Phán Quan

Chương 66: Chương 66




Tiếng đóng cửa ‘rầm rầm’ vang lên liên tục, gà gáy chó sủa trộn lẫn trong tiếng thét thất kinh, mọi thứ đều bị chặn lại đằng sau cánh cửa.

Chỉ trong một nháy mắt, cả thôn đã trở thành một tòa tử thành.

Nhà của Lục Văn Quyên lại nằm ở phía Tây chót của thôn. Lúc chạy tới đó, mọi người có ngoảnh đầu nhìn lại một cái.

Cả đám chỉ thấy mưa to dấy lên khói bụi dưới đất, đâu đâu cũng mịt mờ sương mù.

Địa thế của vùng này cũng chẳng bằng phẳng, nhấp nhô kéo dài tựa một sườn núi, chỉ không tới mức dốc ngược lên trời thôi. Ngôi nhà hai tầng với nhiều vật trang trí không đồng nhất này lại tọa lạc ở nơi nghiêng nghiêng đó. Song nó lại bị sương mù phủ lên, chợt nhìn một cái lại thấy hệt như một phần mộ được phóng to.

Dù đã chuẩn bị tâm lý trước, nhưng đột ngột nhìn thấy cảnh như thế, người ta vẫn rợn cả tóc gáy như thường.

Họ chỉ dừng ở cửa lâu thêm chốc lát, Lục Văn Quyên đã thúc giục với tông giọng the thé: “Vào lẹ đi!”

Dì ta duỗi tay túm lấy người, năm ngón dài nhọn nắm chặt đến nỗi Chu Húc “áu” một tiếng, để lại năm vết đỏ ngay tại chỗ.

“Ủa dì ơi, dì nhẹ tay chút có được không vậy? Người tui là thịt thà cơ mà!” Chu Húc trực tiếp bực lên.

Thực ra lá gan của nó không lớn hơn Hạ Tiều bao nhiêu, nhưng ỷ thấy trong sân có nhiều người, nó chẳng sợ Lục Văn Quyên miếng nào cả.

Lục Văn Quyên bị nó kêu một tiếng ‘dì’ mà ngơ ngác, đơ ra vài giây mới nói: “Đừng nhìn nữa! Nếu còn không đi vào, mấy thứ kia sẽ mọc ra đó! Nhanh chân vào đi!”

Dì ta còn chưa nói hết, nhưng nghe được lời hối thúc như thế, Văn Thời và Tạ Vấn đi cuối lại dừng bước.

Không chỉ hai người họ, chị em Trương Lam và Lão Mao cũng dừng theo, đứng sững tại cửa.

Chu Húc và Hạ Tiều nhát như thỏ đế, song lại không thể nhịn nổi lòng hiếu kỳ, lấy Lão Mao làm vật chắn, thò đầu ra ngó dáo dác từ sau lưng lão.

“Phải đợi trong bao lâu?” Tạ Vấn thậm chí còn ngoảnh lại hỏi Lục Văn Quyên một câu nữa.

“…”

Đợi đến khi chết rồi thôi.

Lục Văn Quyên thầm chửi trong lòng, ngay cả máu cũng sắp ói ra tới nơi.

Nhưng một giây sau, sắc mặt của dì ta đã ào một phát trắng bệch.

Vì một âm thanh cọt kẹt cọt kẹt quái gở nào đó lại chợt vang lên trong thôn xóm trống rỗng này, pha trộn trong tiếng mưa rào nghe vừa ẩm ướt vừa quỷ dị.

Mọi người lập tức ngừng thở, nghiêng tai lắng nghe.

“Hình như ở bên kia.” Trương Lam nhíu mày tìm nguồn âm một lát rồi chỉ sang miền rừng cách đó không xa.

Nhưng cô lại nhanh chóng phủ định lời của mình: “Không phải, bên này mới đúng.”

Tay cô hướng đến chỗ gần hơn, chỉ vào đống nhà lầu đối diện. Sau đó, cô vừa nghe vừa điều chỉnh phương hướng, ngón tay từ từ chuyển động…

Rồi cuối cùng dừng lại ngay cửa nhà của Lục Văn Quyên.

Ngay lúc cô dừng tay, nét mặt của mọi người đã thay đổi.

