Xuân phong lí, chi thượng lục xuất đầu, đạp thanh giao lí ngôn xuân ý, tiếu đông phong.
Tao đầu vi đãng, hồi mâu xử, hàm tình vô ngữ, nhãn ba dạng, luyến thiều hoa.
Bên phía Đông thành là nơi cư ngụ của thế gia đại tộc, quan lớn quyền quý. Người nơi đó sống kiểu quần cư, cửa son đài cao, hùng vĩ đại khí, phủ đệ một tòa san sát một toà, đình viện vừa dài vừa rộng, diêm giác (mấy cái sừng ở mái hiên) ở mỗi nhà đều nặng. Có sư tử đá đứng canh cửa, đại môn sơn son thiếp vàng, hiển lộ thân phận cao quý của nhân gia.
Giữa các tòa phủ cao môn thâm viện, khiến người chú ý nhất chính là một tòa gia trang cao lớn nằm chệch về hướng Đông một chút, không phải bởi vì nó gần hoàng thành nhất, càng không vì nó sâm nghiêm uy vũ, mà bởi chủ nhân của tòa gia trang đó chính là đương kim tướng quốc.
Tướng quốc Triệu đại nhân, tướng quốc Triệu Hi.
Đương thời, không ai là không biết đại danh của Triệu Hi, mười năm về trước, khi hắn mới vừa nhược quán (20) thì đã giành bảng vị Trạng Nguyên, độc chiếm ngôi đầu, làm oanh động cả kinh thành. Tiên hoàng tán thưởng tài năng của hắn, càng thêm tín nhiệm. Đường công danh của Triệu Hi cứ thế rộng mở, một đường thăng chức không ngừng, trong vòng mười năm, hắn lập nên khai phong phủ doãn, duy tân lại phương thức làm việc, xử án, cho dù là Binh Bộ Thị Lang hay hình ngục Án Sát Sử, vô luận là quan chức nào, trong lúc hắn tại chức, cũng đều có tiếng có tài, được tiên hoàng khen ngợi, Đông Cung thái tử lúc ấy, nay là Thánh Thượng đối với hắn ưu ái có thừa, trong vòng mười năm ngắn ngủi, hắn đứng trên đỉnh núi công danh lợi lộc mà nhân sinh vẫn mãi theo đuổi.
Tường thái năm thứ hai, Triệu Hi lên làm Tướng quốc, dưới một người trên vạn người, hưởng hết phong lưu.
Hiện giờ, Triệu Hi là đại nhân vật có quyền khuynh thiên hạ, một nửa quan viên trong triều đều là môn hạ của hắn. Quyền thế nắm vững trong tay, ai muốn điều động quan viên đi nơi nào đều phải có được sự chấp thuận của hắn. Trong kinh thành, không người nào là không biết uy danh Triệu Hi, hơn nữa, mọi người càng sùng kính hắn. Bởi vì, tuy thân phận hắn hiển hách, nhưng thái độ làm người hợp lễ, cho tới bây giờ cũng chưa từng dung túng hạ nhân làm ác, hoàn toàn bất đồng với các quan viên quyền to chức trọng khác. Nhắc tới Triệu tướng quốc, ai ai cũng gật đầu liên tiếp, đều nói là vì hắn nên kinh thành mới có thể an bình như thế, thậm chí còn có lão nhân gia vì hắn mà lập bài vị trường sinh.
Triệu phủ ——
Đây là một gian thư phòng được trang trí cực kỳ tao nhã, rộng rãi sáng ngời, giữa tường là một bức thanh lục sơn thủy (tranh sơn thủy màu xanh), phía bên trái là một loạt các giá sách làm từ gỗ đàn hương, các thư hạp lam sắc mỏng có chứa thư quyển bên trong được sắp xếp ngay ngắn theo thứ tự, bên cửa sổ thì an trí một đại thư trác (bàn), trên bàn có đặt nghiên mực, bút giá, và các dụng phẩm cần thiết, các bình hoa mai thanh nhã được đặt trên giá hoa làm bằng gỗ tử đàn ) bên cạnh thư trác, bên trong cắm một nhành tịch mai mảnh dẻ, e lệ khoe sắc.
