một bổn phận mà con người phải làm và có thể làm trọn ở bất cứ nơi nào trên trái đất; bất chấp những hoàn cảnh, những nhiễu loạn, những khó khăn quanh mình. Và đời sống cần cù, xa tiếng ồn ào của thành thị, xa những sự cám dỗ mà con người đã phát minh ra trong cảnh nhàn cư, sao nhãng công việc; đời sống đó bắt đầu hiện lên trước mắt y rõ nét đến nỗi y gần quên hết vị đắng cay của cảnh ngộ mình. Có lẽ y còn sẵn sàng tạ ơn Thượng đế về cái vố nặng nề này, miễn là người ta thả y ra và hoàn lại cho y ít nhất là một phần…

Nhưng cánh cửa của gian hầm bẩn thỉu mở ra, và một viên chức bước vào. Đó là Xamôxvixtôp, một người theo chủ nghĩa hưởng lạc, trai tráng, vai rộng, chân cẳng lực lưỡng, rất tốt với bạn bè, ăn chơi vong mạng “một con vật tinh khôn ranh ma”, như chính các bạn đồng liêu của hắn thường gọi. Giá phải thời chiến tranh, con người đó hẳn đã lập được lắm kỳ công; vạch một lối đi qua những nơi hiểm nghèo không ai qua được, đánh thó một khẩu đại bác ngay trước mũi quân địch; đó chắc phải là những chiến công, xứng đáng với hắn. Nhưng nếu trong sự nghiệp kiếm cung, hắn có thể thành một người lương thiện; thì trong cuộc đời văn quan hắn lại phạm đủ mọi tội lỗi xấu xa. Hắn có những nguyên tắc thật lạ lùng: hắn cư xử rất phải lẽ với bạn bè, không bao giờ phản bội ai và bao giờ cũng giữ lời hứa với mọi người; nhưng hắn coi các quan trên như một vị trí pháo binh của địch mà hắn phải chọc thủng bằng cách lợi dụng mọi nhược điểm, mọi khe hở, mọi sơ xuất.

- Chúng tôi biết rõ tình cảnh ông, chúng tôi biết hết, hắn nói sau khi thấy cánh cửa đóng chặt lại sau lưng. Ông đừng sợ, mọi việc sẽ ổn thỏa. Cả bọn chúng tôi đều làm việc cho ông, phụng sự ông rất trung thành. Ba vạn rúp cho cả bọn; không lấy hơn một xu.

- Thật chứ? Tsitsikôp kêu lên. Và tôi sẽ được thanh minh hoàn toàn chứ?

- Hoàn toàn! Và còn được bồi thường nữa.

- Và để đền công… ông lấy bao nhiêu?

- Ba vạn rúp. Đủ phần mọi người: bọn chúng tôi, bọn thuộc lại của tổng trấn và viên thư ký nữa.

- Nhưng, xin lỗi ông, tôi làm thế nào mà…? Bao nhiêu đồ đạc của tôi… cái tráp… tất cả đều đã bị niêm phong và bị canh giữ cẩn mật rồi.

- Nội một giờ nữa, ông sẽ có tất. Thế nào, bằng lòng chứ?

Tsitsikôp bằng lòng. Trống ngực y đập mạnh; Y không tin là có thể như thế được.

- Thôi hãy tạm chia tay! Ông bạn chung của chúng ta có nhờ tôi dặn ông yên tâm và tĩnh trí.

- “Hừm! Tsitsikôp nghĩ thầm, biết mà, nhà cố vấn pháp luật của mình đang ra tay đấy!”

Xamôxvixtôp ra. Tsitsikôp ngồi lại một mình, vẫn chưa dám tin câu chuyện vừa rồi là thật; nhưng chưa đầy một giờ, đã có người mang cái tráp vào, giấy má, tiền bạc, tất cả đều hoàn toàn ngăn nắp. Số là Xamôxvixtôp đã đến nhà trọ của Tsitsikôp, quở mắng bọn lính canh là thiếu cẩn mật, ra lệnh cho viên giám thị về lấy thêm lính để tăng cường canh phòng, rồi cướp lấy cái tráp và cả những giấy tờ có thể có hại cho Tsitsikôp, hắn gói thành một bọc, niêm phong lại và ra lệnh cho một người lính đưa ngay vào cho phạm nhân, nói rằng đó là những đồ cần dùng ban đêm; thành thử ngoài giấy tờ ra, Tsitsikôp còn nhận được đủ thứ cần thiết để che đắp tấm thân khả diệt của mình. Thấy công việc tiến hành mau lẹ như vậy, Paven Ivannôvits vui mừng khôn xiết. Y chứa chan hy vọng và lại bắt đầu mơ đến những cảnh hoan lạc: một tối xem kịch ở nhà hát, một vũ nữ mà y ve vãn. Thôn quê với cảnh tĩnh mịch mờ nhạt dần; chốn phồn hoa với cảnh náo nhiệt lại chói lọi như xưa… Ôi, đời là thế!