Vì lúc bấy giờ, không còn gì có thể ngăn nổi cái tiếng cọt kẹt này nữa. Như thể có một thứ gì đó đang uốn lượn bên dưới mặt đất, chỉ cách họ một lớp xi măng hơi mỏng và định phá đất hòng xông lên.

Đúng lúc này, Chu Húc bỗng nghe thấy một loạt tiếng đập.

Nó là một người rất dễ thất thần, nên chưa gì đã bị thu hút sang việc khác. Nó xoay đầu tìm nguồn âm đó, phát hiện cửa sổ phía Đông của nhà Lục Văn Quyên đang mở toang, tấm màn cũng phanh rộng, có thể nhìn thấy có một người đang đứng ngoài cửa sổ gắn kính từ góc độ của nó.

Tiếng đạp vừa rồi hẳn đã vọng tới từ chỗ người ấy.

Đối phương dí mặt lên kính, khuôn mặt trắng tuyết hơi mờ nhạt dưới hơi nước, chỉ có thể cảm nhận được gã đang di chuyển tròng mắt, như là đang nhìn gì đó trong nhà.

“Đó có phải là hàng xóm của dì không vậy? Hình như người ta tìm dì có việc gì hay sao ấy?” Chu Húc nhìn chằm chằm vào chỗ đó và vỗ nhẹ lên người Lục Văn Quyên.

Lục Văn Quyên mờ mịt ngoảnh đầu lại nhìn sang bên kia.

Ngay sau đó, người đứng ngoài cửa sổ bất thình lình mở miệng ra về phía họ.

Cái mồm đó há cực bự, khoảnh khắc nó mở ra, dường như nửa đầu trên ngã ngược ra sau.

“Đờ mờ!!!” Chu Húc mắng một câu.

Ngay sau đó, nó lập tức cảm thấy choáng váng, như thể linh tướng bị thứ gì đó hút đi một ngụm từ xa.

Nó vịn khung cửa rồi bắt đầu nôn khan.

Một giây cuối cùng trước khi khom lưng, nó thấy mặt đất tại chỗ cửa nứt ra không biết bao nhiêu kẽ hở. Vài miếng cỏ dại màu đen mọc lên từ mấy cái kẽ, quấn vướng vào nhau, song bị mưa rơi ướt đẫm và rũ rượi trên mặt đất.

Nó ọe vài cái miệt mài rồi mới đột ngột nhận ra chúng nào phải cỏ dại!

Tóc mới đúng cơ.

Trên mặt đất, đầu tiên là có tóc mọc lên, sau đó là mặt người tròn trắng, rồi tiếp theo là tứ chi.

Không tả là tay chân thay vì tứ chi cũng bởi so với tay chân, trông chúng càng giống như mèo hoang, chó dại hoặc nhện bị thiếu mất mấy cái chân hơn, nhưng có mọc thêm một mặt người.

Chúng nó nằm sấp trên mặt đất, lúc di chuyển thì cả tứ chi đều nhúc nhích và phát ra tiếng sàn sạt. Nếu đứng thẳng dựa tường thì nhìn giống hệt như tên ‘hàng xóm’ mà Chu Húc mới trông thấy.

Vừa thấy thứ này, Lục Văn Quyên lập tức sợ tới mức nhảy cẫng lên, bất chấp lôi cả bọn Văn Thời vào nhà, sau đó đóng chặt cửa lại và còn kéo hết tất cả tấm màn trong nhà lên nữa.

Họ vẫn có thể nghe thấy tiếng bò sàn sạt bên ngoài ngày một nhiều và vang dội hơn dù cách một cánh cửa…

Như thể chỉ trong tích tắc, mấy thứ này đã mọc khắp cả thôn và bò đi mọi nơi.

Nhưng tiếng động này cũng không kéo dài lâu lắm. Vỏn vẹn vài phút đồng hồ, cả thôn lại quay về với vẻ tĩnh lặng. Ít nhất là chỉ còn nghe được tiếng mưa rơi mà thôi.

Văn Thời vén tấm màn lên và nhìn ra ngoài, phát hiện cảnh tượng ngoài cửa sổ giống cảnh trong nhà như đúc, dẫn đến cùng một kết quả như lúc anh đã mở cửa nhà vào nửa đêm qua —— bên ngoài lại đã biến thành chỗ chết.

Thế này thì đừng nói là Lục Văn Quyên, ngay cả họ cũng đừng nghĩ đến chuyện ra ngoài.