Không khí tĩnh lặng thoang thoảng hương mai nở làm dịu lòng người tràn ngập khắp cả thư phòng, phía sau thư trác, có một người nam nhân đang đề bút tả tự (viết chữ).
Đột nhiên ở gian ngoài truyền đến thanh âm huyên náo.
Bút phong chợt ngừng một chút rồi tiếp tục tung hoàng.
“Ôn tướng quân, thỉnh ngài chờ một chút, ta lập tức bẩm báo Tướng gia! A, xin ngài đừng xông loạn a. Ôn tướng quân, đừng làm khó dễ tiểu nhân, ai, Ôn tướng quân ——” rõ ràng là ngăn cản không được.
Cánh cửa vô lễ mở ra, Triệu Hi không hề kinh hãi, vẫn tiếp viết cho xong chữ cuối cùng, sau đó hắn gác bút, nhìn cái tên vô lễ bất lịch sự tự tiện xông vào nhà người khác kia, “Thanh Hạc, ngươi hồ nháo cái gì?”
Giao tình giữa hai nhà vốn không bình thường, nói một cách ngắn gọn thì, Ôn Thanh Hạc vừa là môn hạ của Triệu Hi, vừa là người mà hắn trông lớn lên, bởi vậy ngữ khí thập phần ôn hòa.
“Tướng gia, hạ quan đến đây chỉ muốn xin uống một chén trà thôi.” Ôn Thanh Hạc cười hì hì nói.
“Ngươi uống trà ở Hàm Hương Viện còn chưa đủ hay sao?”
Một câu nói nhẹ nhàng bâng quơ của Triệu Hi làm cho Ôn Thanh Hạc cả sắc mặt đều thay đổi, “Người nào nói cho Tướng gia biết thế?”
“Tình yêu giữa ngươi và hoa khôi đầu bảng của Hàm Hương Viện, trong thành Đông kinh này không ai mà không biết, không ai mà không hiểu?” Lời hắn nói vẫn vân đạm phong khinh.
“Vậy —— đại ca của đệ cũng biết?” Sắc mặt Ôn Thanh Hạc kịch biến, tái nhợt hẳn đi.
“Ngay cả ta cũng biết, vậy thì ngươi nói thử xem?” Triệu Hi cố tình nói không rõ ràng.
“Khổ rồi!” Hắn la to, kêu khổ thấu trời, tuy Ôn Thanh Hạc là tướng quân của một nước, kẻ địch vừa nghe danh đã vỡ mật, nhưng trước mặt đại ca, hắn vĩnh viễn chỉ là một tiểu hài tử, đại ca hơn hắn mười tuổi, từ nhỏ đã quản giáo hắn nghiêm ngặt, hiện giờ nếu biết hắn qua lại thân mật cùng với nữ tử thanh lâu, hắn bị trách mắng thì chỉ là chuyện nhỏ, chỉ sợ đại ca sẽ làm chuyện gì không hay với Tuyết Yên mà thôi!”Không được rồi, không được rồi, đệ phải mau mau chạy đến giải thích với đại ca!”
“Ngươi tính giải thích với hắn là ngươi đối với nữ tử kia chỉ là vui chơi qua đường?” Chỉ một câu nói thản nhiên lại ngăn cản được cước bộ của tên kia.
Ôn Thanh Hạc ngừng một chút, khổ não kêu lên: “Tướng gia ——”
“Nếu ngươi không có ý định nói những lời này, thì đừng có đi gặp đại ca ngươi làm gì cho phí công, ngươi cũng biết tính cách hắn ra sao mà.” Triệu Hi lắc đầu, hảo hữu kia của hắn, đầu óc cổ hủ như tượng đá, một khi hắn biết tiểu đệ mình yêu thượng thanh lâu nữ tử, không kiếm cách chia rẽ bọn họ mới là lạ.”Ngươi yên tâm, hắn còn chưa biết, không ai dám nói với hắn.”
Ôn Thanh Hạc thở phào nhẹ nhõm, xoay người ngồi xuống, “Vậy thì tốt rồi.”
