Hai tuần qua đi, Tiểu Chi vẫn không liên lạc với tôi, tôi nghĩ cô ấy có thể là đã về Hoang thôn rồi, có thể Hoang thôn vốn không tồn tại, chẳng qua là cô ấy đùa cợt mình mà thôi? Tôi gần như đã quên mất việc này, quên cả cô gái tên là Tiểu Chi.
Nhưng vào một buổi sáng sớm, chuông điện thoại đột ngột vang lên, tôi mắt mũi nhập nhèm nghe điện thoại, nghe thấy giọng con gái nhỏ nhẹ… Sau vài giây bất ngờ, mắt tôi bỗng nhiên mở to, là cô ấy?
Là cô ấy. Sáng sơm, Tiểu Chi bỗng nhiên gọi điện thoại cho tôi, vẫn là ngữ khí và giọng nói đó: cô ấy đồng ý đề nghị của tôi, có thể đưa tôi tới Hoang thôn, sáng mai gặp nhau tại bến xe khách liên tỉnh. Sáng sớm hôm sau, tôi tới bến xe khách đúng giờ. Đang là thời kỳ cao điểm, tôi chen chúc trong đám người hồi lâu mãi mới phát hiện ra Tiểu Chi. Tôi vẫy vẫy tay về phía cô ấy, biểu hiện của cô ấy có chút ngạc nhiên, miễn cưỡng gật đầu.
Nửa tiếng sau, tôi và Tiểu Chi bước lên một chiếc xe khách liên tỉnh, trạm cuối cùng là thị trấn Tây Lãnh thành phố K. Cô ấy ngồi ở ghế cạnh cửa sổ, trên người mặc một chiếc áo khoác dày cộm, cổ quấn khăn che cả cằm và hai má. Xe buýt ra khỏi thành phố, những máng ruộng vườn vàng đậm hai bên đường cao tốc Lô Hàng, cảnh sắc dần dần trở nên đơn điệu, chuyến đi ủ ê đó còn phài kéo dài bảy tiếng đồng hồ. Tôi càng lúc càng cảm thấy bối rối, Tiểu Chi từ lúc lên xe không nói lấy một câu, dường như nhìn mà coi như không thấy sự tồn tại của tôi. Hình như bên cạnh cô ấy, có một lan can tạo thành từ không khí, giam cầm nhốt chặt cô ấy bên trong, nếu như bước qua thì sẽ là vực sâu thẳm.
Xe khách sau khi tiến vào địa phận Chiết Giang, tôi rút cuộc không nhịn được nữa bèn nói: “Tại sao không nói chuyện?”
Tiểu Chi rút cuôc né người sang một bên: “Anh muốn tôi nói gì?”
“Tùy ý cô. Lẽ nào cô sợ đưa tôi tới Hoang thôn? Tự nhiên thấy hối hận?” Tôi nhìn thẳng vào mắt cô ấy, cúi đầu nói: “Nếu như cô bảo hối hận, tôi sẽ xuống ngay ở trạm tới và quay lại Thượng Hải”.
Cô ấy kéo khăn quàng cổ xuống, rầu rĩ nói: “Không, tôi không hối hận, chẳng qua là chẳng biết nên nói gì cả”.
“Nói về Hoang thôn đi”.
“Chỉ là một thôn nhỏ bình thường, một bên là biển, một bên là nghĩa trang”.
“Ngoài ra thì sao?” Tôi nhìn vào mắt Tiểu Chi hỏi. Nhưng cô ấy luôn lảng tránh ánh mắt của tôi, tôi có thể phát giác ra trong ánh mắt cô ấy đang ẩn chứa thứ gì đó khiến người ta khủng hoảng và cô ấy đang cố gắng hết sức không để tôi phát hiện ra điều đó. Còn nhiệm vụ của tôi chính là phải moi móc những thứ này ra từ ánh mắt cô ấy, giống như một hoạt động khảo cổ thần bí, “Hình như cô từng nói, Hoang thôn đã tồn tại mấy trăm năm rồi?”
“Theo như cha tôi nói, tổ tiên của người Hoang thôn đến từ trung nguyên, sau biến cô Tĩnh Khang triều Tống, họ đã theo Tống Cao Tông – Tống Triệu Cấu chạy tới Chiết Giang. Bởi vậy những nạn dân từ nơi khác xa xôi tới, chỉ có thể định cư trên bờ biển hoang sơ này”.
“Thế tính ra cũng được mấy trăm năm rồi”.