“Rốt cuộc thứ vừa rồi là gì vậy?” Hạ Tiều vẫn chưa hết sợ, hồi tưởng lại một phen rồi nói: “Sao con lại cảm thấy mình từng thấy nó ở đâu thế nhỉ?”

Lục Văn Quyên nói sâu xa: “Đó là ác quỷ.”

Thực ra từ này hơi đặc biệt đối với Văn Thời. Ngón tay đang lùa màn của anh động đậy, ngoảnh đầu nhìn sang Lục Văn Quyên.

Song chỉ nghe Tạ Vấn nói một cách lạnh nhạt: “Dì nói sai rồi, đó là huệ cô.”

“Huệ cô?” Vừa nghe thấy từ này, Hạ Tiều lại cảm thấy nó hơi quen tai, nhưng không thể nhớ ra ngay lập tức.

Cũng may Văn Thời đã nói trước một câu: “Trước đây cậu đã từng thấy nó.”

Lúc này Hạ Tiều mới nhớ ra, đêm Văn Thời vừa tới Thẩm gia, ba tên nhạc công kia đã biến thành mấy thứ gọi là ‘huệ cô’. Nhưng mà sau lần đó vì không thấy chúng lần nữa, nên cậu đã quên béng.

Chỉ nhớ rõ lúc ấy Văn Thời từng bảo rằng đây là một thứ bò từ dưới đất lên.

“Vài thứ bẩn thỉu thôi.” Trương Nhã Lâm giải thích với giọng điệu hơi căm ghét: “Theo như trong sách, nơi có oán sát càng nặng sẽ càng dễ sinh ra mấy thứ này. Bởi thế đôi khi sẽ có mấy con, thậm chí là mấy chục con, bò ra ở trong lồng xoáy khủng hoặc những nơi phiền phức hơn. Giết chết thì vẫn còn, chúng luôn không thể bị tiêu diệt sạch sẽ.”

“Mà nói thế cũng không phải. Tuy bản thân chúng đúng là vật dơ bẩn, nhưng đôi lúc vẫn có thể có những công dụng đàng hoàng.” Trương Lam bổ sung, “Con cũng đã thấy chúng tìm người tìm vật gì cũng rất lợi hại mà. Đương nhiên, điều kiện tiên quyết là không thể hại người.”

Trương Nhã Lâm lộ ra biểu cảm không tán đồng cho mấy, nhưng xét việc đối phương là chị ruột của mình, nên hắn không há mồm bác bỏ.

Vả lại, ngoại trừ người sống khá lạc hậu như hắn, giờ sau khi bắt được huệ cô, có rất nhiều Phán Quan không giết chết luôn mà sẽ mượn bản tính ăn vụng linh tướng và linh vật của chúng để tìm lồng hoặc giúp vội chuyện khác. Sau đó, họ sẽ giải quyết chúng hoặc bán tới mấy tiệm đồ tâm linh để người ta xử lý trước khi chúng gây ra nguy hiểm.

Chỉ cần nắm chắc mức độ thì không phải là vấn đề to tát gì cả.

Nhưng Trương Nhã Lâm vẫn không thể chấp nhận điều đó, có lẽ do có thói ở sạch.

Hạ Tiều chẳng hề nghĩ gì về sự bất đồng ý kiến giữa hai chị em họ, chỉ cảm thấy cái thứ huệ cô này khiến cậu cảm thấy rất khó chịu. Ba con vẫn không đến nỗi, nhiều thế làm cho người ta tê rần cả da đầu.

Mà với cảnh tượng ngoài cửa như vậy, đừng nói là mấy trăm con… quả thực chúng đã lan tràn cả thôn mất rồi.

“Nếu đã nói thế, chẳng phải thôn này còn nghiêm trọng hơn cả lồng xoáy nữa hả?” Hạ Tiều nói thì thào.

“Đúng vậy, nên mới nói cái lồng này thực sự khá bất thường.” Trương Lam dìu Chu Húc đang choáng váng nằm xuống sô pha, nhịn không được lẩm bẩm một câu, “Lồng của người thường có bao giờ trông như thế này đâu…”

Mặc dù bà cô này kinh nghiệm đầy mình, nhưng cô luôn có gì nói nấy, chưa từng lên mặt hoặc cố ý nói giảm nói tránh bất cứ phiền toái nào cả.

