Tây Lương Hoàng Kim cửu bộ, Ma Ha, Na Sử, Thanh Thản ba bộ tộc
đều sinh sống trên thảo nguyên, ba bộ tộc trên thảo nguyên này cũng là
nơi cung cấp ngựa chủ yếu cho Tây Lương.
Nhưng sáu bộ tộc còn
lại, thì lượng ngựa cung cấp ra rất thưa thớt, có nơi thậm chí không thể cung cấp được con ngựa nào, ví như Cổ Tát bộ tộc trên núi Lang Sơn ở
vùng Đông Bắc bộ của nước Tây Lương.
Bộ tộc Cổ Tát chính là bộ bộ tộc vùng núi, sinh sống dưới chân núi Thiên Lang, bọn họ gần như không
thể nuôi được ngựa, phải dùng vàng để mua, tuy rằng không thể nuôi được
ngựa, nhưng lại sản xuất ra được khoáng sản.
Bộ tộc Cổ Tát đang
bị Ma Ha Vương thâu tóm, đó là một vương quốc độc lập, mà Ma Ha Vương
tộc trong các cuộc chiến nhằm chinh phục các bộ tộc khác, nếu như bàn về gian khổ, thì cuộc thảo phạt nước Cổ Tát được coi là cuộc chiến tranh
kéo dài nhất, tiêu hao về người và vật lực cũng lớn nhất.
Núi
Thiên Lang không phải là một ngọn núi, mà là những dãy núi liên miên
trập trùng, núi Thiên Lang chỉ là cái tên gọi chung cho dãy núi này,
nguyên nhân khác, đơn giản là bộ tộc Cổ Tát coi Sói là một biểu tượng,
thần linh họ thờ phụng chính là Thiên Lang thần.
Bộ tộc Cổ Tát
dựa vào núi để kiếm ăn, những dãy núi Thiên Lang liên miên trập trùng
dường như không có điểm cuối, không những là nơi săn bắn của bộ tộc Cổ
Tát, mà trong đó còn có thể thu hoạch được vô số thịt và da lông thú
cùng với trái cây, hơn thế nữa dãy núi này còn chứa đựng một lượng
khoáng sản cực kỳ phong phú.
Từ rất sớm, bộ tộc Cổ Tát đã biết sử dụng nguồn tài nguyên này của họ. Bọn họ từ lâu đã học được kĩ thuật
khai thác khoáng sản để tinh luyện quặng sắt, thậm chí bọn họ còn học
cách làm sao lợi dụng những quặng sắt đó của mình để chế tạo ra binh khí sắc bén.
Nước Cổ Tát ban đầu chỉ là một nước nhỏ, chỉ có mười
mấy bộ tộc, tổng số nhân khẩu không nhiều, thời điểm cao nhất, cũng
không vượt quá ba mươi vạn người, thế nhưng bọn họ lại là những chiến
binh trời sinh. Trong nước họ có nguồn tài nguyên phong phú, đó chính là những mỏ khoáng sản, hơn thế nữa đao khí của bọn họ, có dạo là hàng hóa mà các nước tranh giành nhau mua, vũ khí của bọn họ bán ra có giá không rẻ, cũng chính bởi vậy mà bọn họ đã đổi lấy được những vật phẩm cần
thiết.
Ma Ha tộc của nước Tây Lương, lúc đó so về năng lực chiến
đấu và vũ khí của binh sĩ, thì còn kém xa nước Cổ Tát, thế nhưng của cải của người Tây Lương vượt xa những gì mà bộ tộc Cổ Tát có thể so sánh.
Xung quanh cuộc thảo phải thôn tính các bộ tộc còn lại của Tây Lương, trên
lộ trình kiến quốc của Tây Lương, thì bộ tộc Cổ Tát ở núi Thiên Lang
chính là bộ tộc cuối cùng chưa bị thiết kị của Tây Lương Ma Ha tộc khuất phục.
