Trong khoang thuyền, một già, một trẻ, một chiếc đèn bão ở giữa.
Chuyện cũ vốn đã như khói, nhưng theo lời kể lại của Trịnh Long Vương lại dần dần trở nên rõ ràng lên.
Trịnh Long Vương vốn tên là Đạo Tiên, cha là một vị đại tướng tâm phúc dưới trướng Nghĩa vương, trước khi ông ra đời, Thiên Kinh đã lâm vào nội chiến, Nghĩa vương suất bộ bỏ trốn, Trịnh đại tướng thề chết cũng đi theo. Mấy năm sau, Nghĩa vương bị bắt, bị hình phạt lăng trì nhưng không chút sợ sệt, hy sinh một cách bình thản. Thiên Kinh vào năm thứ hai cũng sụp đổ hoàn toàn. Nhưng Trịnh đại tướng vẫn không cam lòng, mang theo bộ hạ cũ trung thành tiếp tục tác chiến. Ông ấy muốn kế thừa di chí của Nghĩa vương, thề phản triều Thanh đến cùng, cứ chiến đấu liên tiếp như vậy. Lại qua mấy năm, dần dần trong lòng ông ấy cũng hiểu, đại thế đã mất, dẫu bản thân có đủ lòng căm hận và sự dũng cảm lên kế hoạch tác chiến, dựa vào sức một mình, muốn thay đổi càn khôn cũng là điều không thể.
Ông ấy sẵn sàng thực hiện di chí của Nghĩa vương cho đến khi chết, nhưng đi theo ông ấy, phần lớn là trung thần cùng nghĩa sĩ sát cánh bên nhau nhiều năm, sau lưng có già có trẻ. Trịnh đại tướng không đành lòng để họ tiếp tục đi theo mình chịu chết, quyết định giải tán quân đội, nhưng phần lớn thuộc hạ đều không chịu rời đi.
Trịnh đại tướng cuối cùng đưa ra quyết định, người nào ra đi thì cấp tiền bạc, ai không đi, thì cùng ông ấy dời đến Tây Nam xa xôi, tìm một vùng đất ẩn cứ, trước tiên tìm chỗ đặt chân, đợi ngày sau, nếu như thời cơ lại đến thì tiếp tục nâng cờ phản Thanh.
Nhưng mà, một người cầm tiền rời khỏi lại bán đứng ông ấy, mật báo với một tướng quân hoàng tộc, nói rằng Nghĩa vương sau khi chết, của cải nhiều năm tích lũy đã được cất giấu vào hầm, chỉ có một mình Trịnh đại tướng biết được. Tướng quân kia vì muốn đoạt số của cải kia, đã lĩnh binh truy kích đến vùng Lô Sơn, Trịnh đại tướng thần uy vô địch, ở trong trận đã bắt được tướng quân, sau một trận huyết chiến, dẫn mấy trăm nhân mã còn lại phá vây mà ra.
Ngày đó, phía trước là Giáp Môn quan, đằng sau là đông đảo truy binh, con đường sống duy nhất là đoạt Giáp Môn quan, dùng tên tướng quân kia làm con tin, mưu cầu đường lui.
Rõ ràng là một trận đối chiến vô cùng khốc liệt, nhưng theo lời kể của Trịnh Long Vương, lời nói lại bình thản, như thể đó đều là những chuyện mây khói thoảng qua.
Ông nhìn Hạ Hán Chử đối diện đang chăm chú lắng nghe, tiếp tục nói:
– Sau khi Thiên quốc không còn tồn tại, cha tôi dẫn cô quân, tiếp tục đối kháng với triều Thanh nhiều năm. Những người đi theo cha tôi đều dũng mãnh thiện chiến, lấy một địch mười. Tôi được sinh ra trên đường cha tôi chiến đấu cùng Nghĩa vương, sáu tuổi cầm đao giết người. Một năm kia, tôi 12 tuổi, cũng đã trải qua không dưới mấy chục trận chiến lớn nhỏ, lúc ấy, tôi theo cha cùng những vị chú bác đó, dùng sức của mấy trăm người đoạt lấy thành quan, sau đó cùng với vây binh đuổi kịp giằng co hơn nửa tháng.