Trương Nhã Lâm cầm ra một cái thau từ trong nhà bếp, nhét vô lồng ngực của Chu Húc, ngồi xuống một bên trên sô pha, thanh lịch chỉ vào thau và bảo: “Con ói vào trong đó, đừng có chĩa về phía chú.”

Đầu lưỡi của Chu Húc đều đã ọe đến nỗi dài thòn, nhưng vẫn không thể nôn ra bất cứ thứ gì. Nó thở hổn hển như một chú cún, ôm thau nói với giọng điệu yếu ớt nhưng lại chết vì sĩ diện: “Tại trước đó con bị cảm thôi, nếu không sẽ không thành ra như vầy đâu.”

Ở đây, ngoài nó ra, không ai có phản ứng gay gắt đến thế. Ngay cả cậu chàng Hạ Tiều lá gan nhỏ hơn con gà còn đang đứng bình thường đằng kia cơ mà.

“Thôi con bớt đi, không bị cảm thì con vẫn sẽ như thế này thôi.” Bà cô nhà họ Trương dỗi nó một câu rồi lại xoa đầu nó bảo: “Haiz, trách dì thôi. Đúng ra dì phải tìm Đại Đông giúp đỡ mình chuyện vào lồng này, không nên bắt con tới đây để ——”

Trương Nhã Lâm vừa dùng sức hắng giọng vừa liếc sang bóng dáng của Văn Thời một cái, nhắc nhở chị mình làm ơn chú ý lời nói giùm cái.

Trương Lam nuốt ngược hai chữ ‘dẫn đường’ vô họng, sửa lời rằng: “Hoặc phải trách Tiểu Hắc vì đã tính ra cái quẻ chó má gì đó, nếu không dì cũng đâu ——”

Trương Nhã Lâm hắng giọng một lần nữa, bà cô lại sửa miệng, chỉ vào Chu Húc và nói: “Dù sao thì với thể chất này của con, có thể không vào lồng thì cứ đừng vào con nhé. Linh tướng của con không ổn định như người thường, quá dễ gặp phải bất trắc. Hèn gì chị Bích Linh lại cản không cho con đi. Sau khi thoát khỏi lồng này, dì còn phải dẫn con đi xin lỗi chị ấy nữa.”

Vừa nghe cô nói thế, Chu Húc nhất thời bật dậy: “Mẹ con nói khoa trương thôi dì ơi! Mẹ nói vậy chỉ vì gần đây con đã vào ba cái lồng rồi thôi. Nhưng chẳng phải con vẫn nhảy nhót tung tăng đó sao? Dì nhỏ, dì không thể xài con xong rồi ——”

Trương Nhã Lâm trợn trắng mắt lên, hắng giọng lần thứ ba.

“Đừng tằng hắng nữa, phí giọng quá, cũng chẳng thể nghe rõ.” Tạ Vấn ngồi xuống một chiếc sô pha, thuận tay đẩy cái ly không tới trước mặt hắn và bảo, “Không thôi chú đi rót một ly nước để uống đi.”

Trương Nhã Lâm: “…”

So với Trương Lam, hắn giống như tiểu thư khuê các hơn: ngoại trừ giải lồng, ngày thường không ra ngoài, chẳng bước tới cửa trong nổi, cơ hội tiếp xúc với Tạ Vấn càng chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay, dù sao thì cũng không nhiều bằng bà cô họ Trương.

Cả hai đều khách khí và xa cách vào lần chạm mặt duy nhất, hiếm khi lại được tiếp xúc ở khoảng cách gần như thế này mà chưa gì đã bể đài.

Nhưng Trương Nhã Lâm là kẻ đã từng va chạm trong xã hội, không đến nỗi dễ sụp đổ khỏi đài như thế. Hắn cứng mặt nói thêm: “Gần đây trời nóng ẩm quá, chú chỉ bị viêm họng thôi.”

Văn Thời đứng bên cửa sổ cuối cùng cũng để màn xuống, xoay người đi về phía sô pha. Anh nói mà chẳng thèm ngước mắt lên: “Heo cũng từng đuổi theo rồi, còn bảo là viêm họng gì nữa không biết.”

Trương Nhã Lâm: “…”

Nếu Tạ Vấn là một vai chính sắm vai một kẻ phá đám thờ ơ, thế thì vị này chính là người cầm thuốc nổ đi theo để kích nổ.

Có lẽ do anh nói chuyện quá thẳng thắn, Tạ Vấn nghe mà cười liền, nghiêng đầu ho khù khụ một lát.