“Đệ đối với nữ tử kia là thật tâm hay sao?” Triệu Hi nhẹ nhàng cười nói.
Trầm mặc một chút, hắn gật gật đầu, “Tuyết Yên thật ra là một nữ tử rất rốt, tuy rằng nàng xuất thân phong trần, gần bùn mà không nhiễm bẩn, rất đáng để ngưỡng mộ, nếu có thể, đệ hy vọng thuyết phục được đại ca cho đệ thú nàng nhập môn.”
“Đại ca đệ sẽ không đồng ý.” Không phải là đả kích hắn, Triệu Hi thật sự không biết là thế gia có mấy trăm năm căn cơ kia có thể cho phép nữ tử phong trần nhập môn
“Đệ biết, nhưng đệ sẽ không từ bỏ đâu.” Ôn Thanh Hạc kiên định nói, rồi vẻ mặt lập tức biến đổi, “Tướng gia, đệ hôm nay đến tìm huynh là có việc khác cơ.” Hắn từ trong lòng xuất ra một chỉ thư, vết mực chỉ vừa mới khô, “Người xem từ này viết như thế nào?”
Triệu Hi tiếp nhận, mở ra, lướt qua chữ viết ở trên mặt, lập tức ngâm ra tiếng:
Xuân phong lí, chi thượng lục xuất đầu, đạp thanh giao lí ngôn xuân ý, tiếu đông phong.
Tao đầu vi đãng, hồi mâu xử, hàm tình vô ngữ, nhãn ba dạng, luyến thiều hoa.
Gió xuân mơn mởn thổi, chồi non e ấp nở, thanh minh đi lễ đạp thanh, xuân tình dạt dào, trong gió xuân thoảng tiếng cười miên man.
Ngượng ngùng gãi đầu, ngoảnh nhìn lại chốn ấy, tình ý tràn đầy mà chẳng thốt nên câu, đôi mắt khẽ xao động, lưu luyến cảnh xuân.
Chỉ một khuyết từ (đoạn thơ) thôi mà đã kể rõ tâm tình ẩn ý của thiếu nữ, tựa hồ có thể thấy ngày đó có cô thiếu nữ kia y phục thướt tha, mày ngài điểm phấn, ở vùng quê ngoại thành, trong tiết thanh minh se se lạnh, đi dự hội đạp thanh, bất chợt duyên nợ sao nàng gặp được thiếu niên mà nàng đã thầm ngưỡng mộ, tâm động nhưng lại khó mở lời.
“Tướng gia, như thế nào?” Ôn Thanh Hạc nhìn thấy Triệu Hi có vẻ thất thần bèn hỏi.
“Là ai viết đây?” Triệu Hi phục hồi tinh thần lại.
“Là từ một lạc đệ thư sinh (thư sinh thi rớt), giờ đang điền từ cho các cô nương ở Hàm Hương Viện.” Ôn Thanh Hạc nói.
“Tài hoa hiếm thấy, thế nhưng vì sinh kế mà phải viết từ cho các nữ tử thanh lâu, thật uổng tài a.” Hắn thở dài: “Đúng rồi, đệ nói y là lạc đệ thư sinh, y tham gia khoa kỳ năm nào, năm nay gọi hắn đến khảo thí lại đi.”
“Tướng gia, ngài là chủ khảo năm trước phải không?” Ôn Thanh Hạc cố ý hỏi.
“Đệ biết rõ còn hỏi?” Triệu Hi liếc Ôn Thanh Hạc một cái.
“Vậy thì chắc người cũng biết thư sinh này? Là Chung Nhuận mà năm trước người hạ một bút gạch bỏ tên y ra khỏi bảng vàng đó!” Một câu của Ôn Thanh Hạc làm chấn kinh Triệu Hi.
“Là y?” Triệu Hi nhíu mày, hắn còn nhớ rõ tên thư sinh cuồng vọng kia, y dám tại lâu lý, không kiêng nể gì ai mà bình luận thời cuộc, vừa vặn bị hắn nghe thấy, tâm sinh chán ghét, vì thế lúc khảo quan trình lên danh sách thí sinh nhập đệ (đậu), hắn liền lập tức vạch ngang danh phong của y.”Tên thư sinh cuồng ngạo kia à!” Hắn bực mình quăng chỉ thư lên bàn.
