Đó là một chàng thiếu niên mặt mày tái nhợt. Nếu chỉ nhìn thân hình thôi, cậu ta trông hệt như những đứa con trai mười lăm, mười sáu tuổi khác trên đời, mang lại một cảm giác phong phanh khi bước đi, nhưng cũng không hề ốm yếu.
Cậu ta mặc mã quái trắng tinh, quần yếm sắc nâu, độ dài vừa đủ, vớ ôm hết bắp chân, nôm cực kỳ gọn gàng. Cậu ta vốn nên có bộ dáng thoải mái và hăng hái của một chàng trai trẻ.
Nhưng bả vai của cậu ta lại rủ xuống, lưng hơi cong, cả người đều co vào trong khi đứng đó, không hỏi hiện lên vẻ trầm lặng và già nua.
Lúc cậu ta nhìn người khác bằng nét mặt vô cảm, hai mắt hơi mở to ra, giữa mày lại có một vết nhăn, cơ thể cũng tỏa ra một khí chất khó ở, ngột ngạt và không hề thú vị.
Cứ cảm thấy như cậu ta đang nhìn bạn từ một nơi nào đó, nhưng bạn lại không biết cậu ta đang suy tính điều gì.
Trông cậu ta chẳng giống thiếu niên chút nào hết.
“Thì ra lại ở trong gương!” Tận mắt nhìn thấy bóng dáng của mình biến thành như vậy, Hạ Tiều sợ tới mức lùi lại hai bước liên tiếp, “Sau này tôi phải nhìn mình trong gương bằng cách nào đây?”
Cậu nhớ rõ lời Tạ Vấn từng nói, có lẽ chủ lồng đang ở bất cứ nơi nào mà người có thể xuất hiện. Vì thế cậu đã lục tung những nơi có thể ẩn núp, nhưng lại cố tình quên mất mặt gương.
Đúng vậy, trong gương cũng có người nữa. Phán Quan có thể bám gương để vào lồng, đương nhiên ngược lại là chủ lồng cũng có thể bám gương và lén nhìn họ.
Cậu và Chu Húc co thành một cục, nói trong sự sợ hãi: “Làm mình sợ muốn chết, bất ngờ gì mà lắm thế.”
Văn Thời lại nhíu mày, lạnh lùng bảo: “Bất ngờ chỗ nào? Một kẻ hèn nhát làm gì cũng tránh né, bởi thế nên chỉ có thể trở thành cái bóng của người khác thôi.”
Lời này như xát muối vào vết thương của kẻ trong gương.
Cả đám chỉ nghe một cơn gió ‘vù’ lên, lướt qua mắt mọi người. Văn Thời khẽ mở mắt ra giữa làn gió, tên thiếu niên đó đã đứng ngay trước mặt anh.
“Anh nói ai?” Chàng trai hỏi.
Khuôn mặt của cậu ta rất quỷ dị, lúc nói chuyện, tiếng và môi không khớp với nhau, như thể đang khoác một lớp da trên người. Cậu ta nói nghe như đang ngậm một đống cát trong miệng, vừa ồm ồm vừa nghẹn họng.
Dù cũng đang trong thời kỳ vỡ giọng, nhưng giọng nói của Chu Húc vẫn dễ nghe hơn so với cậu ta.
Văn Thời không nhìn người nọ, làm như đối phương hoàn toàn không có chỗ trong mắt mình.
“Tôi đang nói tên súc vật khi không lại đi hại người thôi, bộ người đó là cậu à?” Giờ tâm trạng của anh không tốt lắm, lời nói ra mà như sương phong kiếm vũ, còn mang theo cả những miếng băng nhỏ vụn nữa.
Chàng trai nhìn anh chăm chú, tròng mắt co thành một điểm nhỏ, song vẫn không nói ra lời nào. Nếu phủ nhận, cậu ta sẽ bị gắn mác kẻ nhu nhược, nhưng nếu tán thành thì cái danh tên súc vật đó sẽ được trao cho cậu ta.
Vấn đề này khiến cậu ta vừa khó xử lại vừa bực bội, vì thế cậu ta kéo mặt mình xuống…
Đúng là kéo thật, cả lớp da mặt đều bị gỡ tét, hù bọn Tôn Tư Kỳ hét điên lên. Mà chàng trai này có vẻ rất là hưởng thụ trò dọa người này, hoặc nói cách khác là hưởng thụ cảm giác khống chế người khác, cuối cùng cậu ta cũng mở miệng nói: “Đây là chỗ của tôi.”
Sau đó, cậu ta đắp lại lớp da lên mặt, nói chuyện với một giọng nhấn mạnh đầy nặng nề và cố chấp: “Tôi cho mấy người ở đây thì mấy người mới được phép ở đây. Tôi kêu mấy người đi, mấy người phải đi ngay lập tức. Đây là chỗ của tôi.”
“Cậu lại trốn trong gương ở chính địa bàn của mình à?” Hạ Tiều đang kinh ngạc một cách vô cùng nghiêm túc, nhưng câu này nghe hệt như một lời giễu cợt.
Chàng trai đột ngột xoay đầu nhìn về phía cậu, làm Chu Húc sợ tới mức che kín miệng của Hạ Tiều lại, nói khẽ: “Bà mẹ nó anh đừng nói nữa!”
Ai dè Hạ Tiều câm miệng, nhưng anh cậu thì không.
“Ngay cả bản thân là ai cũng không dám nói.” Sự mỉa mai trong lời nói của Văn Thời đang sôi trào, “Thế mà là chỗ của cậu gì chứ.”
Một cảm xúc chết lặng quái đản loé lên trên khuôn mặt của chàng trai, như thể cậu ta đang thờ ơ trước sự kích thích này. Nhưng dù sao tuổi vẫn còn nhỏ, nếu thực sự bình tĩnh được như thế, cậu ta đã không làm ra những chuyện kia.
“Đây là chỗ của tôi.” Cậu ta lại khàn giọng nhấn mạnh thêm, nhưng giọng điệu đã có mùi tức tối.
“Đây là Thẩm gia.” Văn Thời lại nói, “Cậu mang họ Thẩm à?”