Cười quần què.

Văn Thời lướt nhìn một vòng, sô pha dài nhất bị Trương Lam, Chu Húc và Hạ Tiều chiếm mất, một chiếc sô pha đơn bị Trương Nhã Lâm giành đi, cái còn lại thì Tạ Vấn đang ngồi.

“Tôi nhường ghế cho cậu nhé?” Tạ Vấn ngoảnh lại, chỉ nhìn một cái đã biết anh đang cân nhắc điều chi.

Ai dè vừa định đứng dậy, hắn đã bị Văn Thời từ chối.

“Không cần.” Anh khẽ nói một câu rồi ngồi lên tay vịn trên ghế của Tạ Vấn.

Tay vịn rất rộng, cũng không cao lắm, tạm thời trở thành một chỗ ngồi thì cũng vô cùng bình thường. Anh định hỏi xem hai chị em Trương Lam theo đuôi họ làm gì, nhưng khi ngồi xuống thật lại cảm thấy vị trí này hơi vi diệu.

Nhưng lúc này mà lại đứng dậy thì chỉ càng vi diệu hơn thôi.

Vì thế Văn Thời vừa tháo dây rối đang quấn trên ngón tay ra vừa ngồi yên.

Rõ ràng so với anh, Trương Nhã Lâm ngồi đối diện càng không ngồi yên nổi nữa. Đa số người mà hai chị em họ từng tiếp xúc trước đây đều thuộc phái khéo lời, dù bản tính là bộc trực thì cũng sẽ thu liễm trước mặt họ chút đỉnh, chẳng mấy ai được như Văn Thời đâu.

Trương Nhã Lâm lúng túng suốt nửa buổi rồi dứt khoát mở lời: “Cách làm này của tụi chú có phần mạo muội, nhưng đúng là chỉ vì quá tò mò thôi.”

“Tò mò về điều gì?” Văn Thời kéo dây rối ngẩng đầu.

“Tò mò tại sao thực lực của con không tầm thường như thế mà tên lại không lên nổi bức danh phả.” Trương Nhã Lâm suy nghĩ rồi nói, “Tò mò rốt cuộc kỳ tài ngút trời của con toát ra từ đâu.”

Văn Thời: “…”

Người này ăn nói quá nghiêm túc, nhưng lại thoang thoảng đâu đó mùi chua chua. Anh nghe không quen tai lắm, nên trả lời một cách cứng rắn: “Không phải kỳ tài ngút trời gì cả, nhờ tôi đã học rất nhiều năm thôi.”

Lời này vốn không phải giả, nên Văn Thời nói nghe rất chân thật và thản nhiên.

“Về phần vì sao không có tên.” Văn Thời nhíu mày bảo, “Hỏi bức tranh của nhà chú đi.”

Thực ra anh không nghĩ ra cớ, nên mới ném câu hỏi ngược về. Nhưng bởi cái nhíu mày kia, lời nói ấy lại làm cho một người ăn nói khéo léo và biết giảm tránh nhiều điều như Trương Nhã Lâm cảm thấy anh có phần oán trách và bất mãn.

Thế nên hắn đã hiểu thành không phải tâm tư của đồ đệ Thẩm gia này sâu xa và có điều giấu giếm gì, mà là bức tranh thực sự có vấn đề.

Xét thấy sau này bức danh phả cũng bị sửa lại bằng chính tay Trương gia, nên không hiểu sao Trương Nhã Lâm lại hơi đuối lý, vô tình rơi vào thế yếu.

“À phải rồi, chú vừa thấy con thả rối ra, hình như gần giống với Đằng Xà nhỉ?” Trương Nhã Lâm nói.

Hắn vẫn nói chuyện uyển chuyển như thế, bảo là ‘gần giống với’ thôi chứ thực ra vẫn có một vài điểm khác biệt. Ví dụ như Đằng Xà của đại đồ đệ Thẩm gia không có cánh và lửa chảy quanh người, tối đa chỉ là vảy hơi đỏ hệt như đốm lửa không thể bốc cháy thôi.

Điều quan trọng nhất là lần này hắn đã tận mắt nhìn thấy xiềng xích quấn quanh người con mãng xà ấy, nhưng mà xiềng xích lại ít hơn so với đại đa số rối sư.