Trong khi đó thì ở các tòa án, ở khắp các công sở, vụ Tsitsikôp đã bành trướng đến những quy mô không thể tưởng tượng được. Bút của bọn ký lục kêu kèn kẹt, thuốc lá hít hết mớ này đến mớ khác, và những đầu óc tinh vi cặm cụi làm việc. Như những nghệ sĩ, bọn thư lại thưởng thức tất cả những câu văn hay ho, những đoạn văn tràng giang đại hải, cứ kế tiếp nhau tuôn ra, bôi đen không biết bao nhiêu là giấy. Viên cố vấn pháp luật nọ, như một đám mây vô hình, điều khiển toàn thể bộ máy; hắn làm cho mọi người rối tinh lên trước khi người ta kịp nhận ra phương hướng. Cảnh hỗn loạn tăng lên. Xamôxvixtôp vượt hẳn lên quá sức mình, bằng một hành động táo tợn chưa từng thấy. Biết được chỗ giam giữ người đàn bà bị bắt, hắn đến tận nơi, đi thẳng vào, vẻ oai vệ đến nỗi lính canh phải đứng nghiêm, bồng súng chào.

- Mày ở đây lâu chưa?

- Thưa Quan lớn, từ sáng ạ.

- Sắp đổi gác chưa?

- Thưa Quan lớn, còn ba tiếng nữa ạ.

- Ta có việc cần đến mày. Ta sẽ bảo viên sĩ quan cho người khác đến thay.

- Thưa Quan lớn, xin tuân lệnh ạ.

Về đến nhà, không để chậm một phút, và cốt không cho ai dính líu vào việc này, hắn cải trang thành một viên sen đầm, đeo vào cả ria mép và râu má xồm xoàm; đến quỷ Xa tăng cũng không nhận ra được nữa. Xong, hắn cứ thế đến nhà trọ của Tsitsikôp, bắt ngay lấy người đàn bà đầu tiên gặp ở đấy và giao cho hai gã viên chức, cũng cỡ như hắn giữ; sau đó hắn cầm súng đến gặp tên lính canh, theo đúng quy chế.

- Đi đi, quan chỉ huy sai tôi đến gác thay anh.

Hắn thay chân tên lính gác. Chỉ cần có thế. Trong lúc đó, người ta đánh tráo mụ đàn bà bị giam với mụ mới bị bắt, chẳng hay biết tí gì về vụ này cả. Mụ kia được đem giấu kín đến nỗi về sau chẳng ai biết mụ ta ra sao.

Trong khi Xamôxvixtôp trổ tài trong bộ áo sen đầm, thì vị cố vấn pháp luật làm những việc thần diệu bên phía văn quan. Hắn đánh tiếng cho quan tỉnh trưởng biết rằng quan chưởng lý có gửi báo cáo tố giác ông ta lên Pêterbua; hắn lại làm như vậy với một viên chức của sở cảnh sát, lần này thì kẻ tố giác lại là một viên chức khác đang bí mật cư trú trong thành phố. Người này lại được báo tin là có một viên chức khác bí mật hơn, đang do thám mình. Hắn làm cho họ cuống cuồng lên, đến nỗi ai nấy đều phải tìm đến hắn, nhờ làm quân sư. Tình trạng hỗn loạn đến cực điểm: những kẻ tố giác thi nhau xuất hiện, người ta phát giác ra những việc chưa từng ai hay biết; thậm chí cả những việc không hề có nữa. Chẳng còn có phương tiện nào là không được dùng đến: nào người này là con hoang, nào người kia có tình nhân, nào bà nọ có chồng mà theo ve vãn một nhân vật nào đấy. Thôi thì những chuyện nhơ nhuốc, những việc phát giác này nọ được pha trộn vào vụ Tsitsikôp và những linh hồn chết một cách khéo đến nỗi rút cục không ai tài nào biết được việc nào là việc quái gở nhất; việc nào cũng đều có vẻ quan trọng như nhau cả.