“Tướng gia, người này ta đã gặp, từng cùng y đàm đạo, tuy rằng Chung Nhuận tư tưởng không kềm chế được, nhưng quả thật y là người có tài, Tướng gia vốn khoan dung độ lượng, ai ai cũng đều bội phục, ngược lại đối với y, sao người lại không thể rộng lòng tha thứ?” Ôn Thanh Hạc thẳng thắn mà nói.
“Không cần phải nói nữa, người này ta thật sự không muốn dùng.” Triệu Hi rõ ràng không muốn nói tiếp.
Ôn Thanh Hạc trong lòng thở dài, hắn vốn nghĩ muốn giúp Chung Nhuận giải trừ thành kiến của Tướng gia, không thể ngờ được vẫn là phí công.“Đúng rồi, Thanh Hạc, thư sinh mà ta nhờ đệ thăm dò có tin tức gì không?” Triệu Hi nhớ tới một việc, nghiêng người thân thiết hỏi han.
Ôn Thanh Hạc lắc đầu, “Thư sinh tá túc tại Hàn Sơn Tự không đến một ngàn thì cũng có tám trăm, người mà huynh muốn tìm, tuy rằng tướng mạo xuất chúng, nhưng đêm đó khi y tới trọ, thì trời đã khuya, chỉ có một, hai tiểu hòa thượng gặp qua hắn, sắc trời lại quá mờ, thấy không rõ khuôn mặt, giả sử bây giờ gọi bọn họ đi nhận người thì cũng không nhận ra được.”
Hắn thất vọng đến cực điểm, tuy đã biết trước cơ hội tìm được y là rất nhỏ, nhưng hắn vẫn có chút thất vọng, ngơ ngẩn hẳn ra, “Chẳng lẽ là vô duyên tương thức?” Hắn nói nhỏ.
“Tướng gia, ngài thật sự không nhớ rõ bộ dáng của người nọ?” Ôn Thanh Hạc lại hỏi. Ngay cả người kia nhìn ra sao cũng không biết thì làm sao tìm được người ta?
Hắn lắc đầu, “Lúc ấy ta thấy y đứng dưới đèn, ánh đèn hôn ám, chỉ mơ hồ thấy được diện mạo y, bảo ta tả tỉ mỉ thì ta không biết phải tả ra sao, nhưng là nếu cho ta gặp lại, thì ta chắc rằng mình có thể nhận ra y.”
“Vậy thì khó lắm đây.” Ôn Thanh Hạc thở dài nói: “Có lẽ thư sinh kia đã không còn ở kinh thành.”
“Sẽ không đâu.” Triệu Hi phủ quyết, “Người kia tới là để đi thi, với tài hoa của y thì không lý nào lại không nằm trong bảng cao trung? Nhưng ta đã tra khắp bảng tiến sĩ, lại không thấy y, chẳng lẽ y có việc nên không thể tham gia khảo kỳ?” Hắn suy đoán nói.
Ôn Thanh Hạc không nói gì, gian khổ học tập suốt mười năm, chỉ để được đề tên bảng vàng, nếu không phải vì nguyên nhân bất thường nào, thì không có ai dám bỏ phí cơ hội. Tên thư sinh kia không tham gia khảo kỳ, có thể là do gia môn hắn có việc gấp, cũng có thể bởi vì thân mình không tốt nên mới không thể tham gia, dựa theo lời nói của Tướng gia thì người kia tá túc ở Hàn Sơn Tự, một thân một mình, thế nên có lẽ trong túi y không có nhiều tiền, ở kinh thành cũng không thân thích bằng hữu chi, mùa đông ở nơi đây rất bệnh, nếu sinh bệnh cấp tính thì, không —— không! Hắn lắc đầu, xóa đi ý nghĩ này.
Có lẽ còn một khả năng khác, hoặc là y tham gia cuộc thi, nhưng bởi vì nguyên nhân nào đó mà danh lạc Tôn Sơn, nghĩ như vậy, có một ý niệm rất nhanh nổi lên trong đầu hắn, nhưng chỉ trong chớp mắt, đợi đến khi hắn muốn nắm bắt nó, thì làm cách nào cũng không thể nhớ lại được.