Lúc này, Tiểu Chi lặng lẽ quay đầu lại, ánh nắng ngày đông xuyên thấu qua cửa sổ soi đèn lên khuôn mặt cô ấy, giống như một lớp mạ vàng lên gương mặt. Cảnh săc đơn điệu bên ngoài tôn lên khiến khuôn mặt Tiểu Chi càng trở nên sống động…
Ba giờ chiều, đã tới thị trấn Tây Lãnh. Xung quanh thị trấn là những dãy núi miên man, giống hệt như những thị trấn nhỏ ven biển khác ở Chiết Giang, chỗ nào cũng có những người buôn bán nhỏ. Hình như Tiểu Chi không thích thị trấn Tây Lãnh, chiếc khăc quàng cổ của cô ấy che gần kín cả khuôn mặt. Chúng tôi xuyên qua bến xe, đáp lên một chiếc xe buýt nhỏ cũ nát, nó sẽ đưa chúng tôi tới Hoang thôn.
Xe buýt đi trên công lộ giữa làng quê, hai bên đường là những thửa ruộng và rừng cây mùa đông, tất cả đều toát lên vẻ sát khí. Theo đường núi lên dốc, cảnh sắc xung quanh càng lúc càng tiêu điều, ngoài những phiến đá lộ thiên, là những bụi cây thấp lè tè đang không ngừng run rẩy trong gió rét. Tôi không rời mắt khỏi phía cửa sổ, so với sự phồn hoa của thị trấn Tây Lãnh, ở đây giống như một thế giới khác vậy.
Khi chiếc xe buýt khó khăn leo lên dốc núi cao, tôi bỗng khẽ reo lên: “Biển!”
Tôi đã nhìn thấy biển ở phía xa rồi – biển đen. Tôi đã rất nhiều lần nhìn thấy biển, nhưng ở nơi hoang vắng này, biển cho người ta một cảm giác hoàn toàn khác lạ. Khó mà có thể hình dung bằng lời, dưới bóng mây đen trong ánh hoàng hôn, đường mặt biển phía xa xăm mờ ảo giống một bức tranh sơn dầu u uất.
“Tiểu Chi, cô đã đọc cuốn ‘Quán trọ Jamaica’ chưa? Thật kỳ lạ, tôi mới chỉ đi qua một ngọn núi mà lại giống như từ Chiết Giang của Trung Quốc đến bờ biển Tây Nam hoang vắng của nước Anh”.
“Lúc học cấp ba tôi có đọc qua, thế nên mới thích tiểu thuyết do anh viết”.
Nghe xong câu này của cô ấy, trong bụng tôi không khỏi thầm đắc ý. Truyện "Quán Trọ Hoang Thôn "
Sau hơn chục phút lắc lư nghiêng ngả, trước mắt tôi bỗng chốc rộng mở thênh thang, một bia đá khổng lồ xuất hiện – Hoang thôn tới rồi.
Tôi giúp Tiểu Chi xách hành lý xuống xe, ngửa mặt chiêm ngưỡng tấm bia đá khiến người ta nhìn là đã thấy sợ hãi. Tấm bia đá ít nhất cũng cao mười mấy mét, khắc rất nhiều những hình thù phức tạp, ở chính giữa tấm bia có bốn chữ to thr61 chữ Khải – “Trinh Liệt Âm Dương”.
Không biết bốn chữ này có nghĩa gì, nhưng đặt lên tấm bia đá to lớn này lại làm người ta sợ hãi rúm ró. Trời đã sẩm tối, bóng của tấm bia đá đổ lên người khiến tôi sững sờ. Tiểu Chi thò tay chọc chọc vào người tôi: “Anh sao thế?”
“Không thể tin được tôi lại có thể nhìn thấy tấm bia đá to nhường này ơ Hoang thôn!”
“Đây là tấm bia tiết hạnh được hoàng đế ngự giá ban tặng. Mấy trăm năm trước, vào những năm Gia Tĩnh triều Minh, Hoang thôn có một vị tiến sỹ làm quan lớn ở triều định, để biểu dương mẹ của ông ấy. Hoảng đế đã ngự giá ban tặng tấm bia tiết hạnh này”. Một cơn gió biển ào tới, Tiểu Chi lại cuốn khăn chặt thêm, “Đừng xem nữa, nhanh vào trong thôn thôi”.
Tôi nhận biết phương hướng trước đã, phía đông là một bãi đá và vách núi, có thể nhìn thấy biển đen hung dữ, trên bề mặt biển ngưng đọng một tầng mây khói dày cộm. Còn phía bên kia lại miên man những dãy núi hoang vu. Và đằng sau tấm bia tiết hạnh, chính là Hoang thôn mà tôi kiếm tìm trong giấc mơ.
Xuyên qua tấm bia đá cao to đó, chỉ nhìn thấy những ngôi nhà ngói cổ kính và lác đác những ngôi nhà kiểu Tây mái tre điểm xuyết, sắc biển trời u ám soi rọi lên những mái ngói làm cả thôn xóm tăng thêm phần lạnh lẽo. Tôi thở dài một tiếng: “Bây giờ tôi đã hiểu tại sao lại gọi là Hoang thôn rồi”.