Cuối cùng, khi các giấy tờ đến tay quan tổng trấn, thì vị công tước đáng thương ấy không còn biết đằng nào mà lần nữa. Một quan chức khá thông minh và thạo việc được giao cho làm bản tóm tắt, đã suýt phát điên lên vì việc này. Bấy giờ công tước lại đang bận tâm về một mớ việc khác, việc nào cũng khó chịu chẳng kém việc nào. Nạn đói đang hoành hành trong một phần tỉnh này. Những phái viên được cử đi phát lúa mì không làm đúng luật lệ. Ở một vùng khác, những dân ly giáo {Phong trào ly giáo (raxkol) là một phong trào tôn giáo xã hội ở Nga, chống lại giáo hội chính thống. Chủ trương bảo tồn những quy tắc giáo hội cũ} rục rịch nổi dậy. Có người phao tin trong đám dân này là Quỷ sứ Phản Cơ đốc {Theo Kinh Thánh. Phản Cơ đốc là kẻ thù của Chúa Cơ đốc, xuất hiện trên trần gian trước ngày tận thế} đã hiện ra và đến người chết hắn cũng không để yên, vì hắn đi mua bán những linh hồn chết. Họ vừa sám hối về những tội lỗi đã phạm, lại vừa phạm thêm những tội lỗi mới, và lấy cớ là lùng bắt Quỷ sứ Phản Cơ đốc, họ tàn sát dân lành. Ở một nơi khác, nông dân nổi lên chống trang chủ và chống các quận trưởng cảnh sát. Có những quân du đãng phao tin rằng đã đến lúc dân mujik biến thành trang chủ và mặc áo frac, còn trang chủ thì mặc áo caftan và thành ra mujik; thế là cả một tổng, quên mất rằng nếu thật vậy thì trang chủ và cảnh sát trưởng sẽ nhiều vô số, bèn không chịu nộp thuế. Đã phải dùng đến những biện pháp quyết liệt.

Vị công tước đáng thương rất bực tức. Vừa lúc ấy, có người báo Murazôp đến.

- Mời ông ta vào! Công tước nói.

Ông già bước vào.

- Nào, ông đã thấy cái thằng Tsitsikôp của ông chưa! Ông bênh hắn, ông bảo vệ hắn; thế là bây giờ hắn mắc vào một vụ mà đến một tên trộm cướp hạng bét cũng không dám làm liều.

- Thưa Đại nhân, xin phép cho tôi nói rằng tôi không được hiểu vụ này cho lắm.

- Một vụ làm giả chúc thư. Mà trong hoàn cảnh như thế nào!... Đúng ra hắn phải phạt roi ở nơi công cộng.

- Thưa Đại nhân, tôi không dám có ý bênh Tsitsikôp; nhưng dù sao cũng chưa có đủ bằng chứng; cuộc điều tra chưa kết thúc.

- Một bằng chứng đây: con mụ đàn bà giả chữ ký của người chết đã bị bắt. Tôi muốn hỏi cung nó ngay trước mặt ông, để ông rõ.

Công tước giật chuông và ra lệnh đưa mụ đàn bà đến. Murazôp lặng thinh.

- Một vụ hết sức bỉ ổi! Và xấu hổ cho họ là những quan chức cao cấp nhất trong thành phố đều liên lụy, cả viên tỉnh trưởng cũng thế. Lẽ ra ông ta đừng nhập bọn với quân trộm cắp, bịp bợm mới phải chứ! Công tước nói, rất bực tức.

- Quan tỉnh trưởng được dự phần gia tài, ông ta có quyền đòi hỏi; còn như những người khác mà xúm xít vào cái gia tài này, thì cũng là thường tình thôi. Thưa Đại nhân, một người giàu có chết đi mà di chúc để lại những điều không công bằng và phải lẽ, thì những kẻ hám lợi khắp nơi kéo đến dây máu ăn phần: bản tính người ta vốn dĩ như vậy.

- Nhưng tại sao lại làm những việc đê tiện đến thế?… Quân vô lại! Công tước tức giận quát lên. Tôi không có được lấy một viên chức tốt. Toàn là những quân khốn nạn!

- Thưa Đại nhân, chúng ta ai là người không có tội? Tất cả quan lại trong tỉnh đều là những người có tài, nhiều người rất có năng lực; nhưng con người ta dễ sa ngã lắm.

- Ông Afanaxi Vaxiliêvits ạ, ông là người lương thiện độc nhất mà tôi được biết. Sao ông lại khăng khăng bênh bọn vô lại như vậy?

- Thưa Đại nhân - Murazôp nói - dù người mà ngài gọi là vô lại là ai chăng nữa, thì đó vẫn là một con người. Làm sao lại có thể không bênh vực một sinh linh mà ta biết là một nửa lỗi lầm mà nó phạm phải, là chỉ vì thô lỗ và dốt nát. Chúng ta, lúc nào mà chẳng phạm những điều bất công và luôn luôn cho kẻ khác khốn đốn, dù là không có ác ý. Chính Đại nhân cũng đã làm một việc rất bất công.