“Tôi không mang họ Thẩm, Thẩm gia tiêu tan rồi.” Cuối cùng chàng trai cũng mất kiên nhẫn mà ngắt lời anh, “Thẩm gia đã đi tông, vụ hỏa hoạn đó vù một phát đốt cháy hết mọi thứ! Anh còn muốn tôi nói thêm bao nhiêu lần nữa? Đây là chỗ của tôi!”
Khi câu cuối vừa được thốt ra, cậu ta cũng đã bị chọc đến nỗi cáu lên, hoàn toàn trái ngược với dáng vẻ nặng nề trước đó, chợt biến thành một bộ dạng khác hệt như chảo dầu trông êm ả vừa bị tạt một xô nước.
“Của tôi.”
Hai chữ này không hề phát ra từ trong miệng của chàng trai, mà lại đang vang vọng trong cả căn biệt thự.
Trong nháy mắt, bóng dáng lờ mờ này cuối cùng cũng rơi xuống đất, lòng bàn chân mọc rễ rồi dính chặt với cả cái lồng. Có lẽ để chứng minh cho hai chữ ‘của tôi’ này, cậu ta không hề che giấu nữa, quang minh chính đại đứng trong ngôi nhà này lần đầu tiên.
Văn Thời chỉ chờ mỗi khoảnh khắc này thôi.
Anh gật đầu, nhưng vẫn không nói bất cứ điều gì.
Vì thế họ chỉ có thể nghe thấy tiếng vang lại từ giọng nói cộc cằn của chàng trai trong cả biệt thự. Chúng quanh quẩn tại mỗi căn phòng và từng hành lang dài, u ám nhưng lại hết sức rõ ràng.
Khi chút dư âm cuối cùng biến mất, trong hành lang dài lại im bặt.
Ngay lúc chàng trai vừa thấy đắc ý, giọng nói trong vắt của một bé gái lại vang lên: “Là A Tuấn hả? Chị nghe thấy tiếng của A Tuấn.”
Giọng nói này nghe có phần đều đều, làm người ta sởn tóc gáy dưới hoàn cảnh này. Nhưng ai cũng có thể nhận ra đó là giọng nói của Thẩm Mạn Di.
Vẻ sợ hãi chợt hiện lên trên mặt chàng trai tên A Tuấn này.
“A Tuấn.” Thẩm Mạn Di kêu thêm tiếng nữa.
“A Tuấn?”
“A Tuấn ơi, em đâu rồi?”
Tiếng bé vọng tới dọc theo hành lang, ngân vang lặp lại liên tục, như là đang chạy vội tới đây, ngày một gần hơn.
“Vì sao em lại không cười thế? Tụi mình cùng chơi trò gì đi! Chị muốn chơi với em.”
“Chị tìm em lâu lắm rồi đó.”
“Cuối cùng em cũng chịu tới chơi với chị rồi hả?”
Những câu này đan xen vào nhau, còn kèm theo cả tiếng cười khanh khách, chợt gần rồi chợt xa, vờn quanh mọi người. Họ vô thức đưa mắt nhìn sang đầu khác của hành lang.
Chỉ thấy Thẩm Mạn Di nhỏ con đang đứng bên trái Tạ Vấn, còn bên phải hắn lại là Lý tiên sinh. Cả ba khuôn mặt mờ ảo đang nhìn thẳng sang đây dưới sự bao phủ của sương đen.
Họ bỗng có chút hoang mang, không biết những lời vừa rồi là Thẩm Mạn Di nói hay là mấy câu còn ghi lại trong tiềm thức của A Tuấn nữa.
Không bao lâu sau lại có thêm một giọng nói khác ——
Đó là một giọng nam lịch sự, tốc độ nói cũng không nhanh, pha lẫn giữa tiếng cười giòn vang của Thẩm Mạn Di, nghe có vẻ yếu ớt và mịt mù: “A Tuấn, lòng dạ của con hơi hẹp.”
“A Tuấn, ai lại chỉ luôn liên tưởng người khác với từ bẩn thỉu chứ? Tính con mẫn cảm, thầy cũng không muốn nặng lời.”
“A Tuấn, quân tử thì phải luôn khoan dung.”
“A Tuấn.”
“Thôi quên đi, con cứ việc đi chép từ.”
“A Tuấn, thầy nhận ra chữ của con.”
…
Những giọng nói đó xen lẫn vào nhau, đầy ắp cả căn biệt thự. Cứ mỗi câu vang lên, ba hình bóng đứng tại chỗ sâu trong hành lang kia sẽ gần lại một chút, im hơi lặng tiếng như là ma quỷ.
Mọi người lại nhanh chóng nghe thấy tiếng sền sệt, như thể có một thứ nhiều tay nhiều chân nào đó đang bò trên mặt đất.
Họ vừa ngoảnh đầu đã phát hiện thứ đang bò sang đây không phải ai khác, mà là một khúc cây người bị cháy đen đã ngã vô nhà vệ sinh kia.
“Là A Tuấn phải không?”
“A Tuấn ơi.”
“A Tuấn.”
“Anh Tuấn ơi. ”
…
Tiếng bà vú nấu cơm ai ôi thở dài, tiếng quản gia lớn giọng kêu gọi, và tiếng la khiếp sợ của một bé gái ùa tới hết đợt này tới đợt khác.
Mặt A Tuấn xụ xuống, ngày càng nóng nảy, cuối cùng cậu ta che lỗ tai lại rồi nói giọng khàn khàn: “Mấy người phiền quá!”
Lời này vừa thốt ra, những giọng nói chất chồng lên nhau chợt trầm xuống, như vừa đổi điệu từ nhạc vui vặn vẹo thành nhạc buồn. Từng tiếng kêu gọi đó đã biến thành tiếng khóc rên thảm thiết.
Thẩm Mạn Di khóc lóc đứng trước mặt A Tuấn, chồm tới và nhìn chằm chằm người cao hơn bé rất nhiều, nhưng lại được bé coi như em trai này, bé hỏi lặng lẽ: “A Tuấn, vì sao em lại bẽ gập người chị rồi nhét chị vào sô pha?”