Tiểu Chi đưa tôi tới một con ngõ nhỏ hẹp trong thôn, hai bên đều là những ngôi nhà cổ, hầu như không thấy bóng dáng người nào cả. Cô ấy cúi đầu bước đi, dường như đem cả sự xa lạ bước vào trong thôn. Tôi bắt đầu thấp thỏm không yên, khẽ hỏi: “Hoang thôn không có khách sạn sao?”
Cô ấy kéo khăn xuống: “Anh cho rằng ở đây có khách sạn sao? Hoang thôn từ trước tới nay đều rất khép kín, đã mấy năm nay không có người từ nơi khác tới rồi”.
Tôi ngớ người ra một lúc: “Thế tôi ở đâu?”
“Thì ở đây”.
Tiểu Chi thản nhiên nói, chỉ vào cánh cổng to bên cạnh.
Đây là một ngôi nhà cổ, hai bên cổng là bức tường vây cao sừng sững, cánh cổng to loang lổ đóng kín mít, trên hai tấm gỗ có một chiếc vòng đồng to. Tôi lùi lại nửa bước, mượn ánh sáng hoàng hôn để nhìn lên ba chữ khắc trên đố cửa cao to: “Tiến Sỹ Đệ”. Truyện "Quán Trọ Hoang Thôn "
Khi tôi vẫn chưa kịp phản ứng lại, Tiểu Chi đã đẩy cánh cổng màu đen. Ngưỡng cửa cao tới mấy chục mét, cô ấy bước một bước rộng tiến vào, quay đầu lại nói: “Vào đi”.
Đối diện với cánh cổng cao to của “Tiến Sỹ Đệ”, tôi lập cà lập cập đứng trước ngưỡng cửa nói: “Đây là đâu?”
“Nhà tôi”.
Tôi ngớ người ra, sau đó cẩn thận bước vào trong ngưỡng cửa, nói nhỏ: “Tổ tiên nhà cô là Tiến Sỹ? Vậy thế thì tấm bia trước cổng thôn là hoàng đế ngự giá ban tặng cho tổ tông gia đình cô ư?”
“Ừm”. Cô ấy thản nhiên trả lời.
Tôi dụi dụi mắt nhìn lên giếng trời của ngôi nhà cổ “Tiến Sỹ Đệ” này, hai bên là những căn phòng xiêu vẹo đang trực đổ ập xuống, đối diện với cửa chính là một gian sảnh đường cấu trúc mái vòm. Ánh sáng mờ ảo từ mái hiên nhà rớt xuống khiến ngôi nhà cổ này càng trở nên âm u.
Tiểu Chi không vào sảnh đường mà đi vào cánh cửa bên cạnh, tôi bám theo sau, đi vào sân thứ hai trong Tiến Sỹ Đệ. Giếng trời ở đây còn nhỏ hơn, ba mặt đông, tây, bắc đều là dãy cầu hai tầng vây quanh, những lầu gỗ ba mặt đều là mái vòm, có lầu trạm hoa trên cửa sổ và xà nhà làm tôi liên tưởng tới “Nhà ngõ chìm sâu, sâu quá đỗi” của Phùng Diên Tị.
Bỗng nhiên, sau lưng tôi vang lên giọng nói ồm ồm: “Cậu là ai?”
Giọng nói này làm tôi giật bắn mình, tôi lắc lắc lư lư quay đầu lại, chỉ nhìn thấy một bóng người vừa gầy vừa cao đứng trong cửa sổ gỗ đang mở ra.
Tiểu Chi vội vàng nói với ngh đó: “Cha, thầy ấy là thầy giáo đại học của chúng con, đến khảo sát lịch sử và phong tục tập quán của Hoang thôn chúng ta”.
Hóa ra là cha của Tiểu Chi, tôi nhẹ cả người. Nhưng cô ấy cũng biết cách nói dối thật đấy, nói ngay tôi là thấy giáo đại học của mình, nhưng tôi cũng chỉ lớn hơn cô ấy vài tuổi thôi mà.
“Hoan nghênh cậu tới Hoang thôn”.
Cha của Tiểu Chi đi từ cửa khác ra, tôi lúc này mới nhìn kĩ khuôn mặt ông. Đó là một người đàn ông trung niên cao gầy, khuôn mặt gầy gò tiều tụy, hố mắt trũng sâu xuống. Nhưng da dẻ của ông ấy lại rất trắng, không giống như một người nông dân thông thường, ông ấy hồi trẻ chắc là rất tuấn tú. Ông tới trước mặt tôi mỉm cười nói: “Xin chào. Tôi là giáo viên tiểu học của Hoang thôn, cậu gọi tôi là Âu Dương tiên sinh được rồi. Nếu như không che thì mời cậu ở lại nhà chúng tôi vài hôm, ngôi nhà này chỉ có hai cha con tôi, vẫn cò rất nhiều phòng trống”.
