Dịch giả: nh0ckd255
Cộp, cộp, cộp.
Tiếng bước chân vang vọng khắp hành lang hẹp và u ám, truyền tới một mảng yên tĩnh xa xa, không còn âm thanh nào khác.
Klein thẳng lưng không nhanh không chậm đi theo mục sư trung niên, không hỏi, không nói chuyện, lặng như hồ nước không gió.
Đi qua con đường được canh gác nghiêm ngặt, mục sư trung niên dùng chìa khoá mở một cửa đóng kín, chỉ vào cầu thang làm từ đá bên dưới, nói:
“Bên trái đường chữ thập là cửa Chianese.”
“Nguyện nữ thần phù hộ ngài.” Klein điểm bốn cái trước ngực, vẽ ra “hình dạng” của mặt trăng đỏ rực. Ở thế giới không tôn giáo thì dùng lễ tiết bình thường, còn trong tôn giáo thì dùng nghi thức của tôn giáo.
“Ca ngợi nữ thần.” Mục sư trung niên cũng đáp lại bằng một động tác tương tự.
Klein không nói gì thêm, nương theo ánh đèn khí gas thanh lịch được gắn ở bức tường hai bên mà đi xuống cầu thang bằng đá, từng bước đi vào trong bóng tối.
Đi được một nửa, hắn quay đầu lại theo bản năng thì thấy mục sư trung niên kia vẫn đứng ở cửa, trên đỉnh cầu thang, trong bóng tối nơi không có ánh sáng của đèn khí gas, hệt như một bức tượng không hề động đậy.
Klein thu hồi tầm mắt, tiếp tục đi xuống. Không lâu sau hắn đặt chân lên mặt đất lát đá lạnh như băng, đi thẳng tới ngã tư.
Hắn không đi về phía “cửa Chianese”, bởi Dunn Smith vừa thay ca chắc chắn sẽ không ở nơi đó.
Men theo con đường quen thuộc bên phải, Klein lại đi lên một cầu thang khác, xuất hiện bên trong “công ty Bảo an Gai Đen“.
Thấy cửa phòng không đóng kín thì khép hờ, hắn không lỗ mãng tìm kiếm mà tiến vào sảnh tiếp khách, thấy một cô gái tóc xù tươi cười ngọt ngào đang chăm chú đọc một cuốn tạp chí.
“Hi, Roxanne.” Klein đi tới bên cạnh, cố ý gõ nhẹ xuống bàn.
Loảng xoảng!
Roxanne đứng bật dậy, làm ngã cả ghế dựa, bối rối nói:
“Hi, hôm nay trời đẹp thật, anh, anh, Klein, sao anh lại tới đây?” Cô ta giơ tay xoa ngực, thở hổn hển mấy hơi hệt như cô nhóc lười biếng bị cha bắt gặp.
“Tôi có việc tìm đội trưởng.” Klein trả lời ngắn gọn.
“... Làm tôi sợ muốn chết, tôi còn tưởng đội trưởng tới chứ.” Roxanne trợn Klein một cái: “Còn chả biết gõ cửa! Hừ, anh nên cảm thấy may mắn vì tôi là một quý cô rộng lượng, nhân từ. Ừm, tôi thích từ cô gái hơn... Anh tìm đội trưởng làm gì thế? Anh ấy ở trong phòng đối diện với phòng của phu nhân Olean ấy.”
Cho dù lúc này tinh thần khá căng thẳng, Klein vẫn bị Roxanne làm cho bật cười, hắn trầm ngâm rồi đáp:
“Bí mật!”
“...”
Trong lúc Roxanne trợn mắt lên, không thể tin được thì Klein cúi đầu chào, nhanh chóng cáo từ. Hắn lại đi tới cánh cửa thông với phòng tiếp đón, gõ cửa phòng làm việc thứ nhất bên tay phải.
“Mời vào.” Giọng nói trầm và ôn hoà của Dunn Smith vang lên.
Klein đẩy cửa vào rồi khép lại, ngả mũ chào:
“Chào buổi sáng, đội trưởng.”
“Chào buổi sáng, có chuyện gì không?” Chiếc áo gió và mũ của Dunn đang treo trên giá treo quần áo ở bên cạnh, để lộ ra chiếc áo sơ mi trắng và ghile màu đen, cho dù đường chân tóc cắt cao và đôi mắt xám sâu thẳm kia, trông anh vẫn thoải mái hơn không ít.