Nước Tây Lương không phải nước chỉ biết dùng vũ lực để
tiến hành công kích nước khác, bọn họ biết nước Cổ Tát tuy số lượng nhân khẩu ít, nhưng họ lại có sức chiến đấu kinh người. Hơn thế nữa trong
tay họ lại đang nắm giữ nhưng vũ khí cực kỳ sắc bén mà không có một nước nào có thể sánh được, cho nên từ nhiều năm về trước Tây Lương không bất cứ một manh động và bành trướng nào. Tây Lương đối với nước Cổ Tát vô
cùng hữu hảo, hơn thế nữa mậu dịch của hai nước hết sức phồn vinh. Tây
Lượng lợi dụng những con chiến mã có sẵn trong tay, đã thu được rất
nhiều quặng sắt vũ khí từ nước Cổ Tát.
Lúc mà tiến trình thảo
phạt của Tây Lương dần lan tràn tới nước Cổ Tát, nước Cổ Tát đã tiến
hành chống cự một cách kịch liệt. Bọn họ phải đối mặt với quân Tây Lương nhiều gấp mười lần quân đội của họ, liều chết chống cự, dựa vào dãy núi Thiên Lang để làm lá chắn, tiến hành cuộc chống cự trong suốt mấy năm
ròng. Chính vì thế Tây Lương đã phải trả một cái giá rất đắt, nhưng Cổ
Tát còn thê thảm hơn những gì mà Tây Lương phải gánh chịu, cuối cùng
không thể không thuần phục dưới chân móng sắt của Tây Lương.
Cái
giá mà mấy vạn sinh mạng của bộ tộc Cổ Tát đánh đổi được cuối cùng là
cái danh xưng Tây Lương Hoàng Kim bộ tộc. Hơn thế nữa bộ tộc Cổ Tát trở
thành bộ tộc được nước Tây Lương rèn luyện để chuyên cung cấp vũ khí cho vương thành Thanh La.
Bởi chính nguyên nhân như vậy, nên có thời điểm từng có người đặt cho bộ tộc Cổ Tát cái tên là “rèn nô”, của nước
Tây Lương, ý là nô lệ rèn binh khí.
Tuy rằng là bộ tộc Hoàng Kim, thế nhưng thành Thanh La khống chế bộ tộc Cổ Tát hết sức nghiêm ngặt,
thậm chí có thời điểm còn đóng quân ở núi Thiên Lang, phòng ngừa bộ tộc
Cổ Tát mưu phản.
Đương kim Đại phi, chính là người của bộ tộc Cổ Tát.
Lập quốc trên một trăm năm, tuy Đại phi tuyển từ bát Cung phi, thế nhưng
trước đương kim Đại phi Cổ Tát, thì từ trước tới nay bộ tộc Cổ Tát chưa
hề có một ai được là Đại phi. Hơn nữa phi tử là người của bộ tộc Cổ Tát
trong hoàng cung luôn bị hậu cung cười nhạo, với một lý do hết sức đơn
giản, cái tên bộ tộc Cổ Tát là “rèn nô” đã được truyền khắp Tây Lương và các nước Tây Vực các nước, cứ nhắc tới bộ tộc Cổ Tát, điều đầu tiên
người ta nghĩ tới đó chính là “rèn nô”. Cho nên các phi tử của Cổ Tát
trong bát Cung phi thường xuyên bị người ta âm thầm cười nhạo là “rèn nô phi” .
Trước khi Đại phi Cổ Tát xuất hiện, trong hoàng cung Tây
Lương phi tử Cổ Tát luôn bị xa lánh, để tồn tại được rất khó khăn, chỉ
đến lúc đương kim Đại phi Cổ Tát xuất hiện, thì phi tử của bộ tộc Cổ Tát ở trong hậu cung của Tây Lương mới có thể nở mày nở mặt.
Sự tích Cổ Tát Đại phi, luôn luôn là một câu chuyện cổ tích huyền thoại được lưu truyền trên thảo nguyên.
Mọi người đều biết rằng, Cổ Tát Đại phi không phải là người mà bộ tộc Cổ
Tát đưa vào trong hoàng cung, mà chính là Tây Lương vương đã tự mình đưa về hoàng cung.
Người ta truyền tai nhau rằng, mười ba năm trước, Tây Lương vương nghe nói ở đám núi Thiên Lang có rất nhiều hung cầm
mãnh thú, liền đem theo binh mã đi tới dãy núi Thiên Lang săn bắn.
Dãy núi Thiên Lang liên miên trập trùng, Tây Lương vương dẫn một đội vào
trong dãy núi này săn bắn, vì một mình đuổi theo một con mồi, đã bị lạc
đường trong dãy núi này.