Tôi quay lại nhìn Tiểu Chi một cái, lúc này tôi mới biết họ tên của cô ấy: Âu Dương Tiểu Chi.
Màn đêm lạnh giá đã dần dần bao trùm lên Hoang thôn, Âu Dương tiên sinh dẫn chúng tôi tới sảnh trước, bật đèn trên xà nhà, ánh đèn chiếu rọi lên tấm biển trước sảnh đường, trên tấm biển viết ba chữ hàng ngang: “Nhân Ái Đường”. Dưới tấm biển là một bức chân dung bằng giấy ống quyển, người đó mặc quan phục triều Minh, chắc là vị tiến sỹ vào năm Gia Tĩnh.
Trong phòng trống hươ trống hoắc, chỉ có trên chính giữa chiếc bàn hình bầu dục là bày biện bữa tối thịnh soạn. Âu Dương tiên sinh lộ ra nụ cười hiền hậu của một người cha, ông nói biết hôm nay Tiểu Chi về nên cố ý chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn. Hoang thôn ở cạnh biển, đương nhiên là nhiều hải sản, rất hợp với khẩu vị của tôi. Âu Dương tiên sinh vốn kiệm lời, lặng lẽ xới cơm. Tôi phát hiện ông ăn rất ít, gần như chẳng mấy động đũa, sắc mặt ông trắng bệch dưới ánh đèn sáng vàng vọt, quả là hình ảnh thầy giáo thanh bần ở thôn quê.
Sau bữa tối, Tiểu Chi dẫn tôi lên căn gác hướng bắc phía sau. Tôi lập cập theo sau cô ấy leo lên những bậc cầu tahng gỗ dốc ngược, giống người mù dò dẫm lên tới căn phòng trên gác hai. Tiểu Chi mò mẫm mãi vẫn chưa bật được đèn điện, cô ấy xin lỗi nói: “Căn phòng này lâu lắm không sử dụng rồi, chắc là đường diện lão hóa rồi, anh đợi tôi một lúc”.
Tiểu Chi xuống lầu. Tôi giơ tay ra phía trước khua khoắng thì sờ thấy một dãy cửa sổ bằng gỗ, đến kính cửa sổ cũng không có, chỉ có một lớp giấy bảo vệ mỏng dán trên khung cửa. Tôi một mình đứng trong bóng tối, thông qua khung cửa sổ gỗ có thể nhìn thấy vài ngôi sao – tim tôi càng lúc càng đập nhanh, bất giác giơ tay ra mở cửa sổ.
Cửa sổ vừa được mở ra, tôi liền nhìn ngay thấy một đốm sáng âm u, giống như ma trơi nhấp nháy liên hồi.
“Đừng sợ! Là tôi”.
Là tiếng của Tiểu Chi, cô ấy đi theo đốm ánh đó trong phòng, trên tay cầm chiếc đèn dầu. Tôi thở phào một cái: “Cô đừng có dạo tôi chứ”.
Cô ấy khẽ cười: “Không phải anh đã từng xuất bản rất nhiều tiểu thuyết kinh dị sao? Sao lại vẫn biết sợ nhỉ?”
“Khủng hoảng khởi nguồn từ vô thức”. Mắt tôi đã dần thích nghi với ánh đèn dầu, dưới đốm sáng bập bùng đó, khuôn mặt Tiểu Chi ánh lên màu sắc kỳ dị. Cô ấy còn ôm theo một cuộn chăn dày,s au đó đặt chiếc đèn dầu lên bàn gỗ, khiến tôi gần như có thể nhìn rõ căn phòng này. Căn phòng thực chất rất to, ở giữa còn có một tấm bình phong, phía sau có một chiếc giường ngủ.
Kỳ lạ ở chỗ, trong phòng vốn không có quá nhiều bụi bẩn, xem ra rất sạch sẽ, không giống như lâu rồi không có người ở. Tiểu Chi nói: “Cha tôi thích sạch sẽ, thế nên ông đã quét dọn một lượt mười mấy phòng trống này”.
“Mười mấy căn phòng trống? Quả nhiên là “Tiến Sỹ Đệ”. Nhưng ngôi nhà to thế này chỉ có hai bố con cô ở không cảm thấy sợ sao?”
Tiểu Chi lặng lẽ đóng cửa sổ lại nói: “Bởi vì gia đình tôi không có thêm bất cứ người họ hàng nào cả”.
“Vậy sao cô phải bảo tôi là thầy giáo dây đại học của cô?”
Cô ấy chau mày, đưa chăn vào tay tôi nói: “Anh đã nhìn thấy tấm bia tiết hạnh ngoài cổng thôn rồi chứ? Phong tục của người dân Hoang thôn từ cổ xưa đều rất bảo thủ, nếu như tôi nói thật sẽ dẫn đến điều tiếng. Thế nên, tôi chỉ có thể nói anh là thấy giáo đại học của tôi đến đây để khảo sát lịch sử và phong tục tập quán của Hoang thôn, như vậy cha tôi sẽ không hiểu lầm mối quan hệ của chúng ta”.