“Có người theo dõi tôi.” Klein trả lời thành thật, không chải chuốt câu chữ gì cả.
Dunn dựa ra sau, nắm hai tay lại, dùng đôi mắt xám sâu sắc nhìn vào mắt Klein. Anh ta không bám theo câu kia, mà hỏi ngược lại:
“Cậu tới từ giáo đường?”
“Vâng.” Klein trả lời khẳng định.
Dunn khẽ gật đầu, không nói tốt hay xấu, chỉ quay lại chủ đề chính:
“Có thể là cha của Welch không tin về nguyên nhân vụ án mà chúng ta thông báo, nên thuê thám tử tư từ thành phố Gió tới điều tra.”
Thành phố Conston của quận Gian Hải còn được gọi là thành phố Gió, là địa khu có sản nghiệp đá hoa cương cực kỳ phát triển, có thể xếp thứ ba trong tất cả các thành phố của vương quốc Ruan.
Không chờ Klein nói gì, Dunn nói tiếp:
“Cũng có thể là tới từ cuốn bút ký kia. Chúng tôi đang điều tra xem Welch lấy được cuốn bút ký gia tộc Antigenous từ nơi nào, đương nhiên không thể loại trừ cá nhân, hoặc là tổ chức đang truy tìm cuốn bút ký này.”
“Tôi nên làm gì?” Klein trầm giọng hỏi. Không thể nghi ngờ là hắn mong đó là nguyên nhân thứ nhất.
Dunn không trả lời ngay, nhấc cốc cà phê lên nhấp một ngụm, đôi mắt xám không chút gợn sóng:
“Trở về theo con đường lúc trước, sau đó làm bất cứ chuyện gì mà cậu muốn làm.”
“Bất cứ?” Klein hỏi lại.
“Bất cứ chuyện gì.” Dunn gật đầu khẳng định: “Đương nhiên đừng có làm đối phương sợ chạy mất, cũng đừng vi phạm pháp luật.”
“Vâng.” Klein hít vào một hơi, cáo từ rồi rời khỏi căn phòng, lại đi xuống cầu thang xuống lòng đất.
Hắn rẽ trái ở ngã tư kia, đi trong hành lang trống trải không người, u ám lạnh lẽo với ánh sáng từ đèn khí gas hai bên tường.
Tiếng cộp cộp chồng lên nhau khiến xung quanh càng vắng vẻ, càng khiến người ta sợ hãi.
Klein nhanh chóng tới gần cầu thang kia, bước từng bước đi lên, thấy vị mục sư trung niên đứng trong bóng tối trước cửa. Hai người gặp lại, không ai nói gì. Mục sư trung niên im lặng quay người nhường đường.
Lặng lẽ bước đi, Klein về tới sảnh cầu nguyện. Những ánh sáng từ những lỗ tròn sau đài thánh hình vòm vẫn trong lành như trước, căn phòng bên trong vẫn tối tăm và yên lặng, các quý ông quý bà vẫn đang xếp hàng bên ngoài phòng xưng tội, chỉ là đã vơi đi rất nhiều.
Klein chờ một lúc, rồi cầm gậy batoong và tờ báo chậm rãi rời khỏi sảnh cầu nguyện, ra khỏi giáo đường St. Selina như không có chuyện gì xảy ra.
Vừa ra ngoài, thấy ánh mặt trời, hắn lại cảm thấy bị nhìn chòng chọc, cảm thấy mình hệt như con mồi đang bị diều hâu rình mò.
Bỗng nhiên một điểm đáng ngờ loé lên trong đầu óc hắn: Vì sao ban nãy “kẻ nhìn lén” không theo mình vào giáo đường? Tuy rằng nhờ vậy mà mình có thể dựa vào không gian u ám và sự hỗ trợ của mục sư để “biến mất” trong khoảng thời gian ngắn, nhưng tên kia chỉ cần giả vờ cầu nguyện để đi theo theo dõi thì khó lắm sao? Không làm chuyện gì xấu, quang minh chính đại đi vào thì có vấn đề gì?
Trừ phi là kẻ đó từng có tiền án tiền sự, sợ giáo hội, sợ giám mục, biết đối phương có lẽ có năng lực phi phàm... Xem ra khả năng thám tử tư này có vẻ rất rất thấp...