- Thế nào! Công tước kêu lên, kinh ngạc vì thấy câu chuyện xoay sang một hướng bất ngờ như vậy.

Murazôp ngừng một lát như để suy nghĩ, rồi nói:

- Cứ thử lấy vụ Derpennikôp chẳng hạn.

- Ông Afanaxi Vaxiliêvits! Một tội ác vi phạm những luật lệ cơ bản của Nhà nước cũng chẳng khác gì tội phản quốc!

- Tôi không có ý muốn thanh minh cho anh ta. Nhưng thử hỏi một thanh niên không chút kinh nghiệm ở đời, bị những kẻ khác cám dỗ và lôi cuốn như vậy, mà cũng kết án nghiêm khắc như một kẻ cầm đầu; thử hỏi như thế có công bằng không? Vì Derpennikôp phải chịu chung số phận với Vôrônôp; nhưng tội của họ có giống nhau đâu!

- Vì Chúa…, công tước nói, vẻ xúc động rõ rệt. Ông có biết gì về việc này, ông cho tôi rõ. Vừa rồi tôi có viết thư lên Pêterbua xin giảm hình cho hắn.

- Thưa Đại nhân, không phải đâu. Tôi nói đây không phải vì tôi có biết những điều mà ngài không biết. Tuy vậy, có một việc có thể làm cho anh ta được giảm tội; nhưng chính anh ta cũng không muốn nói ra, sợ có hại cho một người khác. Tôi chỉ dám nghĩ rằng có lẽ dạo ấy, ngài hành động quá vội. Xin Đại nhân bỏ quá cho; tôi cứ theo cái trí khôn kém cỏi của tôi mà phán đoán; và ngài đã nhiều lần ra lệnh cho tôi phải nói thật. Tôi đã từng có nhiều thủ hạ, người thuộc đủ các hạng, tốt có, xấu có. Bao giờ cũng phải xét kỹ dĩ vãng của một con người; vì nếu không xét mọi việc một cách tỉnh táo, chưa chi đã quát mắng ngay; thì chỉ làm cho nó hoảng sợ mà thôi, không thu được những lời thú nhận thành thật. Nhưng nếu hỏi nó với sự thông cảm, như một người anh, thì chính nó lại thú nhận hết và không xin khoan hồng; nó sẽ không thù oán ai hết, vì nó thấy rõ là không phải con người, mà chính là pháp luật trừng trị nó.

Công tước suy nghĩ. Vừa lúc ấy, một viên chức trẻ tuổi bước vào và kính cẩn dừng lại, tay cầm cái cặp. Vẻ bận rộn và chăm chỉ lộ rõ trên gương mặt trẻ măng của anh ta. Có thể thấy rõ là không phải vô cớ mà người ta dùng người này vào những công cán đặc biệt. Anh ta thuộc vào cái số hiếm hoi những người vẫn nghiên cứu hồ sơ con amore. Không hề biết ham danh, tham của, không hề muốn bắt chước ai; anh ta làm việc chỉ vì tin chắc rằng mình phải ở nơi này, chứ không phải ở đâu khác; rằng mình sinh ra là để làm việc này. Theo dõi một vụ án phức tạp, phân tích, tìm ra manh mối; công việc chuyên môn của anh ta là như vậy. Miễn là vụ án rốt cục được đưa ra ánh sáng, những nguyên nhân bí ẩn của nó được phát hiện, miễn là anh thấy mình có thể trình bày nó ra ngắn gọn mà rõ ràng để cho mọi người có thể hiểu được; là công lao khó nhọc của anh ta, những cố gắng của anh ta, những đêm thức suốt sáng của anh ta được đền bù xứng đáng. Có thể nói rằng nỗi vui mừng của một cậu học trò sau khi giải thích được một câu văn khó và tìm ra được ý nghĩa thật của tư tưởng một đại văn hào, cũng có kèm niềm vui của anh ta, khi lần ra được manh mối một vụ án phức tạp. Ngược lại… {Ở đây bản thảo lại mất. Đoạn dưới bắt đầu ở một trang khác; phần đầu câu bị mất}

… -… lúa mì đến nơi đang có nạn đói; tôi biết rõ vùng này hơn các viên chức: tôi sẽ tự mình điều tra xem người ta cần cái gì. Và nếu Đại nhân cho phép, tôi sẽ nói chuyện với dân ly giáo. Họ sẵn sàng nói chuyện với những người bình thường. Biết đâu tôi chẳng có thể góp phần dàn xếp được việc này. Các viên chức của ngài không làm được đâu; họ mà bắt tay vào thì sẽ phải giấy đi tờ lại, và họ sẽ ngập đầu trong đống giấy tờ đến nỗi chẳng còn thấy được việc gì nữa. Tôi sẽ không xin ngài tiền, vì trong khi người ta đang chết đói mà mình lại nghĩ đến tư lợi thì thật là xấu hổ. Tôi có ít lúa mì dự trữ, tôi lại đã cho lấy thêm ở Xibia về để dùng mùa hè sang năm.