“À, vậy thì hãy để tôi la2mt hấy giáo của cô vài hôm nhé. Nhưng tôi chỉ hơn cô vài tuổi, cô phải chuyên tâm giúp đỡ tôi đấy”.
“Được rồi, tôi ở trên gác phía tây, nếu có việc gì, kêu tôi một tiếng là tôi có thể nghe thấy”.
“Tiểu Chi”, tôi nhìn vào mắt cô ấy, nhưng ấp a ấp úng mãi không nên lời. “Không có gì, chỉ là rất cảm ơn cô”.
“Tôi cũng phải cảm ơn anh, cảm ơn anh cả đường đi đã giúp tôi xách hành lý”.
Tôi không nhìn được bật cười: “Hành lý của cô nặng thật, làm tôi mệt gần chết. Không phải cô muốn tìm một cửu vạn miễn phí nên mới đồng ý dẫn tôi tới Hoang thôn chứ?”
Bỗng nhiên, ánh mắt tôi chạm vào tấm bình phòng dưới ánh đèn dầu tù mù, cô thể nhìn lơ mơ vài họa tiết tinh xảo. Tôi vội vàng bưng đèn dầu tiến sát lại tấm bình phong.
Đây là một bức bình phong bốn cánh bằng sơn dầu, cao khoảng hai mét, rộng bốn mét. Khung bình phong được làm bằng gỗ, ở giữa sơn đỏ, tuy năm tháng trôi qua đã khiến nó bị phai màu, nhưng dưới ánh nến vẫn còn tàn lưu chút sắc màu rực rỡ. Bình phong có thể gấp thành bốn cánh, trên mỗi cánh đều vẽ tranh màu, chắc là sản phẩm của đời Thanh trước đây.
“Trời ơi, đây chính là một thứ đồ cổ đấy!” Tôi không kìm nén được thốt lên.
Tôi thật sự không ngờ rằng thứ đồ cổ quý như vậy lại được đặt trong căn phòng trống, còn để người lạ như tôi ở trong đó, quả thật không biết trong “Tiến Sỹ Đệ” này còn cất giấu bao nhiêu báu vật nữa? Tiểu Chi không trả lời, ánh mắt cô ấy có chút kỳ lạ. Tôi không buồn để ý mà tỉ mỉ nhìn tranh trên bình phong, phong cách hơi giống tranh minh họa trong sách cổ, chỉ là niên đại quá xa mà thôi, màu sắc xem ra hơi nhạt. Nhưng khiến người ta kinh ngạc hơn chính là nội dung những bức vẽ trên tấm bình phong này.
Cánh thứ nhất bên trái bình phong là một đôi nam nữ, người phụ nữ đẹp mê hồn, ngồi tựa vào cửa mái nhà tranh, còn người đàn ông khoác hành lý dáng vẻ như sắp phải đi xa, hai người nhìn nhau đầy lưu luyến, xem ra là cảnh đôi vợ chồng lưu luyến li biệt, có chút mùi vị “Rừng phong ai nhuộm đỏ tươi, phải chăng nước mắt của người biệt li”.
Chính giữa cánh bình phong thứ hai vẫn là người phụ nữ đó, hình như đang đau buồn khóc lóc, trước mặt cô ấy là một tăng nhân diện mạo kỳ dị. Trên tay tăng nhân có cầm một chiếc sáo trúc đang đưa nó đến trước mặt cô gái. Tôi lắc lắc đầu, nhìn không hiểu bức tranh này.
Trên cánh bình phong thứ ba vẽ cảnh trong phòng, người phụ nữ đang ngồi một mình trên chiếu trúc, tay cầm chiếc sao đưa lên môi, hình như là đang thổi sáo. Và trên xà nhà trong tranh treo một dải lụa trắng dài ba thước, lẽ nào cô ấy muốn treo cổ tự vẫn? Cả bức tranh bao trùm sự thê luong và sát khí khiến người ta nổi da gà.
Cánh bình phong thứ tư vẫn vẽ cảnh trong phòng, giữa phòng là một người đàn ông, bên cạnh anh ta có đặt một chiếc quan tài sơn đỏ! Đáng sợ hơn ở chỗ, nắp quan tài được mở ra. Tay người đàn ông vẫn cầm chiếc sáo vẻ mặt kỳ dị quá đỗi. Nhìn bức tranh này, tay tôi đang cầm đèn pin không khỏi run rẩy, ánh lửa không ngừng phập phùng, vài bóng đen kì dị trên bình phong lay động, dường như người đàn ông trong tranh đang thực sự bước từ trong tấm bình phong ra, tôi lập tức sởn cả tóc gáy, tau chân cuống quýt làm đổ cả chiếc đèn dầu.