“Thanh Hạc, ngươi cố gắng tìm lại thử xem, có khi đã bỏ sót đâu đó chưa xét sao.” Triệu Hi nói, ngay cả hắn cũng không rõ ràng vì sao chính bản thân lại khó có thể quên thư sinh mà mình ngẫu ngộ trong đêm đông giá lạnh kia. Sớm biết như thế, hắn nhất định sẽ kêu y, để y quay lại nhìn mình, cho dù sẽ bị y oán giận, nhưng thế còn tốt hơn là không biết tung tích của người ta.
Triệu Hi thở dài, hắn cứ bần thần, nhớ mãi không thôi đối với một tên thư sinh ngay cả tên mà cũng còn không biết, coi như là việc lạ.
Ôn Thanh Hạc yên lặng gật đầu.
“Ôn ca ca, huynh đã về!” Đột nhiên từ ngoài cửa sổ vang lên thanh âm kiều mỹ, y giác màu vàng nhạt chợt lóe lên, cửa thư phòng bị đẩy mở ra, một thân ảnh tiếu lệ xông vào.
“Tử Nhi?” Ôn Thanh Hạc ngạc nhiên tiếp lấy thân người đang nhào tới.
Nữ tử xinh đẹp động lòng người phát ra tiếng cười thanh thúy tựa chuông bạc, “Ôn ca ca, đã lâu không gặp!”
“Đúng vậy.” Hắn nhìn Triệu Tử Nhi từ trên xuống dưới, “Mấy tháng không thấy, tiểu cô nương nay đã biến thành tiểu nữ tử tú lệ rồi nha!”
Triệu Tử Nhi che miệng cười mỉa, “Miệng Ôn ca ca ngọt như vậy, chả trách có thể cướp đi tâm của hoa khôi tỷ tỷ ở Hàm Hương Viện!”
Mặt hắn đen một nửa, làm sao tất cả mọi người đều biết vậy?
Triệu Hi ho nhẹ một tiếng, cảnh cáo, “Tử Nhi, không được ăn nói lung tung!”
Nàng nhẹ bĩu môi, nhưng vẫn khiếp sợ trước uy nghiêm của huynh trưởng, nhỏm dậy từ trong lòng ngực của Ôn Thanh Hạc, Tử Nhi đứng qua một bên, bất chợt, nàng thấy được chỉ trương nằm trên thư trác. Tính tò mò lại nổi lên, Tử Nhi cầm lấy nó, hóa ra là một khuyết từ, trong lòng khẽ niệm, “Đại ca, đây có phải là từ do Chung Nhuận viết hay không?” Sau khi ngâm qua hai lần, nàng đột nhiên hỏi.
“Sao muội lại biết?” Triệu Hi có chút giật mình.
“Từ này rất hay! Mỗi khuyết từ mà y điền, muội đều có, từ của y vừa uyển chuyển hàm súc lại vừa thanh tân động lòng người, thật sự rất muốn được gặp y một lần, Triệu Tử Nhi tiếc nuối, mộng tưởng lại nổi lên, “Vì để thấy được mặty, muội còn trộm phẫn nam trang chạy tới Hàm Hương Viện, đáng tiếc y không gặp ngoại nhân ——” Chết rồi! Nàng vội che miệng lại, kinh hãi lén nhìn ca ca đang đứng một bên, quả nhiên, khóe miệng ca ca trầm xuống. Không xong!
“Tử Nhi,? Càng ngày muội càng làm càn, mau trở về phòng! Tháng này cũng không được phép xuất môn!” Thanh âm Triệu Hi trầm xuống.
“Đại ca ——” nàng khóc thét ra tiếng.
“Còn hồ nháo nữa thì ta sẽ đưa muội quay về Kim Lăng.”