– Phó tướng triều Thanh vì cứu tướng quân trở về, đồng ý thả chúng tôi đi. Nhưng có vết xe đổ từ Nghĩa vương, cha tôi không tin những người này. Ông ấy chết không sao, ông ấy muốn cầu một con đường sống cho mấy trăm người đi theo mình.
– Cha tôi năm đó mang binh, thương cảm bách tính, giết tham quan, trừng phạt ác thân, đến đâu đều được dân chúng ủng hộ, trăm phương ngàn kế âm thầm yểm hộ. Lệnh tổ lúc ấy làm quan tại kinh sư, bởi vì là người bản địa, nhà họ Hạ là danh môn thế gia vọng tộc, rất được chân chúng tin tưởng, cho nên được điều tới đảm nhiệm tham quân, tán họa phương lược. Cha tôi cự tuyệt đàm phán, cho đến khi tổ phụ của cậu đến.
– Cha tôi đồng ý gặp mặt. Tổ phụ của cậu cũng rất gan dạ, chấp nhận điều kiện đơn độc nhập quan, mạo hiểm đơn độc gặp cha tôi, sau khi nói chuyện, đã thống nhất thỏa thuận điều kiện.
– Cha tôi hứa sẽ không đi, để tôi cùng bộ hạ của ông ấy rút lui toàn bộ xong, ông ấy sẽ phóng thích tướng quân, cũng tự sát, đầu người mặc cho lệnh tổ lấy đi giao nộp.
– Lệnh tổ gặp mặt vị tướng quân bị bắt kia xong, được đối phương đồng ý, hứa hẹn đảm bảo cho tôi cùng mấy trăm người rút lui an toàn, tuyệt đối không phái người đuổi theo, cũng sẽ không kế tội. Song phương vì để nhận được sự tin tưởng của nhau, đều lấy phúc con cháu sau này mà thề độc với trời.
Từ lúc anh lên thuyền, Trịnh Long Vương nói rất nhiều, sức lực dường như không theo kịp, cả người chậm rãi dựa vào ghế, tốc độ nói cũng chậm lại.
Ông dừng lại, hơi nhắm mắt, như đang nhớ lại chuyện cũ, lại như bình ổn lại cảm xúc nội tâm, một lát sau mở mắt, tiếp tục nói:
– Đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in lời nhắn nhủ của cha tôi lúc xa nhau. Ông ấy nói, nhân phẩm của lệnh tổ có thể tin tưởng. Lúc đàm phán cha tôi từng thăm dò, nói cả bí mật về khó báu của Nghĩa vương cho lệnh tổ cậu biết, sau đó, nguyện phân chia với lệnh tổ, dùng cái này để đổi lại sự bảo vệ cho tôi và mấy trăm người đi theo mình. Nhưng lệnh tổ cậu không chút nghĩ ngợi đã từ chối thẳng thắn, nói nên giao kho báu cho triều đình, làm như vậy, cha tôi không cần phải tự sát, lệnh tổ cậu sẽ cầu xin triều đình cho cha tôi, lấy công chuộc tội, giữ lại tính mạng.
– Cha tôi rất căm hận triều Thanh, ý chết đã quyết, sao chịu kéo dài hơi tàn, huống chi ông ấy cũng không tin triều Thanh, người Thát làm sao biết tín nghĩa. Ông ấy căn dặn tôi, nếu như may mắn có thể thoát thân, về sau hãy mai danh, đừng báo thù cho ông hay Nghĩa Vương, quãng đời còn lại tìm kiếm những bộ hạ đã rời đi và giúp đỡ những gia đình của bộ hạ đã chết, rồi lấy vợ sinh con, sống bình an cả đời.
Tuy là hãn kiêu một đời, đường cùng phải chết, nhưng tình yêu thương với con không thể nghi ngờ.
Hạ Hán Chử nghe đến đó, khuôn mặt dao động.