A Tuấn cúi đầu nhìn bé và trả lời: “Vì chị quá ồn.”
“Chị thực sự quá ồn.”
“Chị cứ cười mãi và cười mãi, chạy tùm lum bất kể là tầng trên hay tầng dưới, đâu đâu cũng có tiếng của chị. Chị thực sự quá ồn.”
“Chị có biết hôm ấy là ngày gì không? Đm hôm ấy là ngày giỗ của mẹ tôi.”
“Chị có hiểu ngày giỗ có nghĩa là gì không?”
A Tuấn nhìn mặt Thẩm Mạn Di, nghẹn ngào nói: “Chị đâu có hiểu, chị chỉ biết cái nơ nhìn đẹp, cái đu chơi vui, vén tấm màn lên là có thể làm cô dâu. Chị đã mười sáu tuổi nhưng cũng chỉ biết bấy nhiêu thôi.”
“Chị mà ra ngoài đường thì sẽ bị người ta chê cười, chị hiểu không? Chị nào hiểu được. Vì mọi người trong nhà ai cũng nuông chiều chị, thuận theo ý chị. Chị nói gì ra cũng thấy nhảm, nhưng chẳng ai sửa lời giúp chị, ngay cả Lý tiên sinh cũng bảo là chị nói đúng, nói thế là chính xác nữa.”
“Gã còn nói chị đeo kính kiểu đó vừa nhìn đã biết rất là thông minh. Ngay cả chép sách mà chị còn chép thiếu chữ, thông minh c ——” A Tuấn bật cười chế nhạo rồi nói tiếp: “Chị thực sự đã sống rất vui vẻ, nhưng đó chỉ vì chị là đại tiểu thư nhà họ Thẩm thôi. Nếu đổi thành kẻ khác, đừng nói là mười sáu, mười hai cũng không chắc sẽ sống được như thế đâu.”
Cậu ta rất ghét Thẩm Mạn Di và Thẩm gia.
Nhiều người nói với cậu ta rằng tổ tiên của mẹ cậu từng giàu có lắm. Bà vốn cũng là một thiên kim đại tiểu thư, có lẽ cuộc sống cũng không hề kém cạnh Thẩm Mạn Di. Nhưng kết quả thì sao? Tạo hóa trêu người, cha ruột qua đời, đại tiểu thư vừa ngoảnh đầu đã trở thành nhũ mẫu, dắt theo cậu ta đi ăn nhờ ở đậu tại nhà kẻ khác.
Không một hôm nào cậu ta cảm nhận được thứ gọi là ngày lành, chỉ nghe nói về nó từ trong miệng của người khác, càng nghe lại càng cảm thấy ông trời bất công. Dựa vào cái gì mà có người vừa chào đời đã có áo gấm lụa là, nhưng có kẻ lại phải bị người khác xem thường.
Và rồi chỉ cần kẻ sống trong nhung lụa ấy hơi nhân từ chút thôi, cậu ta sẽ nhất định phải mang ơn đội nghĩa.
Luôn có người từng nói: Các vị thiếu gia và tiểu thư nhà họ Thẩm đối xử với cậu tốt quá, Mạn Thăng xem cậu là anh ruột, không có chút dáng vẻ thiếu gia nào hết.
Mỗi lần nghe người ta nói thế, cậu cũng cảm thấy buồn cười. Người ta chỉ đang bố thí thôi. Một đại thiếu gia không biết khó khăn là gì chỉ khom lưng cho người khác hai viên kẹo mà lại là một việc thiện kinh thiên động địa đáng khen gì à?
Họ chỉ nói thế vì kẻ khom lưng là thiếu gia. Trường hợp cũng giống như vì kẻ ngu xuẩn là Thẩm Mạn Di, nên dù ngu xuẩn cũng biến thành ‘ngây thơ, đáng yêu và đáng tiếc’.
Bé có thể ăn sinh nhật mười một tuổi từ năm này đến năm khác, bảo năm nay là 1913, năm sau cũng là 1913, năm tới nữa vẫn là 1913.
Thẩm Mạn Di dừng lại ở một độ tuổi có thể chơi đánh đu và mấy trò con nít khác.
Nhưng đối với cậu ta, bé đã dừng lại ngay năm mẹ ruột của cậu thắt cổ tử sát và mãi mãi khiến sự kiện đó không thể được buông bỏ.
Bởi thế nên cậu ta thực sự cảm thấy Thẩm Mạn Di rất phiền.
Sự tồn tại của bé như là một lời nhắc nhở, luôn nhắc để cậu ta ghi nhớ rằng mẹ cậu đã treo cổ tự sát trong phòng chỉ vì làm sai một lỗi nhỏ vào ngày 19 tháng 5 năm 1913.
Ông trời không công bằng.
Đôi khi cậu nghĩ nếu nhất định phải có một kẻ trong Thẩm gia qua đời vào ngày 19 tháng 5 năm 1913 ấy, thế tại sao kẻ chết không phải là Thẩm Mạn Di? Nó đần độn, vô dụng, chắc chắn sẽ không sống lâu nếu không có người che chở. Nếu vụ hỏa hoạn hôm đó không được dập kịp thời, Thẩm Mạn Di đã bị cháy chết.
Nhưng về sau cậu lại nghĩ rằng nếu Thẩm Mạn Di chết trong đám cháy lỡ bị gây ra, mẹ cậu vẫn không sống được. Bà sẽ chỉ càng cảm thấy áy náy, sau đó cũng sẽ càng treo cổ một cách dứt khoát hơn thôi.
Bởi nhìn đi, bất kể tình huống ra sao, mẹ cậu cũng phải chết, đây đã là số mệnh.
Ông trời rất không công bằng.
Cậu ta thường tức giận bởi những việc này, nhưng cậu kiềm chế dữ lắm, không hề thể hiện trên mặt. Ngặt nỗi Lý tiên sinh lại luôn soi mói từng việc vặt vãnh của cậu ta.