Đó là đã cực kỳ, cực kỳ lợi hại rồi. Quả thực Trương Nhã Lâm chỉ từng gặp được một hoặc hai người như vậy trong đời.

Chẳng trách cái dòng của Thẩm gia lại có thể nhảy lên và sóng vai với hắn.

Nhưng vẫn còn kém xa người đã thực sự sử dụng Đằng Xà.

Trương Nhã Lâm cầm theo kính lọc 8000 mét và vài phần lý trí để nhìn thấu điểm khác biệt như trời với đất giữa đại đồ đệ Thẩm gia và thần tượng.

“Dù con có chê cười đi chăng nữa, chú vẫn phải nói câu này. Mấy hôm trước, chú nghe Đại Đông và Tiểu Húc hình dung con rối của con mà vô thức nghĩ tới một người.”

Để giảm bớt sự xấu hổ cũng như khiến bọn Văn Thời buông lỏng đề phòng, Trương Nhã Lâm dứt khoát tiết lộ hết những điều mình đã chôn giấu trong lòng, “Con đã học rối thuật thì chắc chắc phải biết con rối mà vị lão tổ năm đó thường dùng nhất cũng là Đằng Xà rồi đấy.”

“Đương nhiên, tuy Phán Quan tu được tuổi thọ dài hơn so với người thường, nhưng cũng không thể trốn khỏi chuyện sống chết. Ngài ấy cũng là người thuộc hàng tổ sư, dẫu đã đi xuống suối vàng tựa như những vị lão tổ khác. Người chết như đèn tắt thôi.” Trương Nhã Lâm nói rất lịch sự và đứng đắn: “Nhưng nói không chừng con chính là đời sau hoặc chuyển kiếp của ngài ấy đấy.”

Với tư cách là một bà cô thị phi, Trương Lam đúng lúc xen vào một câu: “Người ta thành thân chưa mà đã có đời sau…”

Trương Nhã Lâm im lặng một giây, xoay đầu nhìn chị mình: “Đương nhiên em biết là chưa rồi.”

“Sau này ngẫm lại cảm thấy phản ứng ngay lúc đó của chú khá là buồn cười.” Trương Nhã Lâm lại quay đầu nói với Văn Thời, “Nhưng thực lực của con bày hẳn ra đó, chú và chị chú không nhịn được mà muốn tới xem. Nghe chị chú nói trước đây từng có chút hiểu lầm với con, tụi chú muốn mượn cơ hội này để tiếp xúc với con nhiều hơn. Nếu có thể trở thành bạn với nhau, thì đương nhiên không còn gì tốt hơn nữa.”

Có lẽ do muốn kết bạn, Trương Nhã Lâm chọn lấy góc độ bảo thủ nhất, bắt tay vào sở thích trước tiên ——

Hắn nghĩ về con Đằng Xà kia rồi hỏi Văn Thời: “Vậy ra con cũng rất thích vị lão tổ kia hả?”

Chữ ‘cũng’ này nghe rất ư là linh.

Thứ càng linh hơn chính là thói quen phá đám thằng em của bà cô họ Trương, cô ngồi kế bên bổ sung: “Thích tới mức giữ lại mấy thứ thuộc về vị lão tổ kỳ tài ngút trời kia và xem chúng là bảo bối, sớm tối đều thắp nhang vấn an, ra khỏi nhà còn phải mang theo bên người nữa.”

“…”

Văn Thời nghe thế mà trực tiếp tê rần.

Nhưng Tạ Vấn lại chợt mở miệng bảo: “Tôi rất tò mò, chú giữ lại thứ gì của vị… tổ tông kỳ tài ngút trời kia và coi chúng như bảo bối thế?”

Mặc dù dán hai chữ lão tổ này lên dáng vẻ trẻ trung của Văn Thời thì đúng là không thích hợp, nhưng đổi thành tổ tông lại mang đến một ý nghĩa sâu xa khác.

Nhất là hai chữ đó lại được thốt ra từ trong miệng của Tạ Vấn.

Văn Thời hơi vân vê vành tai của mình.

Song chỉ nghe Trương Lam đang bán đứng em trai mình: “Cành khô, sợi bông, và ngón tay.”

Văn Thời: “…”

Anh lẳng lặng nhìn ngón tay của mình một cái, thực sự không nhịn nổi phải nói với Trương Nhã Lâm: “Bộ chú có thù oán gì với hắn hả?”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.