Trịnh Long Vương tựa ở trên ghế, lại cười một tiếng
– Tư lệnh Hạ, cha tôi ngày đó quả thật đã đánh giá không sai về những người kia, nhưng lại không hề tin lầm lệnh tổ. Quả nhiên, ba ngày sau khi tôi và mấy chú bác xuất quan, cha tôi theo như lời hứa, sau khi thả tướng quân cũng tự sát, những người kia liền bỏ mặc sự phản đối của lệnh tổ cậu, ngang nhiên bội ước, bốn phía truy nã, thiết lập thiên la địa võng truy tra tung tích của tôi. Nửa tháng sau, tôi vì bị thương chưa lành, hành tung bị tiết lộ, vào thời khắc nguy nan, lệnh tổ cậu phái người đưa tới tin tức, bên tôi mới có thể thoát thân. Sau đó tôi đi vào giang hồ, ngày qua ngày, ghi nhớ lời nhờ vả lúc lâm chung của cha mình, tìm kiếm những bộ hạ cũ và thành viên trong gia đình của bộ hạ cũ đã rời đi còn sống và tản mát khắp mọi nơi. Không giấu gì Tư lệnh Hạ, trong Thủy hội của tôi hiện nay, có không ít là hậu nhân bộ hạ cũ của cha tôi và Nghĩa vương.
Trịnh Long Vương cuối cùng đã kể xong câu chuyện cũ đã chôn vùi và bị che khuất trong lịch sử xảy ra hơn bốn mươi năm trước, từng hình ảnh của quá khứ như hiện ra trước mắt Hạ Hán Chử. Anh hùng mạt lộ, huyết cùng chiến, sinh cùng tử, âm mưu cùng lời hứa, trong khoảnh khắc, cảm xúc tuôn trào.
Anh hít một hơi thật sâu.
– Đại đương gia chính là bởi vì nguồn gốc năm xưa giữa tổ phụ tôi và cha ngài, cho nên mới giúp đỡ tôi đúng không?
Trịnh Long Vương gật đầu.
– Lệnh tổ cậu giữ lời hứa, sau đó, dùng sức của bản thân ra sức phản đối bội ước, giúp tôi thoát thân, sự cao thượng này làm cho người ta kính trọng. Cậu là hậu nhân của ông ấy, đã tìm tới rồi, nếu tôi có thể giúp được, dĩ nhiên là tận hết sức mình.
Hạ Hán Chử đứng dậy, một lần nữa trịnh trọng cảm ơn, thái độ hết sức chân thành.
Trịnh Long Vương ra hiệu anh ngồi xuống, nhìn anh chăm chú, bỗng mỉm cười, theo đó lắc đầu.
– Có điều là Tư lệnh Hạ cũng không cần để trong lòng làm gì. Tôi sẵn lòng trợ giúp, nhưng bảo trả ân tình cho cậu, cũng không phải nói cái này.
Hạ Hán Chử lại lần nữa giật mình.
– Sự việc năm xưa, Trịnh gia tôi không nợ ân tình tổ phụ cậu, đôi bên đều có cách thức giữ đúng lời hứa của mình, là thực hiện lời hứa mà thôi. Lệnh tổ cậu trung thành với triều Thanh, sau đó cũng bởi vì cứu tướng quân, lấy được thủ cấp của cha tôi, có công mà được đề bạt.
– Về phần đến mười mấy năm trước, lệnh tổ cậu bởi vì sự việc năm xưa bị lừa oan, nhà họ Hạ nhà tan người tán, việc này tôi cũng có biết. Nhưng mà, họa diệt môn là bởi chuyện xưa, nhưng oan có đầu, nợ có chủ, đầu sỏ hại lệnh tổ cùng cả nhà họ Hạ cậu không phải Trịnh thị tôi, mà là triều Thanh cùng đám tiểu nhân Lục Hoành Đạt.
Hạ Hán Chử không thể không thừa nhận, sự bình tĩnh của Trịnh Long Vương, thậm chí là một vài lời nói còn mang mấy phần máu lạnh, kỳ thực cũng nói đúng trọng điểm của sự việc trên, không hề sai chút nào.
– Vậy Long vương có thể nói rõ, bảo là trả ân tình cho tôi, rốt cuộc là vì ai không?
– Thứ cho tôi ngu dốt, nếu như không phải nguồn gốc tổ tiên, Hạ Hán Chử tôi hôm nay có tài đức gì mà được Long Vương cho mặt mũi như thế.
Trịnh Long Vương nhìn anh chăm chú.
– Tôi là vì con gái Diệp thị, trả ơn cứu mạng của cậu với nó.