Gã nói cậu hẹp hòi, không thể tha thứ cho người khác. Gã nói cậu luôn nghĩ mọi chuyện theo chiều hướng xấu, nhìn ai cũng đoán người ta ác độc, rằng cậu không biết nhìn người. Nói trắng ra thì gã cảm thấy cậu là một kẻ thấp kém nhưng chỉ toàn đo bụng quân tử bậy bạ.
Cậu thấy quan điểm của gã về vấn đề này cũng khác tùy theo người bị đánh giá. Nếu kẻ nghĩ quá nhiều là Thẩm Mạn Di hoặc Thẩm Mạn Thăng, Lý tiên sinh đã vỗ tay bảo hay và khen họ cẩn thận chu toàn, sẽ không dễ bị người khác lừa lọc.
Vì thế điều này vẫn không công bằng chút nào.
Quản gia lại là người ăn nói khôn khéo, cả ngày chỉ biết tới tiền và sổ nợ. Ngoài miệng hay nói ‘A Tuấn sống cực lắm’, “đây là nhà của con, bọn ta đều là người nhà của con’, nhưng ổng cũng chỉ nói thế thôi.
Xem nơi này là nhà của con vốn chỉ là một câu nói dễ nghe. Ổng nói vậy tất nhiên là đã xếp cậu ngoài phạm vi người một nhà.
Ngay cả bà vú nấu cơm cũng không dễ mến mấy. Ngoài chuyện bếp núc ra, bà ấy chỉ toàn lải nhải về vài điều thần linh gì đó. Bả bảo chụp hình thì hồn người sẽ bị cướp, nói đèn chong cóc sẽ bảo đảm mọi người yên ổn sống lâu, cuối cùng chưa được bao lâu, mẹ cậu đã trở thành một con quỷ đoản mệnh.
Dù vậy, bà vú nấu cơm vẫn không dập tắt ngọn nến. Bả nói mẹ cậu có mệnh khổ, muốn đọc kinh cầu phúc cho mẹ, để mẹ sống tốt hơn ở thế giới bên kia, còn khăng khăng kéo cậu tới niệm cùng.
Nhưng đó cũng chỉ làm ra vẻ thôi, người chết cũng đã chết mất tiêu.
Vì thế cậu rất ghét người Thẩm gia, ghét từ trên xuống dưới. Ngày nào còn sống ở đây, cậu sẽ không thể vui vẻ nổi, chỉ cảm thấy bực bội và áp lực thôi.
Cậu luôn kéo căng dây cung, cuối cùng lại không thể căng chặt nữa vào ngày giỗ của mẹ mình lần ấy.
Có trách thì trách Thẩm Mạn Di chọn sai lúc, một hai phải bắt cậu chơi cùng vào trúng ngày đó, làm trò hề với cậu nhưng chẳng hề đáng cười, cười lớn khanh khách chạy vòng quanh căn biệt thự.
Cậu muốn bé câm miệng, muốn bé đừng cười nữa để bầu không khí yên tĩnh lại, nhưng lại lỡ không thể kiểm soát lực tay.
Có vài việc là thế đó, một khi đã thực hiện thì sẽ không thể thu hồi.
Cậu giấu đi một Thẩm Mạn Di sẽ không bao giờ ầm ĩ nữa, dù sao cũng nhờ vị tiểu thư này có cái tính tin người bất chấp. Trước đây cũng có vài ngày bé tự nhốt mình trong phòng, cơm nước cứ để trước cửa chứ không được làm phiền bé.
Nhưng cậu vẫn sợ sau này khó giải thích, vì thế cũng viết nhật ký bằng phong cách của Thẩm Mạn Thăng, viết xong lại cất đi quyển vở ấy.
Đối với cậu ta, những trang nhật ký ấy rất dễ để bắt chước, vì Thẩm Mạn Thăng vốn đã xem việc bắt chước chữ của cậu là thú vui, bởi vậy riết rồi nó cũng không thể sửa lại nữa.
Đây chắc có lẽ là báo ứng.
Đúng ra mọi chuyện tới đây cũng coi như kết thúc, nhưng Lý tiên sinh lại không an phận, ép cậu đến nỗi không còn cách nào.
Vì thế nếu đã có một người chết thì rồi sẽ có hai người chết.
Xử lý vấn đề đó xong, cậu lại bắt chước một trang nhật ký khác.
Cậu ta thừa biết thế gian này không công bằng. Đồng thời, vế cậu ra tay sẽ cho ra kết quả khác nếu đem so ra với vế Thẩm Mạn Thăng ra tay. So với tiểu thiếu gia nhà họ Thẩm, một người chị ngu ngốc và một tiên sinh dạy học tầm thường thì chẳng là gì cả.
Nhưng cậu ta nhanh chóng phát hiện mình vẫn có sơ hở —— cậu viết ngày tháng thành năm 1913, thế mà cậu lại chậm chạp không nhận ra.
Nhìn đi, thì ra Thẩm Mạn Di bị kẹt ở năm đó cùng với cậu ta cũng không được giải thoát.
Không được giải thoát…
Hôm ấy, cậu ta tự dưng cảm thấy cuộc sống này không có ý nghĩa, luôn phải xu nịnh và giấu giếm, vì thế cậu chui vào phòng nhỏ để bà vú nấu cơm thờ cúng đèn chong cóc, khóa cửa lại rồi ngồi trước ngọn nến suốt đêm.
Cậu không biết vì sao mình lại ngồi ở chỗ đó, nhưng ngắm mãi thì cảm thấy tên mình được đặt ngang hàng với một vị thiếu gia như Thẩm Mạn Thăng lại trông khá chướng, đột ngột, không hợp nhau khi bị kẹp giữa những kẻ được gọi là người của Thẩm gia như thế.
Cậu muốn xóa sạch bảng tên đó, song lại không cẩn thận đụng ngã ngọn nến.
Đây có lẽ đã là số phận.
Hoặc cũng không phải cậu ta bất cẩn gì thật, cậu chỉ không muốn sống tiếp những ngày như vậy nữa, làm thế để đặt dấu chấm hết cho mọi chuyện luôn.
Khoảnh khắc da thịt khô héo, cậu chợt nhớ tới cảnh Thẩm Mạn Di trợn to đôi mắt rướm đầy vẻ khổ sở và tủi thân, không hề chớp mắt nhìn chòng chọc vào cậu trước khi chết.