- Chỉ có Chúa mới có thể đền công được cho ông vì một việc như thế, Afanaxi Vaxiliêvits ạ. Tôi chẳng biết nói gì với ông, vì ông cũng hiểu rằng trong những trường hợp như thế này thì lời nói hoàn toàn bất lực. Nhưng ông cho phép tôi nói một câu về lời thỉnh cầu của ông. Liệu tôi có quyền dìm việc này đi không, và nếu tôi dung thứ cho bọn vô lại này thì về phía tôi có công bằng, có trung thực không?

- Thưa Đại nhân, thực tình không thể nói như thế được; huống chi trong bọn họ có nhiều người tốt. Có những tình thế rất khó xử; đôi khi có kẻ tưởng chừng như có tội mười mươi, nhưng xét kỹ lại thấy là không phải.

- Nhưng họ sẽ nói gì nếu tôi nhắm mắt làm ngơ? Vì về sau, trong bọn họ sẽ có những kẻ cất đầu lên và thậm chí còn nói rằng tôi sợ họ. Những kẻ đó sẽ là những kẻ đầu tiên khinh nhờn…

- Thưa Đại nhân, tôi xin phép được trình bày thiển ý; xin Đại nhân hãy triệu tất cả lại, nói cho họ rõ là ngài đã biết hết mọi việc và trình bày cho họ thấy tình cảnh của ngài như ngài vừa cho tôi được biết, rồi hỏi xem ý họ thế nào: giá ở địa vị ngài, thì mỗi người trong bọn họ sẽ xử trí ra sao?

- Ông cho rằng họ có thể nghe theo một cảm xúc cao thượng hơn là âm mưu, vơ vét cho đầy túi hay sao? Tôi dám chắc là họ sẽ nhạo tôi.

- Thưa Đại nhân, tôi thì không nghĩ như vậy. Con người, dù là hư hỏng, vẫn có ý thức về công lý. Ít ra thì người Nga là như vậy, vì đối với người Do Thái…! Không ạ, Đại nhân chẳng có gì phải giấu giếm hết. Xin ngài cứ nói lại đúng như đã nói với tôi. Họ vu cho ngài là hám danh, là kiêu ngạo, là quá tự phụ, không thèm nghe phải trái gì cả; ngài hãy cho họ thấy rõ sự thực. Chính nghĩa ở phía ngài. Ngài hãy nói với họ như thể ngài đang xưng tội, không phải trước mặt họ, mà trước mặt Chúa.

- Ông Afanaxi Vaxiliêvits ạ, công tước nói, vẻ suy nghĩ. Tôi sẽ nghĩ kỹ việc này; dù sao cũng xin cảm ơn ông đã khuyên tôi.

- Còn Tsitsikôp, thì xin Đại nhân cho thả ra.

- Ông hãy bảo cái thằng Tsitsikôp ấy là phải cuốn xéo tức khắc khỏi chốn này và cút đi đâu càng xa càng tốt. Ông mà không can thiệp thì tôi không đời nào đi tha cho nó.

Murazôp nghiêng mình lĩnh ý và lập tức vào gặp Tsitsikôp. Ông ta thấy y đang vui vẻ và ung dung ngồi trước một bữa ăn tuyệt ngon đặt ở một khách sạn khá sang và được người bưng vào trong một bộ cặp lồng sứ. Trao đổi qua mấy câu, ông già nhận thấy rằng Tsitsikôp đã nói chuyện với một trong những viên chức láu lỉnh nọ. Ông ta lại còn thấy rõ được cả sự can thiệp bí mật của viên cố vấn pháp luật quỷ quyệt.