Trong dãy núi có nhiều cây cổ
thụ rậm rạp, dây leo quấn chằng chịt, Tây Lương vương chính tại nơi đây
đã đối mặt với một con gấu lớn. Tây Lương vương đã cùng với con gấu lớn
đấu một trận, dựa vào thân hình dũng mãnh, tuy đã giết được con gấu, thế nhưng trong lúc giao chiến với con gấu Tây Lương vương cũng bị thương
không nhẹ, thiếu chút nữa là mất mạng.
Y có thể sống sót được,
chính là vì đã gặp được một thiếu phụ đang đi hái thuốc trong rừng, hơn
thế nữa thiếu phụ đó chính là Cổ Tát Đại phi hiện nay. Hai người trong
rừng đã xảy ra chuyện gì, không ai hề hay biết, mọi người chỉ biết rằng
chính là Cổ Tát Đại phi đã cứu Tây Lương vương từ cõi chết trở về.
Thế nhưng không ít người sau này lại nghe nói rằng, lúc đó Cổ Tát Đại phi
không hề hay biết thân phận của Tây Lương vương, chỉ nghĩ rằng đó là một võ sĩ bình thường, sau khi chia tay, không lâu sau đó, Tây Lương vương
có ý chỉ đến bộ lạc Cổ Tát, muốn Cổ Tát Đại phi tiến cung.
Chỉ có một số ít người biết rằng, Cổ Tát Đại phi lúc bấy giờ là người có
chồng, hơn thế nữa Cổ Tát Đại phi, là con gái của em tộc trưởng Cổ Tát
thời bấy giờ. Tuy không được coi là Tháp Lang Cách nhưng là con gái của
em tộc trưởng, thì cũng thuộc vào dòng Tháp Lan Cách cao quý, cũng có tư cách để tiến cung. Hoặc cũng có thể bộ tộc Cổ Tát đã cảm nhận cơ hội để ngẩng cao đầu với các nước khác đã tới, nên tộc trưởng của bộ tộc Cổ
Tát đã ra lệnh cho Cổ Tát Đại phi và chồng mình phải xa cách, vô cùng
long trọng đưa Cổ Tát Đại phi tấn cung.
Đã nhiều năm rồi, Bát
cung phi đều là do các bộ tộc tiến cử mỹ nhân tới, trước nay không hề có chuyện Tây Lương vương chỉ định bất cứ mỹ nữ nào tiến cung, bộ tộc Cổ
Tát từ khi bị Tây Lương hàng phục, tuy rằng được sắc phong là bộ tộc
Hoàng Kim, nhưng luôn luôn bị khống chế một cách nghiêm ngặt, hơn thế
nữa, núi Thiên Lang còn có trọng binh đóng quân, bộ tộc Cổ Tát sinh sống hết sức gian khổ. Tây Lương vương muốn Cổ Tát Đại phi tiến cung, thì
tất nhiên là những người có quyền lực nhất của bộ tộc Cổ Tát ắt sẽ điều
tra để làm rõ nguyên do, sau khi đã làm sáng tỏ, thì biết rằng cơ hội để làm rạng rỡ bộ tộc Cổ Tát đã tới.
Khi Cổ Tát Đại phi tiến cung,
thì đã là thiếu phụ hai ba hai tư tuổi, lúc mới đầu chỉ được phong làm
tiểu phi, nhưng Tây Lương vương vô cùng sùng ái. Chỉ sau khi tiến cung,
Cổ Tát đại phi mới biết người đàn ông mà mình đã từng cứu giúp, không
ngờ lại là đương kim Tây Lương vương của Tây Lương đế quốc.
Chính vì chế độ của đế quốc, cho nên vị trí phi tử của bát cung và đại phi
không dễ mà dao động, mặc dù Tây Lương Vương đối với Cổ Tát Đại phi sủng ái vô cùng, nhưng không có cách nào để thăng tiến một vị trí cao hơn
cho nàng.