Bé há miệng nhưng lại không phát ra bất cứ âm thanh nào.
Cậu ta biết bé muốn nói gì, bé muốn nói là: Đau quá.
Thực ra lửa đốt trên người cũng đau lắm, không thua gì bị gãy cổ đâu. Nó không phải chuyện chỉ xảy ra trong chớp nháy, mà lại kéo dài, dù có làm sao cũng không thể trốn chạy khỏi cơn đau ấy.
Cậu ta nghĩ rằng mình vẫn còn tốt chán với Thẩm Mạn Di.
“Chị nhìn đi.” A Tuấn nói với bé gái trước mặt, “Tôi để mọi người tới chơi với chị đây. Bọn tôi cũng ngừng lại tại năm đó và không bao giờ lớn lên hệt như chị thôi.”
Vừa dứt lời, lớp da tái nhợt trên người cậu tróc ra và rơi xuống đất như quần áo lỏng lẻo, chỉ để lại một cơ thể bị cháy đen đến nỗi cứng đờ.
Thẩm Mạn Di mở to hai mắt, vẫn không chớp nhìn cậu ta chăm chú như khoảnh khắc trước khi chết. Không biết là đau khổ, uất ức, hay là không thể tin được nữa.
Sau đó, tròng mắt của bé từ từ đảo qua một vòng, dừng lại một lát trên người Lý tiên sinh và tổ hợp cơ thể cũng bị cháy đen kia.
Bé ngơ ngác, cho tới giờ mới nhận ra họ là ai.
Quái nhân mọc rêu xanh đang nhỏ nước ấy là vị tiên sinh đã dạy bé nhận biết từ ngữ, dạy bé đọc sách, dạy bé đừng cuống cuồng, cứ từ từ lớn lên thôi.
Khúc gỗ khô bị cháy đen tới mức khó thể phân biệt đó là bà vú đã đeo yếm ăn cho bé, nấu ăn và đút bé. Bà là người để bé lên vai khi bé còn nhỏ, lớn lên lại dặn bé không được chạy lung tung, cẩn thận bác quản gia xấu bụng. Bà là người luôn đi theo bé như vịt con, bước ra bước vào, chơi trốn tìm với bé, cùng bé trang điểm cho hai đứa em gái.
Đây là nhà của bé.
Thẩm Mạn Di đứng dại ra, sau đó bóp chặt ngón tay, nước mắt nhuộm máu chảy ướt mặt, bé bắt đầu thét chói tai.
Thét lên như đang cuồng trí.
Các mặt gương trong hành lang lần lượt nổ tung, kiếng bắn tóe, miểng bay khắp trời.
Cơn khóc ròng và trạng thái sụp đổ của bé lây sang những người khác. Khí đen đặc sệt cũng bắt đầu tỏa ra khỏi cơ thể của mỗi người, trong đó có Lý tiên sinh, quản gia, bà vú nấu cơm, Thẩm Mạn Xu và Thẩm Mạn San…
Tựa như một chiếc đập lớn bị đóng kín từ lâu bỗng mở rộng cánh cửa, oán niệm trào ra như sóng lớn.
Mọi người kêu lên một tiếng rồi hoàn toàn bị bóng tối dày kịt và vô tận bao phủ. Ngay cả Đại Đông hoảng hốt từ nãy đến giờ cũng đột ngột hoàn hồn vì quá đau.
Sương đen của một người lướt qua da sẽ mang lại hiệu ứng hệt như da mỏng bị cắt trúng, để lại một đống vết thương nhỏ bé mà dày đặc. Huống chi lại là nhiều người như thế!
Quả thực là họ đang bị chôn sống trong núi đao.
A Tuấn cũng không có bất cứ ý định muốn ngăn cản gì, bởi cậu ta mới là chủ lồng hùng mạnh nhất, chỉ có mình cậu mới có thể điều khiển Thẩm Mạn Di, Lý tiên sinh hoặc mọi sự tồn tại khác trong lồng thôi.
Giống như bây giờ, họ uất ức, họ giận dữ, họ oán hận, nhưng họ không thể làm tổn thương đến cậu ta. Tất cả sự công kích đều chỉ có hiệu quả với bên ngoài. Họ càng cuồng loạn thì càng khiến những kẻ ngoài xâm nhập cái lồng khó thể đỡ nổi hơn.
Chu Húc co rúc trong bóng tối đen kịt đến nỗi giơ tay cũng không thấy năm ngón. Huống chi nó cũng không hề giơ tay ra, nó nghi rằng cả người mình đã không còn miếng thịt nào, bị băm vằm ra từng mảnh trong trạng thái còn sống mất rồi.
Nó rống lên một tiếng giữa sự bao vây của sương đen: “Đại Đông!”
Nó hy vọng Đại Đông có thể bùng nổ tiềm lực lần nữa và thả ra một con rối có dáng vẻ tương tự Kim sí Đại bàng giống như đợt trước.
Ai ngờ nó chỉ thấy ánh vàng lóe lên ở chỗ nào đó, nhưng chưa cố sáng được nửa giây đã tắt ngúm như một ngọn nến trong gió.
“Không thể được!” Giọng nói của Đại Đông vang lên ngay bên cạnh nó, mà sao nghe cứ như bị cách trở bởi một cơn gió mạnh, “Mẹ, mẹ nó, không thể thả đại bàng ra trong trường hợp này! Phải chờ sương đen tan bớt đã!”
“Đờ mờ vậy anh làm tan chúng đi chứ!!!” Chu Húc suy sụp kêu lên.
Lại nghe giọng của Đại Đông càng trầm hơn: “Ủa có phải chỉ một người đâu, chúng ta phải giải hết tám người cùng một lúc. Cu có biết đây là khái niệm gì không?”
Chu Húc cũng không muốn biết, nhưng Đại Đông vẫn nói ra: “Thẩm gia có tổng cộng tám chủ lồng, điều đó có nghĩa là phải đồng thời giải sạch tám cái lồng đấy.”