- Ông Paven Ivannôvits ạ, Murazôp nói, tôi đem lại tự do cho ông đây; nhưng với điều kiện là ông phải rời khỏi thành phố này ngay lập tức khắc. Ông hãy thu xếp hành lý đi, và chúc ông thượng lộ bình an! Ông đừng chậm trễ một phút nào, nếu không sẽ hỏng hết. Tôi biết ở đây có một người đang xúi bẩy ông; nhưng xin nói riêng để ông biết rằng người ta sắp khám phá ra một việc mà khi đã vỡ lở thì không gì có thể cứu vãn được nữa; dĩ nhiên là hắn rất vui lòng kéo được những người khác cùng chết theo hắn; hắn sẽ có phần của hắn… Lúc nãy, khi tôi chia tay với ông thì ông có những ý định khá tốt, tốt hơn là bây giờ. Tôi muốn nói chuyện nghiêm chỉnh với ông. Thật ra, chẳng quý báu gì những của cải mà người ta xâu xé nhau, cướp giật nhau, làm như là có thể bảo đảm được hạnh phúc trên thế gian này mà không cần nghĩ đến kiếp sau. Hãy tin lời tôi, Paven Ivannôvits ạ; khi mà người ta chưa gạt sang một bên tất cả những gì đang làm cho người ta tàn sát nhau trên trái đất, khi mà người ta chưa quan tâm đến hạnh phúc tinh thần thì hạnh phúc vật chất chưa thể nào có được. Rồi sẽ đến những thời kỳ đói kém và nghèo khổ trong toàn dân, cũng như trong từng… Đó là điều hiển nhiên. Ông muốn nói gì thì nói, chứ thể xác vẫn lệ thuộc vào linh hồn. Đừng nghĩ đến những linh hồn chết nữa, hãy nghĩ đến cái linh hồn đang sống của ông; và cầu Chúa phù hộ cho ông trên con đường mới! Ngày mai tôi cũng lên đường. Ông hãy thu xếp nhanh lên! Nếu không, tôi đi rồi thì ông cứ liệu lấy!

Dứt lời, ông già lui ra. Tsitsikôp ngẫm nghĩ. Y lại thấy cuộc đời là quan trọng. “Murazôp nói phải - y tự nhủ - đã đến lúc phải bước vào một con đường khác!”. Một lát sau y ra khỏi tù. Một người lính gác bưng cái tráp cho y… Xêlifan và Pêtruska mừng cuống khi thấy ông chủ được tha.

- Nào thôi, hai cậu - Tsitsikôp bảo họ, giọng khoan dung - thu xếp đồ đạc mà đi thôi.

- Xin tuân lệnh, Paven Ivannôvits ạ, Xêlifan nói. Chắc có thể đi xe trượt được rồi đấy: tuyết xuống đã khá nhiều rồi. Chắc chắn rời khỏi thành phố lúc này là vừa. Con chán ngấy đi rồi, không còn nhìn được nữa.

- Mày đến lão thợ đóng xe bảo đóng giá trượt tuyết vào xe đi, Tsitsikôp nói.

Chính y cũng ra phố, nhưng không muốn đi chào ai cả. Sau khi xảy ra một chuyện như thế, thì chào hỏi cũng phiền; huống hồ trong tỉnh đang đồn đại những tin rất đáng buồn cho Tsitsikôp. Y tránh mặt mọi người và chỉ lén vào cửa hiệu của lão nhà buôn đã bán cho y tấm dạ trứ danh màu huyết dụ lửa khói. Y lại hỏi mua bốn arsin và đem đến hiệu thợ may cũ. Với tiền công gấp đôi, gã chủ hiệu may bằng lòng nỗ lực gấp đôi và bắt thợ thắp nến làm suốt đêm; kim chỉ, kéo, bàn là, mọi thứ đều nhộn nhịp và sáng hôm sau thì chiếc frac may xong, dù có hơi muộn, vì ngựa đã thắng xong rồi. Tuy vậy, Tsitsikôp cũng đưa ra mặc thử. Bộ áo may vừa sít, như bộ trước. Nhưng hỡi ôi, y nhận thấy một vệt trắng bóng trên đầu và buồn bã thốt lên rằng: “Tại sao ta lại buông mình vào một cơn tuyệt vọng gớm ghê đến như vậy? Ta lại càng không nên bứt tóc đi như thế!”.

Trả công thợ may xong, y lên đường với một tâm trạng lạ lùng. Đây không còn là Tsitsikôp trước kia nữa; đây dường như chỉ còn là cái đống hoang tàn của y mà thôi. Có thể ví tâm trạng y với một ngôi nhà đã tháo rời ra, vật liệu dành để xây một ngôi nhà khác chưa khởi công; vì kiến trúc sư chưa gửi quy hoạch đến và thợ chẳng biết làm gì.

Trước đấy một giờ, ông già Murazôp vừa lên đường với Patapưts, đi một chiếc xe nhỏ bằng nan miên liễu; và sau đấy một giờ, công tước cho báo với tất cả các quan lại rằng ngài sắp đi Pêterbua, muốn gặp họ trước khi lên đường.