Lời vừa buông, Hạ Hán Chử sững sờ. Anh không thể tin nổi nhìn Trịnh Long Vương, mất một lúc lâu, sau khi xác nhận mình không hề nghe lầm mới hoàn hồn trở lại, vô số nghi vấn tranh nhau nổi lên.
Trịnh Long Vương làm sao lại biết thiếu gia nhà họ Tô là con gái?
Hạ Hán Chử tức khắc nhớ đến những lời đồn liên quan tới ông cùng Diệp Vân Cẩm. Quan hệ của họ rốt cuộc là như nào đây? Sao ông ấy lại chắc chắn mình biết thân phận nữ của cô?
Mà ơn cứu mạng…
Lẽ nào là vụ ám sát cho nổ xe lửa phát sinh năm ngoái?
Hạ Hán Chử muốn mở miệng, nhưng trong lúc nhất thời quá nhiều nghi vấn nổi lên, căn bản không biết mình nên hỏi gì trước.
Anh ngập ngừng, cuối cùng vẫn không nói gì cả.
Anh biết, người đối diện nhất định sẽ còn nói tiếp.
Quả nhiên, anh nghe Trịnh Long Vương nói.
– Diệp thị trước kia có ơn lớn với tôi, tôi không thể báo đáp, chỉ mong mẹ con cô ấy cả đời mạnh khỏe bình an. Lần trước con bé ở trên xe lửa, cậu đã cứu nó. Nếu không phải cậu đến kịp lúc, nó đã mất mạng rồi. Đây là ơn lớn hơn trời. Đừng nói chỉ một con trai Phùng Quốc Bang, dù là mười người, một trăm người, cũng không bằng ân tình cứu con bé của cậu.
Ở trong lòng Hạ Hán Chử, đủ loại cảm xúc một lần nữa đánh thẳng vào. Anh dường như đã hiểu, nhưng lại không dám khẳng định. Nhưng rất nhanh, anh trấn tĩnh lại, bỏ qua những điều không nên hỏi, cũng không cần hỏi thêm gì ông nữa, đã có một vài đầu mối.
– Xin hỏi Long vương, sao ngài lại biết chuyện này?
Vụ nổ trên xe lửa ngày đó đã gây ra động tĩnh rất lớn, không ngăn được báo chí đưa tin, nhưng nhìn bề ngoài, người ngoài và công chúng cũng không biết nội tình sự việc lúc cô và anh đổi hành trình gặp nguy hiểm. Việc này ngay cả người nhà cô cũng không mảy may hay biết, Trịnh Long vương ở tận Tây Nam, làm sao lại biết rõ như thế?
Trịnh Long Vương nói:
– Cha nuôi của Trần Anh Tứ Phương hội là bộ hạ cũ của cha tôi. Năm đó lúc rời khỏi Giáp môn quan, ông ấy đang độ trai tráng. Mười mấy năm trước, tôi và ông ấy đã gặp mặt.
Hạ Hán Chử lần nữa kinh ngạc.
Trịnh Long Vương lại rất bình thản, như đây là một sự kiện hết sức bình thường, tiếp tục nói:
– Con gái Diệp thị xa nhà, người nhà không thể quan tâm nhiều được, tôi bèn nhờ bạn cũ, nếu như thấy con bé gặp chuyện khó khăn không giải quyết được, thì nhờ trông nom một chút. Không gạt gì cậu, ngay sau khi biết người lên xe lửa là nó, Tứ Phương hội đã lập tức phái người đi cứu, nhưng cuối cùng vẫn chậm. Cho nên tôi vô cùng cảm kích Tư lệnh hạ. Đại ân đại đức này, cả đời khó báo đáp.
Hạ Hán Chử nhớ tới cảnh tượng nguy hiểm khi toa xe lửa bị nổ, trong lòng vẫn còn thấy sợ, ngượng ngùng nói:
– Đại đương gia nói quá lời rồi. Nguyên nhân sự việc đều là do tôi, cô ấy gặp nguy hiểm đều liên lụy bởi tôi, nếu như xảy ra chuyện gì, tôi dù có muôn lần chết cũng không bù đắp được. Cứu cô ấy vốn là bổn phận của tôi.