Tôi há hốc mồm kinh ngạc: “Tiểu Chi, tấm bình phong này thực sự rất kỳ quái, bốn bức tranh này nghĩa là gì?”
Cô ấy chau mày, do dự hồi lâu mới rầu rĩ nói: “Tấm bình phong này là câu chuyện của Yên Chi”.
“Yên Chi là ai?”
Ánh đèn dầu leo lét lại ánh đỏ lên khuôn mặt Tiểu Chi,cô ấy rủ rỉ rù rì kể: “Vào những năm Gia Tĩnh triều Minh, Hoang thôn có một đôi vợ chồng trẻ, người vợ tên là Yên Chi. Hai vợ chồng sống cuộc sống thanh bình sớm tối có nhau, điều đáng tiếc duy nhất là họ không có con. Sự thanh bình chẳng mấy chốc đã bị chiến tranh tàn phá, lúc đó vùng ven biển Chiết Giang chiến tranh liên miên, cướp biển Nhật Bản thường xuyên ẩn hiện, giai đoạn lịch sử này chắc anh cũng biết rồi phải không?” Truyện "Quán Trọ Hoang Thôn "
“Đương nhiên, những năm Gia Tĩnh triều Minh là lúc cướp biển hoành hành nghiêm trọng nhất, và Chiết Giang cụng là trọng điểm mà cướp biển công kích”.
“Năm đó, quan triều đình đã đến Hoang thôn để chiêu binh, cưỡng chế chồng Yên Chi nhập ngũ để đi đánh trận ở tỉnh ngoài. Tuy hai vợ chồng Yên Chi vô cùng yêu thương nhau, nhưng trước chiến tranh thì chẳng còn cách nào cả. Người chồng trước khi lên đường đã hẹn ước với Yên Chi: Tết trùng dương ba năm sau, anh ấy nhất định quay trở về cùng cô tương ngộ, nếu như đến lúc đó mà vẫn không gặp được nhau, hai người sẽ cùng nhau tự tử vì tình vào đúng đêm tết trùng dương. Trong những ngày chồng đi xa, Yên Chi luôn thấp thỏm bất an, kìm nén sự cô đơn trong Hoang thôn, một mình với căn phòng trống vắng, khốn khổ chờ chồng quay về. Thời gian dần trôi qua, thoáng cái ba năm đã qua đi, tết trùng dương đã cận kề, còn người chồng phương xa vẫn bặt vô âm tín. Yên Chi ngày ngày đều ra cổng Hoang thôn ngóng chờ nhưng vẫn không thấy chồng trở lại. Vào trước đêm tết trùng dương, cô ấy đã gặp một tăng nhân đi khuất thực ở cổng thôn. Tăng nhân vừa nhìn là đã hiểu thấu tâm can của cô ấy và liền đưa cho cô một chiếc sáo”.
“Sáo?” Tôi phát hiện lúc cô ấy kể câu chuyện này, đôi mắt ẩn chứa bóng tối dường như đang ánh lên những tia sáng dị thường.
“Đúng vậy, tăng nhân đã trao cho cô ấy một chiếc sáo rồi dặn dò hãy thổi chiếc sáo này vào đúng đêm tết trùng dương thì chồng cô sẽ trở về. Đêm tết trùng dương, Yên Chi chờ đội trong nhà, cô đã chuẩn bị sẵn một dải lụa dài ba thước, ngộ nhỡ người chồng không trở về thì sẽ tự tử vì tình theo lời nguyện ước. Nửa đêm, người chồng vẫn chưa trở về, cô ấy đành làm theo lời dặn của tăng nhân, thổi chiếc sáo đó lên. Cô ấy đem mọi nỗi tương tư và đau khổ gửi dắm cả vào trong tiếng sáo. Tiếng sáo đêm trùng dương như tiếng khóc thút thít, u sầu bay bổng khắp núi non và bờ biển Hoang thôn. Sau khi tiếng sáo kết thúc, Yên Chi đã chuẩn bị thắt dải lụa trắng ba thước trên xà nhà. Bỗng nhiên, cô ấy nghe thấy tiếng gõ cửa nặng trĩu”.
Tim tôi giống như bị cô ấy tóm lấy, lập tức thở hắt ra: “Chồng của Yên Chi trở về rồi?”