Tụ tập trong gian phòng lớn, cả tập đoàn quan lại - từ tỉnh trưởng cho đến tư vấn thực thụ {Hàm quan văn bậc thứ chín tương đương với đại úy bên quan võ}, trưởng phòng, tư vấn, trợ tá; đủ các thứ Kixlôiêđôp, Kraxnônôxôp, Xamôxvixtôp; từ kẻ ăn hối lộ cho chí người thanh liêm; kẻ mà lương tâm đã ít nhiều hoen ố cũng như người không có gì phải tự chê trách - đều đứng đợi quan tổng trấn, trong lòng không khỏi lo lắng. Công tước bước ra, vẻ mặt kín như bưng, khóe mắt cũng rắn rỏi như dáng đi. Mọi người cúi chào. Nhiều người rạp xuống gần sáp đất.

Khẽ nghiêng đầu đáp lễ, rồi công tước bắt đầu nói:

- Vì phải lên Pêterbua, tôi thấy cần gặp tất cả các ông và hơn nữa cần nói rõ để mọi người biết một phần lý do chuyến đi này. Ở đây vừa xảy ra một việc hết sức nhơ nhuốc. Tôi chắc trong các ông, nhiều người biết là việc gì. Việc này lại lôi ra ánh sáng một số việc khác không kém phần ô nhục, liên can đến những người mà trước đây tôi vẫn tưởng là lương thiện. Tôi lại còn biết rằng người ta có ý định làm rối tung lên, để cho nhà chức trách không thể tiến hành điều tra bằng những con đường hợp pháp. Tôi cũng biết thủ phạm chính, và biết hắn nấp sau lưng ai… tuy hắn đã che giấu sự tham gia của hắn một cách khá khéo léo. Sự thật là tôi không có ý định dùng thủ tục thông thường; mà phải dùng đến cách xét xử nhanh chóng của tòa án binh, như trong thời chiến; tôi hy vọng rằng Hoàng thượng sẽ cho tôi được quyền làm như vậy, sau khi tôi đã trình bày để Ngài rõ hết vụ này. Khi mà tòa án dân sự đã bất lực, khi mà các hồ sơ đã bị tiêu hủy cùng một lúc với tủ đựng, khi mà người ta cố dùng một loạt ngụy chứng và tố giác dối trá gửi đến tới tấp để làm mờ ám thêm một vụ vốn đã mờ ám; thì tôi cho rằng tòa án binh là phương tiện duy nhất để chấm dứt tình trạng này. Tôi mong được biết ý kiến mọi người về việc đó.

Công tước ngừng lại như để chờ một câu trả lời. Mọi người đều đứng yên, mắt nhìn xuống đất. Nhiều người mặt tái mét.

- Tôi còn biết một vụ nữa, tuy những kẻ đương sự đinh ninh rằng không ai biết đến cả. Vụ này sẽ không tiến hành thẩm vấn theo thủ tục thông thường, vì chính tôi sẽ đứng ra làm nguyên cáo và sẽ trình bày những bằng chứng cần thiết.

Trong đám viên chức có người giật mình, những kẻ nhát gan nhất đâm ra luống cuống.

- Lẽ dĩ nhiên những kẻ tội nặng nhất sẽ bị lột phẩm hàm, tịch thu tài sản; những kẻ khác thì cách chức. Tất nhiên sẽ có những kẻ vô tội bị liên lụy. Nhưng làm thế nào được? Vụ này quá nhơ nhuốc và đòi hỏi công lý xét xử. Tuy tôi biết rằng như thế cũng chẳng răn được những kẻ khác, - vì những kẻ sẽ thay bọn họ, cũng như những kẻ xưa nay vẫn lương thiện, rồi sẽ thành bất lương, sẽ lừa đảo và sẽ bị mua chuộc; tuy vẫn được người trên tin cậy - nhưng dù sao tôi cũng phải hành động nghiêm khắc,vì công lý đòi phải xét xử. Tôi biết người ta sẽ trách tôi là tàn nhẫn; nhưng mọi người đều chỉ nên coi tôi là công cụ vô tri vô giác của công lý, là chiếc rìu phải bổ xuống một cái đầu.

Công tước rất điềm tĩnh. Gương mặt ngài không lộ vẻ gì tức giận hay bất bình.