Phù! Klein thở hắt ra, không còn căng thẳng như trước nữa. Hắn nhãn nhã cất bước đi tới mặt sau phố Zoutelande.
Hắn dừng lại trước một kiến trúc có phong cách cổ xưa, bức tường đã loang lổ không ít. Nhà này số “3”, tên là “Câu lạc bộ bắn súng Zoutelande“. Sở cảnh sát có mở một phần cho “dân chúng” bãi bắn dưới lòng đất để kiếm thêm kinh phí hoạt động.
Klein vừa bước vào thì cảm giác bị nhìn trộm lại lập tức biến mất. Hắn nắm lấy cơ hội, đưa huy hiệu “Bộ phận Hành động Đặc biệt” cho nhân viên phục vụ phụ trách tiếp đón.
Sau khi được nghiệm chứng sơ qua, hắn được dẫn xuống dưới lòng đất, đi vào một bãi bắn đóng kín.
“Bia mười mét.” Klein nói một câu đơn giản với người phục vụ, sau đó rút khẩu súng lục ra khỏi bao súng dưới nách, lại lấy hộp đạn màu đồng thau trong túi quần ra.
Đột nhiên bị người ta theo dõi khiến hắn khát vọng có được năng lực tự bảo vệ bản thân, vì thế mới vội vàng chạy tới đây luyện tập bắn súng.
Cạch!
Sau khi người phục vụ đi rồi, hắn vặn ổ xoay, tháo hết các viên đạn săn ma ra, rồi nhặt lấy đạn đồng thau bình thường bỏ vào trong các ô đạn.
Lúc này hắn không bỏ trống một ô phòng ngừa cướp cò, cũng không cởi áo vest xuống hay bỏ mũ phớt xuống. Hắn muốn luyện tập như lúc ăn mặc bình thường, dù sao không có chuyện gặp phải kẻ địch, gặp phải nguy hiểm rồi còn hô là “xin chờ một chút, để tôi đổi bộ đồ khác thuận tiện hơn đã“.
Cạch!
Klein đóng ổ xoay lại, dùng ngón cái quay tròn một cái.
Đột nhiên, hắn nắm súng bằng hai tay, giơ thẳng lên nhắm tới bia ngắm cách đó mười mét.
Nhưng hắn không vội bắn, mà còn nghiêm túc nhớ lại lần bắn không trúng bia đợt đi huấn luyện quân sự và những kiến thức thường thức như ba điểm một đường thẳng, nổ súng sẽ bị giật ra sau này nọ.
Xoạt xoạt!
Trong tiếng quần áo loạt xoạt, Klein tập ngắm bắn, tập tư thế cầm súng, nghiêm túc như một đứa trẻ đang chuẩn bị cho thi tốt nghiệp.
Sau nhiều lần tập, hắn lùi về chỗ tường, ngồi xuống chiếc ghế mềm dài và hẹp, đặt súng lục qua một bên, tự mát xa cánh tay, nghỉ ngơi một lát.
Hồi tưởng về những gì vừa luyện vài phút, Klein cầm lấy chiếc súng lục có phần báng súng bằng gỗ và ổ xoay đồng thau đi vào vị trí bắn, đứng theo tư thế tiêu chuẩn, bóp cò.
Pằng!
Tay hắn rung lên, thân thể hơi ngửa ra sau, viên đạn lệch khỏi bia ngắm.
Pằng! Pằng! Pằng!
Hắn rút kinh nghiệm, bắn liên tục mấy phát để lấy kinh nghiệm từ thực hành, mãi cho tới khi bắn xong cả sáu viên đạn.
Bắt đầu trúng bia ngắm... Klein lại lui ra, ngồi xuống, thở hổn hển hai cái.
Xoạch! Hắn mở ổ xoay ra, đổ cho sáu vỏ đạn rơi xuống đất, sau đó mặt lạnh tanh nhét từng viên đạn sáng màu đồng thau khác vào trong ổ đạn.
Thả lỏng cánh tay, Klein lại đứng lên, vừa tổng kết vừa về vị trí bắn.
Pằng! Pằng! Pằng!
Tiếng súng vang vọng, bia ngắm rung rung. Klein luyện tập rồi nghỉ ngơi, cứ thế luân phiên. Hắn bắn hết ba mươi viên đạn được nhận cùng với năm viên đạn còn thừa lúc trước, dần dần đã bắn trúng bia ngắm, bắt đầu theo đuổi vòng số.