Cổ Tát Đại phi được Tây Lương Vương sủng ái đặc biệt,
hiển nhiên đã chạm đến lợi ích của các phi tử khác trong hậu cung, cho
nên tất cả các phi tử nhất nhất nhằm về phía Cổ Tát Đại phi, thậm chí
lúc đó ở trong bát cung, cùng là phi tử do bộ tộc Cổ Tát tiến cung cũng
đã nảy sinh sự thù hận về tình cảm, không những không trợ giúp đồng bào
của mình, ngược lại còn nhiều tìm cách lần hãm hại.
Cổ Tát Đại
phi ở trong hậu cung cũng đã học được cách phải tranh đấu như thế nào,
hơn thế nữa còn học được cách nhẫn nại, sau khi tiến cung được hai năm,
Tây Lương vương liền tìm lấy một lý do, phế truất Cổ Tát phi lúc bấy
giờ, giáng xuống làm tiểu phi, còn Cổ Tát Đại phi hiển nhiên được tiến
cử vào ghế Cổ Tát cung phi hiện còn đang trống, ba năm sau, Đại phi
đương nhiệm qua đời, Cổ Tát Đại phi liền được Tây Lương Vương sắc phong
làm đại phi.
Bởi vậy, đại phi đầu tiên của bộ tộc Cổ Tát đã được sinh ra.
Còn Cổ Tát Đại phi trong những năm tháng sau này, có một sức ảnh hưởng vô
cùng to lớn đối với Tây Lương vương, có rất nhiều chuyện của quốc gia,
đằng sau luôn luôn có bóng dáng của Cổ Tát Đại phi tồn tại.
Dưới
tầm ảnh hưởng của Cổ Tát Đại phi, quân đội đóng ở núi Thiên Lang đã phải di dời, cũng là lúc bộ tộc Cổ Tát được tự do cùng với các bộ tộc khác
lưu thông hàng hóa, nhưng điều quan trọng nhất, tộc Ma Ha đã từng khống
chế sự tăng trưởng nhân khẩu của bộ tộc Cổ Tát, thì giờ đây dưới sự ảnh
hưởng của Cổ Tát Đại phi, pháp lệnh này đã được xóa bỏ, số lượng nhân
khẩu của bộ tộc Cổ Tát, đã nhanh chóng bắt đầu tăng trưởng.
Bộ
tộc Cổ Tát hiện nay, dưới sự trợ giúp của Cổ Tát đại phi, đã khôi phục
được được sức mạnh như năm nào, đã có thể xứng danh với sắc phong bộ tộc Hoàng Kim của một bộ tộc lớn.
Uy thế và tầm ảnh hưởng của Cổ Tát đại phi, ở nước Tây Lương có thể nói là không thể khinh nhường.
Ma Ha Đạt Khánh trước trước đám đông công bố Ma Ha Tạng không tôn trọng
Đại phi, mặc dù nói một cách không rõ ràng, thế nhưng mọi người đều hiểu được dụng ý trong đó, cho nên đám đông người của Trác Nhan Bộ đều cảm
thấy giật mình, thử nghĩ nếu như Ma Ha Tạng thật sự như những gì mà Ma
Ha Đạt Khanh nói, vô lễ với Cổ Tát đại phi, thì quả thật là không còn
cách nào có thể xin sự khoan hồng của Tây Lương Vương, chắc chắn sẽ trở
thành tội nhân của nước Tây Lương.
Trác Nhan Bộ đã theo Ma Ha
Tạng tập kích rất nhiều quân doanh trước đấy, nếu như Ma Ha Tạng là tội
thần, vậy thì Trác Nhan Bộ cũng dĩ nhiên trở thành bộ tộc phản nghịch,
một khi Tây Lương Vương tức giận, thì bộ tộc Trác Nhan ắt sẽ bị diệt
vong.
Ma Ha Tạng đương nhiên cảm thấy nỗi sợ hãi của mọi người,
cất tiếng cười lớn rồi đứng dậy, giơ con đao đang nắm trong tay lên, chỉ về Ma Ha Đạt Khánh:
- Thập tam thúc, cái bản lĩnh ngậm máu phun
người của thúc, thiên hạ không mấy người có thể so sánh được. Thúc cùng
với phản tặc Ma Ha La thông đồng cấu kết, với ý đồ mưu quyền soán vị.
Thánh chủ hiện đã biết việc này, bổn vương phụng lệnh của Thánh chủ,
phải bình định bọn người phản tặc này!