Một câu nói lạnh lùng làm cho nàng ngoan ngoãn thu hồi lại kháng nghị. Tuy rằng đại ca sủng nàng, nhưng cũng không cho phép nàng thách thức uy nghiêm của hắn. Tử Nhi nhìn về phía Ôn Thanh Hạc, nhãn tình cầu xin giúp đỡ, ai ngờ thần sắc hắn băn khoăn, cúi gầm mặt xuống, không biết là đang suy nghĩ cái gì mà không chú ý đến nàng khiến nàng mất hứng, cắn môi hờn dỗi.
Triệu Hi nhướng mày...
Chung Nhuận!
Đến tội cùng thì ngươi là nhân vật như thế nào?
Một tên thư sinh cuồng ngạo vô lễ, thế nhưng làm cho Ôn Thanh Hạc tâm phục, làm cho Tử Nhi mê muội. Xem ra hắn thật sự không thể không gặp y được, hắn thật muốn biết, tên học trò cuồng ngôn ở tửu lâu ngày ấy, tự xưng mình thanh cao, không ham muốn công danh lợi lộc như những kẻ trên chốn quan trường kia có điểm nào bất đồng với người khác!
Tối ngày hôm ấy, Hàm Hương Viện vẫn náo nhiệt như thường, nhưng bên trong hậu viện của Phiêu Tuyết Lâu lại đắm chìm trong an tĩnh, trong bóng đêm tịch mịch, cầm thanh ca thanh thoang thoảng vọng đến, như có như không, càng khiến cho tiểu lâu nơi đây tăng thêm vẻ cô độc cùng phiêu dật.
Tuyết Yên thân thể không khoẻ nên đã sớm ngủ, chỉ còn lại có Chung với Ôn Thanh Hạc mới ghé thăm hồi nãy, nhấp rượu đàm đạo.
“Ha ha, không thể ngờ được chuyện xưa của hiền đệ thú vị như thế.” Ngồi nghe Chung Nhuận kể lại những chuyện vui thú lúc nhỏ, Ôn Thanh Hạc không khỏi ôm bụng cười to.
Nhẹ rót một ly rượu cho chính mình, Chung Nhuận cười khẽ, nhớ tới đứa trẻ thuở thơ ấu sống với đồng ruộng, chuyên môn lỗ mãng chỉ thích đi gây sự vẫn cảm thấy thật hưng thú.
Cười xong rồi, hai người lại bàn chút chuyện phong hoa tuyết nguyệt, thi từ nhã phú, rồi từ từ đề tài chuyển tới phương diện kinh tể trì quốc.
“Hiền đệ, kỳ thật ta có xem qua văn chương của đệ.” Ôn Thanh Hạc đột nhiên nói.
Bàn tay đang cầm chén rượu chợt dừng một chút, Chung Nhuận nhất thời không hiểu ý trong lời nói của hắn.
“Là quyển tử của đệ năm rồi.” Ôn Thanh Hạc nói thêm.
“Nga, nguyên lai là cái đó.” Uống một hơi cạn sạch, y buông chén rượu.
“Thiên văn kia đệ viết rất tốt, văn tự trôi chảy, diễn đạt ngắn gọn, chỉ có những câu châm biếm không thích hợp lắm, khảo quan xếp đệ vào ba danh đầu trong giáp, danh sách đợi chờ hậu tuyển.”
Kỳ thi năm trước, Chung Nhuận nguyên tưởng rằng chính mình sẽ căm phẫn không thôi, ban đầu y rất tự mãn, cho rằng mình một bụng đầy kinh luân thì danh hàm tiến sĩ là không thành vấn đề, không thể ngờ đến lúc hoàng bảng được đăng, bản thân danh lạc Tôn Sơn, khiến người khác khinh thường, chưởng quầy khách điếm trở mặt vô tình, trong cơn bão tuyết mịt mù, đuổi y ra khỏi quán, thiếu chút làm cho y chết đông trong tuyết. Ký ức đau đớn bất kham là thế, nhưng hiện giờ nghĩ lại, tựa như thoáng qua, không đáng nhắc tới.
Thấy Chung Nhuận không phản ứng, Ôn Thanh Hạc mới yên lòng tiếp tục nói: “Chủ khảo năm trước chính là đương kim tướng quốc Triệu đại nhân, huynh là môn hạ của người, danh sách đưa tay Triệu đại nhân lại bị bác bỏ, đệ cũng biết là vì cái gì?”