Đây là cảnh tượng Đại Đông chưa thấy bao giờ, Chu Húc nghe mà tuyệt vọng ngay luôn.
Đối với vài Phán Quan, chỉ làm tan rã oán khí của một người thôi cũng là một việc mà họ phải gắng gượng hết sức, chứ đừng nói chi tới tám người. Sơ suất thì sẽ không thể tan rã hoàn toàn, thế thì ngay cả bản thân Phán Quan cũng bị vấy bẩn kinh khủng, dẫn đến kết cục không thể giải lồng và bị xóa tên.
“Vậy có thể làm cho họ đừng xông về phía tụi mình trước không?!” Chu Húc lại la lên. Trong cái khó ló cái khôn, nó nghĩ ra đường tắt cho Đại Đông, “Không phải anh có thể trói dây tuyến lên người Thẩm Mạn Di hả?! Anh cứ biến họ thành rối và điều khiển để họ trở thành đồng bọn của tụi mình trước đi!”
Đại Đông nghe nó nói mà cũng sụp đổ theo: “Khi đó bé ta đâu có bị điên! Trói dây có nghĩa là buộc dây, đó chỉ là một hành động mang tính tượng trưng thôi, bà mẹ nó đương nhiên anh mày trói được rồi. Nhưng giờ nó đã điên lên, anh mà khống chế nó thì phải phí nhiều sức hơn so với điều khiển Kim sí Đại bàng của mình nữa. Nếu anh mày có thể khống chế hai người cùng một lúc thì còn đến nỗi phải tuột xuống vai em người khác à?!”
Cả bọn không ai thấy ai, tranh cãi lại trở thành công cụ phát tiết và xoa dịu giữa cơn đau khi bị sương đen vây kín này, nhưng cũng chỉ có thể giúp đỡ vài giây thôi.
Một nháy mắt sau, họ đã bị đắm chìm bởi nỗi oán niệm mãnh liệt hơn, cảm giác như bị cứa thịt đục xương, cuối cùng không nhịn nổi mà thét gào.
Họ vừa la lên thì cũng chợt nghe thấy tiếng một vật khổng lồ xuyên mây đâm tới. Đằng Xà của Văn Thời mang theo mùi pháo hoa cháy và mùi kim loại rỉ sắt vì va chạm xé mở một cái khe rộng giữa sương đen, gào thét lượn một vòng trong đó.
Chỗ nó đi qua đều bị dấy lên một ngọn gió xoáy. Nó đưa bọn Chu Húc vào giữa vòi rồng, tránh để họ chịu nỗi đau da thịt thêm bất kỳ giây nào nữa.
Mọi người lảo đảo rồi tập trung lại thành một cụm giữa ngọn gió xoáy, nhưng cũng không hề thả lỏng vì tình huống này.
Vì những áng sương đen đó bất chấp có mặt ở mọi nơi, luôn như hổ rình mồi, bất cứ lúc nào cũng có thể chạy vào những kẽ hở khi Đằng Xà di chuyển.
Trong khi Đằng Xà đang bảo vệ họ, Chu Húc thấy có một vệt sáng bạc hiện lên trong bóng tối ngoài ngọn gió xoáy, nó cắt rách một cái khe trên mảnh đen kịt ấy như lưỡi dao vừa vút qua.
Nó nhanh chóng nhận ra đó không phải lưỡi đao, mà chính là dây rối!
Chỉ nghe sợi dây rối đó bị ném tới một nơi nào đó, kèm theo cả tiếng xé gió, rồi lại quấn vài vòng.
Tiếp theo, một tiếng keng vang lên! Đầu cuối của xiềng xích lóe tia lửa được tạo nên bởi dây rối kéo dài ra và nhanh chóng đan xen như cây leo đang ôm nhau lớn lên.
Họ nghe ‘keng’ một tiếng ở đầu cuối xiềng xích.
Trong phút chốc, một lỗ thủng to đùng bỗng bị xé mở trên áng sương đen đó. Cuối cùng thì hình dáng bị trói buộc bởi xiềng xích cũng có hình người, đó là Thẩm Mạn Di, trong khi đầu còn lại của dây rối thì đang bị Văn Thời túm chặt trong tay.
“Vụ gì thế này?” Tôn Tư Kỳ nức nở một tiếng.
Đại Đông và Chu Húc ngơ ngẩn nhìn sang chỗ đó chăm chú, bảo: “Khóa rối.”
Khóa rối có nghĩa là quấn xiềng xích trên người rối, nhằm áp chế một con rối đang trong trạng thái chiến đấu để nó không thể thoát khỏi sự kiểm soát của rối sư. Một khi đã bị xiềng xích quấn chặt, dù nó điên cuồng tới mức nào cũng sẽ bị chi phối bởi rối sư.
Đây là điều mà Đại Đông vừa nói mình không làm được.
Văn Thời vốn đã lợi hại hơn hắn, nên mới có thể làm được điều này, Đại Đông cũng hoàn toàn không quá bất ngờ về điều này. Chu Húc thở phào một hơi, nhưng sắc mặt của Đại Đông vẫn chưa vui nổi.
“Khống chế được một kẻ cũng vô dụng thôi, còn tới tận bảy cơ mà!” Đại Đông nói.
Chu Húc mới hít vào một hơi đã nín bặt, nó cảm thấy có chút ngạt thở.
“Có lẽ anh ấy sẽ ——”
Chu Húc còn chưa nói hết đã bị Đại Đông ngắt lời dứt khoát: “Không đời nào! Cu nhớ lại xem anh Nhã Lâm có thể đồng thời khống chế bao nhiêu con rối đang trong trạng thái chiến đấu.”
“Sáu con…” Chu Húc đã sợ vãi nồi, “Thế mà còn thiếu hai con à?”
Nhưng nó lập tức nhận ra: “Đó là khống chế để chúng ổn định, vả lại mấy con rối đang trong trạng thái chiến đấu đó cũng có thể biến thành người nữa mà, còn điên hơn so với như vầy nữa, như thế đâu có cùng level.”