Ma Ha Đạt Khánh hét lớn:
- Ngươi nói bậy. Đúng rồi, Thánh chỉ, ta có Thánh chỉ, Thánh chỉ của
Thánh chủ đang ở trong đại trướng của ta, những chiến binh của bộ tộc
Trác Nhan, các ngươi đã bị Ma Ha Tạng mê hoặc, không được tin lời của
hắn. Nếu như theo hắn, thì các ngươi chỉ có đường chết mà thôi. Mọi
người hãy lập tức xuống ngựa, hạ vũ khí xuống, đem Ma Ha Tạng trói lại,
bổn quan cam kết sẽ thưa với Thánh chủ để xin tha cho các ngươi. Nếu như Thánh chủ biết được các ngươi chỉ vì bị Ma Ha Tạng mê hoặc, thì nhất
định sẽ tha thứ cho các ngươi.
Trác Nhan Luân đã bước lên phía trước lạnh lùng nói:
- Các con à, Ma Ha Đạt Khánh nói nhảm đâu, không nên được tin. Ma Ha Đạt
Khánh cùng với tiểu Vương tử thông đồng cấu kết, mưu đồ đoạt vị, còn cái gọi là Thánh chỉ, cũng chỉ là do bọn họ bịa đặt mà ra thôi, chúng ta
nhất định phải đi theo đại Vương tử, tiêu diệt bọn phản loạn.
Lão bây giờ đang trong tình cảnh đâm lao phải theo lao, không còn có con đường nào để đi rồi.
Sở Hoan hoài nghi liếc mắt nhìn về phía Ma Ha Tàng, nhưng lại không biết
sự khiển trách của Ma Ha Đạt Khánh là thật hay là giả, quả thật là Ma Ha Tạng vô lễ đối với Cổ Tát đại phi? Thế nhưng có một điểm mà hắn có thể
khẳng định, bất luận chuyện vô lễ với Cổ Tát đại phi là thật hay giả,
thì có một chuyện chắc chắn là sự thật, đó là chuyện tranh đấu của hai
Vương tử nước Tây Lương. Ma Ha Tàng khiển trách Ma Ha Đạt Khánh cấu kết
với tiểu Vương tử Ma Ha La tạo phản, hai bên đều tự cho mình là đúng,
nhưng điều đó cũng thể chứng minh được một điều, tình thế của hai vị
Vương tử lúc này như nước với lửa.
Chuyện như vậy, Sở Hoan đương nhiên sẽ không cảm thấy quá lạ lùng.
Từ xưa tới nay, xuất thân ở tầng lớp quý tộc trong gia đình hậu duệ đế
vương, trước giờ vẫn không hề thiếu chuyện như vậy. Ma Ha Tạng cùng các
huynh đệ khác tranh đấu, cũng chỉ là sự tái diễn các cuộc tranh giành
ngôi vị đế vương của các vương triều.
Chỉ là có thể ép một nhân
vật tầm cỡ như Ma Ha Tàng đến hoàn cảnh như vậy, phải mượn binh mã từ bộ tộc Trác Nhan, xem ra, Ma Ha La Vương tử cũng không phải là hạng người
bình thường, chí ít thế lực bên cạnh của vị Ma Ha La Vương tử nhất định
hết sức hùng mạnh.
Dưới bầu trời đêm, những con ngựa đang phì phò thở, các dũng sĩ không phát ra một lời, ánh hàn quang tỏa ra từ lưỡi
của đại đao trường thương sắc bén, dường như mang theo một sát khí đằm
đằm.
Chính vào lúc đó, chợt nghe thấy từng trận vó ngựa vang lên
cách đó không xa, tiếng chân rầm rập, chính là từ phía xa đang nhanh
chóng tiến lại gần, liền nghe thấy một âm thanh lớn hô lên:
- Tộc trưởng đến!
Thân hình của Na Sử Khỉ La như giật bắn lên. Nàng đứng trong đám đông người, ở bên trong bóng tối, cũng không có ai nhìn thấy nàng, chỉ là nàng nghe thấy hai chữ “Tộc trưởng”, mặt liền biến sắc, trong lòng hiểu rằng, cái gọi là “Tộc trưởng”, chính là phụ thân của nàng, tộc trưởng của Hoàng
Kim Na Sử chính là Na Sử Bột Cổ Lợi.