“Đúng. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, Yên Chi nhìn thấy người chồng mà mình ngày đêm mong nhớ đang đứng ngoài cửa. Người chồng dáng vẻ phong trần mệt mỏi, thậm chí trên người vẫn còn bộ giáp trụ chưa trút xuống. Cô ấy mừng vui khôn xiết chạy ra cửa đón chồng, giúp anh tháo bỏ bộ quần áo giáp sắt đánh trận, bưng trà nóng cho anh, cô ấy đã gột rửa bụi trần cho chồng bằng sự ấm áp dồn nén ba năm qua. Có lẽ là do vất vả trở về từ nơi xa xôi ngàn dặm, khuôn mặt người chồng trở nên trắng bệch, cơ thể suy nhược, không nói lấy một câu. Yên Chi chỉ có thể dịu dàng hầu hạ chồng ngả lưng. Mấy hôm sau, người chồng nhất mực trốn trong nhà không dám ra ngoài, có lẽ anh ta đã đào tẩu về nhà. Tuy Yên Chi luôn cảm thấy chồng mình có biểu hiện rất lạ, nhưng họ vẫn cùng nhau trải qua vài đêm hạnh phúc”.
“Đại đoàn viên rồi?” Tôi bỗng có chút thất vọng.
“Không… vài hôm sau khi người chồng trở về, vào một đêm Yên Chi lại thổi sáo, có lẽ là muốn thổi để cho chồng nghe. Nhưng người chồng vừa nghe thấy tiếng sáo đã lao bắn ra ngoài cửa. Yên Chi đuổi theo sau, nhưng chỉ nhìn thấy một vùng tối đen bên ngoài Hoang thôn, sương khói bao trùm khắp nơi, người chồng đã mất tích trong một rừng cây bị sương khói phủ kín. Yên Chi lúc đó vô cùng ân hận, cô ấy tìm kiếm khắp nơi ba ngày ba đêm nhưng mãi vẫn không thấy tung tích của chồng đâu, anh ta giống như một ảo ảnh bị tiếng sáo trong bóng đêm nuốt chửng vậy. Lại qua mấy hôm sau, vài người trong thôn cũng bị ép gia nhập quân đội cùng chồng Yên Chi trước đây đã trở về rồi, họ nói với cô ấy, chồng cô đã chết trận vào đúng đêm trùng dương mười mấy ngày trước. Yên Chi không tin, nhưng rất nhiều người đã đều tận mắt chứng kiến chồng cô chết. Còn có cả những người biết chuyện kể lại, đêm tết trùng dương đó, chồng cô ngoài sa trường xa xôi ngàn dặm, biết mình không thể thực hiện lời hẹn ước trở về với vợ nên đã cố ý xông lên tuyến đầu trong chiến sự ác liệt. Kết quả là bị loạn tên của cướp biển bắn chết. Anh ấy với danh nghĩa chết trận nhưng thực tế là tự tử vì tình, lấy cái chết để thực hiện lời nguyện ước với vợ”.
“Vậy thì người đàn ông trở về nhà vào cái đêm trùng dương đó là ai?”
“Hồn ma”. Tiểu Chi chậm rãi thốt ra hai từ đó. “Là hồn ma của chồng Yên Chi, trở về vào đúng đêm tết trùng dương”.
“Tôi hiểu rồi, chồng của Yên Chi đã chết trận trong tết trùng dương để hồn mình có thể bay qua vạn núi ngàn sông trở về cố hương, trở về bên người vợ thân yêu của mình. Và khi Yên Chi thổi chiếc sáo của tăng nhân du hành trao cho cô ấy, tiếng sao thần bí đã lan tỏa khắp trời đêm, có thể giúp linh hồn cô quả của người chồng tìm thấy đường về nhà”.
Tôi run rẩy trong lạnh giá nói hết câu này, bỗng nhiên cảm thấy câu chuyện này lạng mạn tột đỉnh nhưng cũng khủng khiếp tới tột định.
“Anh sao thế?” Tiểu Chi khẽ hỏi bên tai tôi.
Lúc này tôi mới ý thức được sự thất thần của mình: “Xin lỗi, làm cô sợ hãi. Thế Yên Chi sua đó ra sao?”
Tiểu Chi đang chuẩn bị nói tiếp thì một âm thanh kỳ lạ bỗng từ bên ngoài vọng vào, là tiếng sáo! Nó mang theo giai điệu kỳ dị nào đó, giống như lưỡi dao sắc nhọn rạch nát màn đêm tối đen của Hoang thôn.
Sắc mặt cô ấy cũng lập tức biến đổi, cô tự bụm miệng mình lại rồi ra mở cửa sổ, nhưng trong màn đêm chẳng thấy rõ gì cả. Tôi cũng bị tiếng sao làm dựng cả tóc gáy, lúc nhỏ có học qua thổi sáo, đến nay vẫn biết thổi vài giai điệu, nhưng tiếng sáo đáng sợ thế này thì từ trước đến nay chưa từng nghe thấy.
Tiểu Chi bất giác sát lại gần tôi, tôi thuận tay khoác vai cô ấy. Tiếng sáo hình như đến từ ngọn núi bên ngoài Hoang thôn, chúng tôi không nhận biết được phương hướng, bỗng chốc không biết phải làm thế nào. Yên Chi thì thào: “Không, tôi không thể nói tiếp được nữa, anh nghỉ sớm đi nhé”.