“Ừ, bởi nếu để anh Nhã Lâm tới xử lý thì không thành vấn đề. Nhưng mấy con còn lại thì sao?” Đại Đông hỏi lại, nửa nản lòng nửa tự giễu hét lên một tiếng đầy đau đớn và nói: “Thôi đừng nằm mơ nữa.”
Trái lại, hắn cũng không muốn ngồi chờ chết, hai tay banh ra một cái, thuận thế quăng dây rối ra ngoài, Kim sí Đại bàng đã thành hình trong ngọn gió xoáy mà Đằng Xà đã lượn quanh để tạo ra.
Hai cánh của nó mở rộng, cũng chặn giùm mọi người chút nơi.
Đại bàng vừa vào chỗ, tiếng xé gió quen thuộc lại vang lên.
Chu Húc lại nhìn thấy dây rối màu bạc như trước đó, nhưng lần này nó bay thẳng tới hướng khác!
“Đại Đông, Đại Đông, anh nhìn đi…” Nó vội vàng huých tay người bên cạnh vài cái.
Hai người cùng ngẩng đầu lên, trố mắt nghẹn họng nhìn sang kia, chỉ nhìn thấy xiềng xích bén lửa bắn tung toé, ánh lên màu lửa đỏ đậm trong sương đen, và đan xen thành hình dáng của một người.
Hình dáng hiện ra khỏi sương đen, người đó là Lý tiên sinh.
“Đệt, người thứ hai rồi.” Chu Húc lẩm bẩm.
“Sai rồi, người thứ ba mới đúng.” Đại Đông chỉ vào con mãng xà đen và nói, “Trong tay cậu ta đã có ba người…”
Nhưng Văn Thời cũng không hề ngừng tay, anh lại vứt ra một sợi dây rối và khống chế người thứ tư giữa tiếng xiềng xích kêu keng keng —— người ấy là quản gia.
Sau đó là người thứ năm và rồi tới người thứ sáu.
Cuối cùng khi anh khống chế đôi giày thêu kia, dáng vẻ của một người phụ nữ bị trói buộc bởi xiềng xích dần hiện ra, Đại Đông và Chu Húc đã nói không nên lời.
Họ trợn mắt há mồm nhìn chằm chằm vào ngón tay của Văn Thời, những sợi bông trắng quấn siết ngang dọc trên các ngón ấy, đầu cuối mỗi sợi đều trói chặt một bóng dáng bị quấn xiềng.
Sau hơn nửa buổi sau, họ mới nhận ra người này lại thực sự có thể khống chế tất cả mọi người trong lồng…
Ngoại trừ A Tuấn.
“Sao lại thế được…” Chu Húc điên rồi.
“Bảy người, đm…” Đại Đông cũng điên rồi.
Hắn bỗng nhiên nhận ra có lẽ mình đã luôn đánh giá thấp thực lực của đại đồ đệ Thẩm gia này. Ít nhất, ngay cả sư phụ hắn cũng không thể khống chế đồng thời bảy con rối đang trong trạng thái phát tiết và nổi điên như kia đâu.
Bảy người chứ có ít gì.
Tinh thần của hắn còn chưa khôi phục từ cảm xúc chấn động này, cảnh tượng càng khiến hắn ngẩn người hơn đã ào tới ——
Văn Thời xoay cổ tay, mười ngón đột ngột cong lên một cái, bảy con rối trong tay di chuyển cùng một lúc. Họ chỉ thấy độ hăng chiến của Thẩm Mạn Di và Lý tiên sinh chợt nổ mạnh, xoay người bao vây A Tuấn, kẻ duy nhất mà Văn Thời không đụng tới, như những con rối chân chính.
Trong nháy mắt, sương đen lại tuôn ra như nước lũ tràn bờ đê, nhưng lần này, người bị thương không phải họ, mà là A Tuấn đang bị vây quanh khắp hướng. Sương đen lập tức bao phủ lấy cậu ta.
Đại Đông đã trở nên hoang mang từ trạng thái khiếp sợ vừa rồi. Hắn cứ tưởng Văn Thời dắt bảy con rối cùng một lúc để bọn Thẩm Mạn Di tạm thời đừng nhúc nhích thì đã là cực hạn, không ngờ tên này lại không dừng ở đây ——
Anh không hề tạm thời làm chúng ổn định lại, anh thực sự đang điều khiển rối, điều khiển cùng lúc tận bảy con…
Lần này, kẻ kêu đau thảm thiết lại biến thành bản thân chủ lồng.
A Tuấn thực sự không ngờ là chỉ trong vỏn vẹn một cái chớp mắt, địa bàn của cậu đã trải qua những biến đổi to lớn. Mọi người đang sống ở đâu, những kẻ mà cậu đã dung túng và cho phép để tồn tại lại quay ngược họng súng rồi biến thành ‘người ngoài’.
Trước đây họ chưa từng làm cậu tổn thương. Dù có tức giận, đau lòng, khổ sở, chật vật, muốn khóc, muốn kêu lên, và muốn phát tiết bao nhiêu, họ cũng chưa từng tổn thương được cậu.
Nhưng trong chớp mắt này, cậu ta lại thực sự cảm nhận được nỗi đau.
Nỗi đau thấu tim, khó chịu đựng hơn bị cháy chết trong vụ hỏa hoạn, như đang có không biết bao nhiêu là chiếc cưa rỉ sắt đang đâm thẳng qua làn da của cậu, thong thả mà lại không ngừng cắt xé.
Đó là một nỗi đau không thể thoát khỏi, thế nên lòng cậu cũng bắt đầu trở nên khó chịu.
Lỗ tai của cậu có thể nghe thấy rất nhiều âm thanh. Giọng nói lúc còn sống và giọng nói sau khi chết đi. Rõ rệt và mơ hồ. Cười và khóc. Quá nhiều. Nhưng dường như trước đây cậu chưa để ý tới điều này bao giờ.
Cậu ta bỗng cảm thấy cảm giác đau đớn như thế này cũng không tồi, như là cậu đang trả nợ thôi. Đợi đến khi họ đã phát tiết đủ, cậu cũng có thể trở nên trong sạch và được giải thoát một cách lẻ loi khỏi trạng thái này.