- Bây giờ, chính người đang nắm trong tay vận mệnh của nhiều người trong số các ông, người mà chưa có một lời van xin nào lay chuyển được; chính người ấy đang van xin tất cả các ông nói lên. Mọi việc sẽ được quên đi, sẽ được xóa bỏ; tôi sẽ đứng ra bênh vực các ông, nếu các ông đáp lại lời cầu xin của tôi. Lời cầu xin đó như sau… Tôi biết rằng không có gì, dù là sợ hãi, dù là hình phạt, có thể tiêu diệt được sự bất công trên trái đất: gốc rễ nó đã quá sâu rồi. Các hành vi bất lương là ăn hối lộ đã thành ra một việc tất yếu và một nhu cầu, ngay cả đối với những người không phải sinh ra để làm việc ấy. Tôi biết rằng đối với nhiều người, chống lại dòng nước là một việc hầu như không thể làm được. Nhưng giờ đây, cũng như vào giờ phút quyết liệt và thiêng liêng mà vấn đề đặt ra là phải cứu lấy tổ quốc, giờ phút mà mỗi người dân đều chịu đựng và hy sinh tất cả; tôi phải kêu gọi, dù chỉ là kêu gọi những kẻ hãy còn quả tim của một người Nga trong lồng ngực và ít nhiều hiểu được mấy chữ tâm hồn cao thượng.

Việc gì phải tự hỏi trong chúng ta ai là kẻ nặng tội nhất? Có lẽ tôi là kẻ nặng tội hơn ai hết; có lẽ lúc mới nhận thức tôi đã đối xử quá nghiêm khắc với các ông, có lẽ tôi đã vì hoài nghi quá mức mà hắt hủi những người đã thành tâm muốn giúp tôi; tuy về phía tôi, tôi cũng có thể làm… Nếu họ thật lòng yêu công lý và thiết tha với lợi ích của tổ quốc thì lẽ ra họ không nên phật lòng vì những thái độ hách dịch của tôi, lẽ ra họ phải ghìm bớt lòng tham và hy sinh tự ái của mình. Và như thế thì chẳng lẽ tôi lại không hiểu lòng trung thực của họ, lòng thiết tha với điều thiện của họ; chẳng lẽ rốt cục tôi lại không nhận được của họ những lời khuyên thông minh và bổ ích. Tuy vậy, kẻ thuộc hạ phải chiều theo tính khí của trưởng quan thì đúng hơn là trưởng quan chiều theo tính khí của kẻ thuộc hạ. Dù sao, thì như vậy cũng hợp lẽ thường hơn; vì những kẻ thuộc hạ chỉ có một trưởng quan, còn trưởng quan thì có hàng trăm thuộc hạ. Nhưng hãy gác sang một bên mức tội nặng nhẹ của mỗi người. Sự thật là chúng ta phải cứu lấy đất nước. Tổ quốc ta đang suy vong, không phải vì hậu quả cuộc xâm lược của hai mươi dân tộc {Người Nga gọi cuộc xâm lược của hoàng đế Pháp Napôlêông năm 1812 là “xâm lược của hai mươi dân tộc”, vì quân của Napôlêông gồm người nhiều nước chư hầu, nói nhiều thứ tiếng khác nhau ở châu Âu} mà chính là vì lỗi của chúng ta; bên cạnh chính phủ hợp pháp, đã hình thành một chính phủ khác, thế lực còn hơn cả pháp luật. Cái gì cũng bị đánh thuế; thậm chí giá ngạch còn được loan báo cho mọi người biết nữa. Và không một trưởng quan nào, dù có khôn ngoan hơn tất cả các nhà lập pháp và các nhà cầm quyền, là có đủ sức tiêu diệt được tệ nạn đó, hay chỉ hạn chế những tác hại của bọn quan lại xấu bằng cách đặt họ dưới quyền kiểm soát của các bạn đồng liêu. Những cách đó sẽ vô hiệu, chừng nào mà mỗi người chúng ta chưa cảm thấy rằng cũng như trong thời nổi dậy của các dân tộc, mình đã cầm vũ khí chống lại… thì bây giờ mình cũng phải tranh đấu với sự bất công như thế. Chính là với tư cách người Nga, cùng một huyết thống với các ông mà tôi nói như vậy. Tôi nói với những người hiểu được thế nào là những tư tưởng cao quý. Tôi xin các ông nhớ lại cái nhiệm vụ mà con người vẫn gặp trên mỗi bước đi của mình. Tôi xin các ông xét kỹ hơn nữa bổn phận của mình, và những nhiệm vụ mà chức vị của các ông trên thế gian buộc các ông phải làm tròn; vì về những nhiệm vụ đó, tất cả chúng ta đều có một khái niệm rất mơ hồ và chúng ta… {Đến đây bản thảo mất hết}.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.