“Văn của đệ không hợp với ý của đại nhân?” Từ miệng của người khác, y đã sớm biết được tướng đại nhân có thành kiến với y, nhưng không biết thành kiến này từ đâu mà tới. Y thở dài, cho dù nói là không để ý, nhưng phân tục tâm vẫn rất muốn biết vì cái gì mà văn của mình lại không vừa mắt với chủ khảo quan. Đây từng là chuyện khiến y trầm tư suy nghĩ hết ngày này qua ngày khác.
Ôn Thanh Hạc không trực tiếp trả lời, “Hiền đệ, hẳn là ngươi vẫn còn nhớ rõ những lời mình nói ở Thiên Nguyệt Lâu vào tháng mười năm ngoái chứ?”
Thiên Nguyệt Lâu? Chung Nhuận nhíu mày trầm tư, nga, y nhớ ra rồi! Tháng mười năm trước, có một ít đồng hương sĩ tử mời y đi Thiên Nguyệt Lâu, y từ chối không được, đành phải đi. Qua khỏi hai tuần rượu, y có chút say, lúc đó hăng hái, không biết đến trời trăng mây nước, ngôn ngữ không kiêng kị gì ai, y đã nói gì sao? Đúng rồi! Chung Nhuận bừng tỉnh đại ngộ, chẳng lẽ là bởi vì... Y nghi hoặc nhìn về phía Ôn Thanh Hạc.
“Ngày đó đại nhân cùng huynh đúng lúc cũng dùng bữa ở Thiên Nguyệt Lâu, đại nhân nghe được ngôn luận của đệ, cảm thấy không vui, người cho rằng đệ luôn miệng nói không thích quan trường, nhưng vẫn thượng kinh đi thi. Ngày ấy nhìn thấy quyển tử của đệ, càng cảm thấy tức giận, bởi vậy mới loại tên đệ ra.”
Thì ra là thế! Chung Nhuận cười khổ, ban đầu y phẫn hận đến cực điểm, đến nay mới biết được họa là do mình ngôn hành bất nhất (lời nói và việc làm không thống nhất)mà ra!
“Hiền đệ, huynh vẫn nghĩ đệ là loại người trước sau như một.” Ôn Thanh Hạc cân nhắc ngôn từ thích hợp, “Mấy ngày nay qua lại với đệ, ta mới biết được đệ thật ra giống như một ẩn sĩ, tâm không đặt ở chốn quan trường thứ cho ngu huynh lỗ mãng, nếu hiền đệ chí không tại nơi này, làm gì phải miễn cưỡng mình mà đi dự khảo kỳ?”
Miễn cưỡng chính mình? Không, một chút cũng không có miễn cưỡng. Chung Nhuận nhớ tới mạt thân ảnh thanh lệ kia ở gia hương, liên tục cười khổ, cảm thán nói: “Ôn đại ca, chuyện của quá khứ thì hãy để nó trôi đi, bàn lại cũng không có ý nghĩa gì, huynh cứ coi đệ giống như một tên phàm phu nóng lòng đoạt danh lộc đi!”
Tâm sự của người này thật sự trùng trùng điệp điệp a! Ôn Thanh Hạc trong lòng âm thầm thở dài, đáng tiếc giao tình giữa hắn và y còn chưa đủ sâu nặng để cho y mở rộng cửa lòng, “Nếu hiền đệ đã nói như vậy, ta cũng không hỏi nhiều, đến đến, uống rượu uống rượu, lương thần mỹ cảnh như thế này (ngày vui cảnh đẹp), không uống chẳng phải là lãng phí? ‘
Ôn Thanh Hạc tuy xuất thân thế gia, nhưng vẫn tại hành quân ngũ, tính tình hào sảng, có được bằng hữu như thế, thật sự là phúc của y a! Tiếu dung giương lên, tiếp nhận chén rượu, Chung Nhuận uống cạn, tửu hương thanh liệt lượn lờ trong khoang miệng, nguyệt sắc sáng tỏ xuyên thấu qua màn trúc hạ xuống thân người, ẩn đâu trong đó, có chút say.