Thậm chí cậu còn hy vọng mấy người này phát tiết mãnh liệt hơn chút nữa, khóc to hơn chút nữa, hét chói tai hơn một chút, thế thì cậu sẽ có thể nhanh chóng rời khỏi thế gian này.
Cuối cùng thì chính cậu ta cũng không biết đây là tâm trạng gì. Khoảnh khắc này, cậu lại cảm thấy Lý tiên sinh nói đúng, có lẽ đúng là cậu không biết nhìn người, vì ngay cả cậu còn không hiểu rõ bản thân nữa mà.
Trong lúc đang đứng suy nghĩ về mình giữa sương đen mù mịt, A Tuấn chợt nghe thấy một giọng nói lạnh lẽo xuyên thấu sương đen rồi truyền vào lỗ tai.
Người nọ nói: “Cậu hối hận.”
Trái tim của A Tuấn căng chặt, trả lời theo bản năng: “Tôi không có.”
Người nọ không hề để ý tới A Tuấn, nhưng cậu thì lại sốt ruột: “Tôi không có. Tôi còn gì để hối hận nữa? Mọi chuyện đều xảy ra vì số phận thôi!”
Thẩm Mạn Di làm phiền cậu, quấy rầy cậu, ép cậu phải làm một việc gì đó để bé im mồm.
Ngoài mặt Thẩm Mạn Thăng đối xử không tồi với cậu, nhưng đó chỉ là giả vờ thôi. Nếu không mắc mớ gì cậu ta lại cố ý bắt chước chữ viết của cậu, bản chất của việc làm đó là để giễu cợt cậu, để xem thường người khác.
Lý tiên sinh thì lại phân biệt đối xử, luôn soi mói tật xấu của cậu, chỉ vì cậu không phải tiểu thư thiếu gia nên kém hơn họ một bậc trong mắt ổng. Ổng rơi vào kết cục đó cũng là ý trời.
Tội nghiệt của quản gia, bà vú nấu cơm và cả hai bé gái kia không lớn mấy, nhưng lúc ngọn lửa bừng lên, ngay cả bản thân cậu còn không muốn cứu, nào có thời gian để tâm tới kẻ khác, chỉ có thể trách số họ xui, vừa khéo đều ở nhà. Đây đã là số phận rồi.
Ngay cả người mẹ ruột của cậu đã nuôi dưỡng tiểu thư thiếu gia nhà người khác hệt như con đẻ cũng không hề mạnh mẽ, chỉ vì chút việc cỏn con mà đã treo cổ, để lại một mình cậu ta tiếp tục ăn nhờ ở đậu, nên đó cũng là số của bà.
Cậu ta ghét họ và Thẩm gia thì cũng có lý do hết thôi.
Nhưng dù có lý do đàng hoàng, cậu lại không ngừng nhấn mạnh như đang bị đá trúng chỗ đau: “Tôi không hối hận, không hề!”
“Dù được đẻ lại lần nữa thì tôi vẫn sẽ làm vậy!”
Nói xong, cậu ta hơi dừng lại và bác bỏ: “À không, nếu được đẻ lại, tôi không muốn xuất hiện ở Thẩm gia thêm lần nào nữa.”
Câu này vang khá dội, quanh quẩn trong hành lang dài rối loạn. Những tiếng kêu khóc và rên rỉ của người đã chết chợt ngừng lại. Sau đó, cả hành lang dài sa vào một sự tĩnh lặng dài đằng đẵng.
Nỗi đau trên người đột nhiên biến mất, A Tuấn hơi ngơ ngác ngẩng đầu lên.
Cậu ta thấy bọn Thẩm Mạn Di đã không còn khóc, sương đen vẫn quấn quanh người họ, nhưng chúng lại không hề ùa thẳng về phía cơ thể của cậu.
Họ chỉ lặng nhìn cậu ta, khuôn mặt từ vẻ oan ức biến thành xót xa, cuối cùng là dần bình tĩnh lại, nhìn cậu một cách vô cảm như đang nhìn một người xa lạ.
A Tuấn chợt cảm thấy rất khó chịu. Cậu bằng lòng để mấy người này tiếp tục đối xử tàn bạo với mình giống như vừa nãy hơn. Tình huống như bây giờ lại làm cho cậu cảm thấy nửa vời, như bị nghẹn trong họng.
Như thể cậu đang chuẩn bị trả lại cho họ vài thứ mà cậu đã lén gói đi, nhưng lúc đưa ra, họ lại không muốn cầm lấy.
Có lẽ do xung quanh quá an tĩnh trong nháy mắt ấy, không hiểu sao A Tuấn lại nhớ về một câu Thẩm Mạn Thăng từng nói rất lâu trước kia, cậu ta nói: “Anh Tuấn, anh đừng buồn về chuyện gì hết, người nhà cũng có thể cãi nhau mà.”
Trước đây cậu chưa từng tranh cãi với bất cứ người nào, giờ khéo nỗi lại chẳng còn ai.
Cậu thấy Thẩm Mạn Di lau mắt một cái, bỗng xoay sang chỗ khác, xiềng xích trên người bé có vẻ không trở thành gánh nặng, ít nhất là bé bước đi không hề cồng kềnh.
Bé đưa lưng về phía A Tuấn, đi tới trước mặt Văn Thời, ngửa mặt nói: “Anh ơi, em muốn đi.”
Văn Thời khá sửng sốt khi bị bé gọi, một lát sau mới gật đầu, nói khẽ: “Được.”
Vừa dứt lời, anh giơ tay chạm lên giữa trán của bé gái.
Trong nháy mắt ấy, những áng sương đen đó cuối cùng cũng bay vào tay anh, từ vẻ giương nanh múa vuốt biến thành mạch nước ngầm cuộn trào mạnh mẽ, cuối cùng lại lẳng lặng bồng bềnh xung quanh Văn Thời, từ từ tiến vào người anh.
“Mai sau em sẽ biến thành gì vậy anh?” Bóng dáng của Thẩm Mạn Di dần nhạt bớt, bé hỏi một câu khẽ khàng mà lại mơ hồ. Bạn đang