Hắn lắc lắc cánh tay đau nhức, đổ năm vỏ đạn cuối cùng ra, sau đó lại đút những viên đạn săn ma màu bạc có hoa văn phức tạp vào, và để trống một ô đề phòng cướp cò.
Sau khi nhét súng vào bao súng dưới nách, Klein phủi bụi bặm và khói thuốc súng trên người, sau đó toàn thân thoải mái đi ra khỏi bãi bắn chuyên dụng, trở lại đường phố.
Cảm giác bị theo dõi lại xuất hiện, lúc này Klein đã bình tĩnh hơn trước rất nhiều. Hắn chầm chậm đi tới phố Champagne, bỏ 4 penny đi xe ngựa công cộng theo tuyến cố định về phố Chữ Thập Sắt, vào nhà trọ của mình.
Cái cảm giác bị theo dõi lại biến mất, hắn móc chìa khoá mở cửa phòng, thấy một người đàn ông tuổi gần ba mươi, mặc áo sơ mi sợi đay, để tóc ngắn đang ngồi trước bàn học.
Lòng vốn đang căng thẳng lập tức thả lỏng, Klein mỉm cười gọi:
“Chào buổi sáng, không, chào buổi trưa, Benson.”
Người đàn ông này chính là anh trai của hắn và Melissa, Benson Moretti, năm nay mới hai mươi lăm tuổi, khuôn mặt trông già trước tuổi nên nhìn như sắp ba mươi đến nơi. Anh ta có tóc đen mắt nâu, trông khá giống Klein, nhưng không có được cái phong thái thản nhiên của người trí thức.
“Chào buổi trưa, Klein, phỏng vấn thế nào rồi?” Benson đứng lên, mỉm cười hỏi. Chiếc áo khoác màu đen và mũ phớt cao nửa đều được treo ở phần gồ ra của chiếc giường tầng.
“Rất là tệ.” Klein đáp, mặt không biểu cảm.
Thấy Benson sửng sốt, Klein khẽ cười, bổ sung:
“Thực tế là em không tham gia phỏng vấn, em tìm được công việc khác rồi, lương 3 bảng một tuần...”
Hắn lặp lại những lời đã nói với Melissa lúc trước.
Benson dịu mặt đi, lắc đầu cười nói:
“Có cảm giác con mình đã trưởng thành vậy... Ừm, công việc này cũng không tệ lắm.”
Anh thở dài, nói:
“Bôn ba trở về nghe được tin tốt như vậy quả thực không tệ, tối nay chúng ta phải ăn mừng mới được, mua thịt bò nhỉ?”
Klein cười nói:
“Vâng, nhưng em sợ Melissa sẽ tiếc đó. Chiều chúng ta cùng đi mua nguyên liệu nhỉ? Mang theo chí ít 3 Saule? Chậc, nói thực ra 1 bảng đổi 20 Saule, 1 Saule đổi được 12 penny, còn có nửa penny và một phần tư penny nữa, cái chế độ tiền tệ này quả thực quá ư là rắc rối. Em nghĩ nó phải là một trong những chế độ tiền tệ ngu xuẩn nhất ở thế giới này.”
Nói xong, hắn thấy vẻ mặt Benson trở nên nghiêm túc, thế là cảm thấy bất an, lo sợ mình nói gì sai. Chẳng lẽ trong những mảnh vỡ ký ức thiếu sót của nguyên chủ, Benson là một kẻ ủng hộ vương quốc cực đoan, không chấp nhận kẻ khác chế giễu này nọ?
Benson chậm rãi bước vài bước, nghiêm túc phản bác:
“Không, không phải một trong.”
Không phải một trong... Klein ngẩn ra rồi kịp phản ứng, nhìn Benson rồi cả hai cùng cười.
Quả nhiên Benson rất giỏi trào phúng kiểu hài hước.
Benson nhếch khoé miệng, nghiêm trang bổ sung:
“Chú nên hiểu rằng muốn đặt ra một chế độ tiền tệ vừa đơn giản lại hợp lý thì cần tiền đề, đó là phải biết đếm số, nắm giữ thuật toán. Tiếc rằng trong những nhân vật lớn kia, nhân tài như vậy quá hiếm.”