Tôi vẫn muốn nói điều gì đó, nhưng thấy khuôn mặt hoảng sợ của Tiểu Chi nên đành không nói thêm gì cả. Tiểu Chi chạy ra khỏi phòng, căn gác sập sệ sắp đổ phát ra chuỗi âm thanh hòa quyện cùng tiếng sáo khiến tim tôi đập thình thịch.
Vài phút sau, tiếng sáo đột nhiên biến mất, ngôi nhà cổ lại phục hồi trạng thái im ắng tĩnh mịch. Lúc này, cả căn gác gỗ chỉ còn lại mỗi mình tôi, câu chuyện kỳ dị trong những bức tranh trên tấm bình phong cổ đang hiện lên trước mặt tôi, không biết người trong bình phong có chạy ra ngoài lúc đêm tối không nữa? Phải chăng thực ra tôi cũng đã từng được nghe kể về kiểu truyện kỳ dị này.
Tôi lấy chăn bông trải lên giường, tức tối chui vào đó. Đây là đêm đầu tiên tôi ở Hoang thôn, thần kinh và cơ thể của tôi đều mệt mỏi cực độ, chẳng mấy chốc đã ngủ thiếp đi…
Sau nửa đêm tôi lại tỉnh dậy, phát hiện toàn thân mình đang run rẩy, mồ hôi hột lấm tấm trên trán. Dự cảm kỳ lạ xâm chiếm đầu óc và tâm trí tôi, nhịp tim thình thịch dường như khiến tôi nức nở. Sao lại thế này? Tôi bò dậy trên chiếc giường gỗ, trong phòng tối om, tĩnh lặng như đã chết.
Tôi mặc quần áo lên, cẩn thận rón rén bước ra khỏi phòng. Ngoài cửa phòng là dãy hành lang được làm từ gỗ, đêm đông lạnh giá mông lung, tôi chỉ có thể lờ mờ thấy viền bao quanh của “Tiến Sỹ Đệ” giống như một ngôi mộ cổ đại.
Bỗng nhiên, tôi cảm thấy một luồng hơi thở kì dị, tôi run rẩy quay đầu lại, dồn mắt về phía căn phòng bên cạnh.
Ánh nến xuyên qua cửa sổ.
Trời ơi, tôi suýt nữa hét lên, đó là căn phòng đóng cửa để không, sao nửa đêm lại sáng ánh nến như vậy? Tôi vẫn không kìm chế được mình, trước tiên là mút ướt ngón tay, khẽ khàng chọc thủng một lỗ nhỏ trên cửa sổ giấy.
Khuôn mặt tôi từ từ áp sát cửa sổ, dán mắt lên chiếc lỗ nhỏ đó. Kích cỡ chiếc lỗ vừa vặn để tôi có thể nhìn thấy cảnh tượng trong phòng. Trước bàn trang điểm kiểu dáng tao nhã có thắp một ngọn nến, ánh nến mịt mờ phập phòng soi sáng một bóng dáng trước bàn trang điểm.
Là một phụ nữ mặc áo trắng, cô ấy đang quay lưng lại phía tôi, tuy trước bàn trang điểm có tấm gương nhưng đã bị đầu cô ấy che mất, bởi vậy tôi không có cách nào để nhìn thấy mặt cô ấy. Từ hình thể sau lưng có thể thấy đó là một cô gái trẻ.
Tay cô ấy cầm một chiếc lược gỗ màu nâu, đang từ từ chải tóc. Tóc cô ấy vừa dài vừa đen, lấp lánh dưới ánh nến. Cô ấy hơi nghiên người, tay phải cầm lược, tay trái đỡ tóc giống như thác nước đang đổ lên sườn. Cô ấy cứ ngồi như vậy trước bàn trang điểm, hình như tất cả tâm trí đều tập trung vào chải và chải…
Trong đêm đông lạnh giá của ngôi nhà cổ “Tiến Sỹ Đệ” này, qua lỗ nhỏ trên cửa sổ giấy tôi đã nhìn thấy cảnh tượng khiến người ta không thể hiểu nổi, giống như đang nhìn thấy cảnh tượng của một thời đại khác.
Tôi thật sự rất sợ hãi nhưng nín nhịn để không hét lên. Tôi khẽ khàng lui lại một bước thì mới phát hiện chân mình đã mềm nhũn ra. Tôi lập tức về phòng mình, quệt mồ hôi trên tán, nhưng vẫn không dám thót lên, bởi vì cô gái đó ở ngay sát vách phòng tôi.
Nghĩ tới đây tôi lại không dám ngủ nữa, tôi khẽ khàng cuộn tròn trên giường, tuy mắt nhắm nghiền nhưng đầu óc vẫn không ngừng hiện lên cảnh tượng đó.