CHƯƠNG 0: TIẾT TỬ
Hàn Thiền thê thiết, đối Trường Đình vãn, sậu Vũ Sơ yết ()
(ve mùa đông kêu sầu, nơi đình muộn chiều hôm, mưa đầu mùa chợt tạnh)
–oOo–
Triều Phụng Thiên dưới thời vua Triết Tông, thiên tử mê muội, triều cương biến loạn, xã tắc tiêu điều. Tháng hai Kỳ Ninh năm thứ ba, Già Nam Vương dấy lửa khởi binh, chỉ huy quân phía bắc, trực chỉ kinh thành và các vùng lân cận. Tháng tám, Trường Sa Vương xuất binh gấp rút chi viện. Sau đó, các chư hầu đều xuất quân cần vương, tạo nên cục diện thiên hạ đại loạn.
Tháng chạp Kỳ Ninh năm thứ tư, Già Nam Vương bại trận, tự vận trên sông Tị Thủy. Cuối tháng, thiên tử băng hà, cửu châu [1] đau xót tiễn đưa. Tân đế hãy còn nhỏ tuổi, thái hậu lại nhu nhược, trung thần trong triều chẳng còn ai, non sông gấm vóc không người phó thác, mặc cho hoàng thất ngang ngược, chư hầu hỗn chiến. Thiên hạ bốn bề báo hiệu bất ổn, máu chảy thành sông.
[1: ]
Ninh Hựu năm thứ ba, dưới thời vua Tĩnh Tông, Lỗ Tĩnh Vương Tần Lan Vọng đại thắng Nghi Xuyên Vương. Sáu thành Huy châu đổi chủ. Rồi lần lượt chín thành của Minh châu, bảy thành của Diệu châu, năm thành của Doanh châu, một nửa giang sơn nằm trọn trong tay ông ta.
Tháng bảy, Khâm Thiên Giám bẩm báo trên trời xuất hiện sao chổi phía đông nam. Năm ngày sau, Lang Gia Vương Tần Lan Khê đưa quân đến thành bên dưới Yên Sơn [2]. Nội trong một ngày đã công phá liên tiếp ba thành Yên, Tuấn, Thối. Đem trọn hai mươi thành của tam châu Đông Nam quy về một mối. Thiên hạ xôn xao, đồ rằng đúng là Đế tinh hiện thế.
[2: ]
Ninh Hựu năm thứ năm, đất cửu châu hứng chịu vô vàn vết thương. Thiên hạ dần chuyển mình, từ chiến loạn do chư hầu gây ra thành cục diện Lỗ Tĩnh Vương và Lang Gia Vương hai nhà phân tranh.[1] Cửu châu: cách gọi khác của Trung Quốc.
[2] Yên Sơn: tên một dãy núi gồm ba ngọn núi trụ vững kéo dài về hướng nam, thuộc vùng đồng bằng sông nước ở Tây Bộ Nghi Hưng.
() câu chủ đề của truyện xuất phát từ bài thơ Vũ Lâm Linh, tác giả Liễu Vĩnh.
Bản gốc:
寒蟬淒切,
對長亭晚,
驟雨初歇。
都門帳飲無緒。
留戀處、
蘭舟催發。
執手相看淚眼,
竟無語凝噎。
念去去。
千里煙波,
暮靄沉沉楚天闊。
多情自古傷離別,
更那堪、
冷落清秋節!
今宵酒醒何處?
楊柳岸、
曉風殘月。
此去經年,
應是良辰。
好景虛設。
便縱有千種風情,
更與何人說?
Phiên âm:
Hàn thiền thê thiết,
Đối trường đình vãn sậu vũ sơ yết.
Đô môn trướng ẩm vô tự,
Lưu luyến xứ, lan chu thôi phát.
Chấp thủ tương khán lệ nhãn,
Cánh vô ngữ ngưng yết.
Niệm khứ khứ,
Thiên lý yên ba.
Mộ ái trầm trầm, Sở thiên khoát.
Đa tình tự cổ thương li biệt,
Cánh na kham lãnh lạc thanh thu tiết?
Kim tiêu tửu tỉnh hả xứ?
Dương liễu ngạn hiểu phong tàn nguyệt.
Thử khứ kinh niên,
Ưng thị lương thần hảo cảnh hư thiết.
Tiện túng hữu thiên chủng phong tình,
Cánh dữ hà nhân thuyết?
Dịch thơ:
(người dịch – Đông Hải Cù Sinh, nguồn)Ve kêu thảm thiết
Chiều trước trường đình
Trận mưa vừa hết.
Ngoài thành rượu tiễn chẳng hoài
Còn quyến luyến, thuyền đà giục riết.
Nắm tay nhìn mắt lệ rơi,
Nghẹn ngào, khôn nói xiết.
Bước chân đi ngàn dặm xa khơi
Trời Sở rộng mây chiều mù mịt.
Đa tình tự cổ đau li biệt
Sao chịu thấu tiết thu tàn gió rét!
Đêm nay tỉnh rượu nơi nào?
Bờ dương liễu gió mai trăng khuyết.
Biền biệt năm dài,
Thôi cảnh đẹp ngày vui giờ chẳng thiết.
Dẫu có muôn ngàn kẻ chung tình
Dễ ngỏ cùng ai biết?