Trịnh Long Vương mỉm cười, nhìn nhìn anh, yên lặng một lát, đột nhiên nói:
– Tư lệnh Hạ, tôi nghe nói, cuối năm ngoái, nó và cậu cùng đón tết ở kinh sư à?
Hạ Hán Chử tim đập bộp một cái, ngước lên, đụng phải đôi mắt đã trở nên sắc bén kia.
Sau một khoảnh khắc ngắn ngủi không biết nên trả lời ra sao, Hạ Hán Chử lại nghe Trịnh Long Vương nói:
– Thứ cho tôi mạo muội hỏi cậu một câu, Tư lệnh Hạ, với thương thế của cậu lúc đó, có nặng đến mức mà cần nó phải ở bên cạnh cậu không rời, cùng cậu ăn tết không?
Hạ Hán Chử đột nhiên bừng tỉnh, anh đối mặt với ánh mắt sắc bén như thợ săn lão luyện kia, yên lặng một lát, cuối cùng, mang theo sự ngập ngừng, thấp giọng xuống hỏi:
– Ngài biết rồi?
Trịnh Long Vương nhìn anh chằm chằm, thoạt đầu không nói gì, nửa buổi sau, nói:
– Vậy là cậu với con bé…là thật?
Bắt gặp anh không dám lên tiếng, hiển nhiên là ngầm thừa nhận, trong mắt Trịnh Long Vương hiện lên sự tức giận, nhưng nhanh chóng ép xuống, nheo mắt lại, nói:
– Cũng trùng hợp thôi, là mấy ngày trước, tôi nhận được kim sang dược do người của cha nuôi Trần Anh gửi tới, còn cả phong thư hỏi thăm thương thế của tôi, cuối thư ông ta còn nhắc, cuối năm, nó ở cùng cậu tại kinh sư, nói cậu rất quan tâm tới nó, bảo tôi yên tâm.
Chuyện là như thế này, cuối năm ngoái, cha nuôi Trần Anh nhớ tới Trịnh Long Vương từng nhờ mình quan tâm con trai nhà họ Tô, vừa hay Tứ Phương hội trước đó cũng nhờ cậu con trai nhà họ Tô trợ giúp mới rửa sạch tội danh, liền phái người tới nhà thăm hỏi tặng quà. Đến rồi, trong nhà không có ai, điều tra một chút, biết được cậu ấy đã đến nhà hiệu trưởng ăn tết thì yên tâm, để quà lại rồi đi.
Vào ngày mùng 2 tết, Diệp Hiền Tề đi tuần tra, khi đi ngang qua địa bàn tổng đà của Tứ Phương Hội đã đi vào chúc tết lão gia tử, tạ lễ. Cha nuôi Trần Anh nói về con trai nhà họ Tô, mới biết được thì ra cậu ấy vì chăm sóc vết thương cho Hạ Hán Chử mà đã đón tết với anh ở kinh sư, hiện tại vẫn chưa trở lại, vì vậy có nhắc đến trong lá thư gửi cho Trịnh Long vương, ý tốt là để Trịnh Long vương yên tâm, nhưng người nói vô tâm, người nghe có ý.
Với tính cách của Trịnh Long vương những chuyện liên quan đến người mình quan tâm thì đều để tâm tới, đoán ra được chút gì đó cũng không phải việc khó, quả nhiên, vừa rồi mới chỉ hơi tạo áp lực thôi, cháu trai nhà họ Hạ này đã tự thừa nhận rồi.
Trịnh Long Vương quét sạch sự mệt mỏi lúc trước, cả người ngồi thẳng, hai mắt như điện nhìn chằm chằm người thanh niên trẻ tuổi đứng đối diện:
– Tôi không hiểu rõ quan trường, nhưng nghĩ việc quan trường luôn đầy rẫy hiểm nguy, không kém so với giang hồ, thậm chí còn sâu hơn giang hồ. Chí ít, giang hồ vẫn là nơi nói quy củ. Tư lệnh Hạ, cậu không phải người bình thường, huống chi, cậu còn có huyết thù trong người, hãm sâu vào trong đó, cậu không tiến thì không có đường lui, khó xử trong đó hẳn cậu hiểu hơn so với người ngoài như tôi, tôi không cần phải nói nhiều. Tôi cũng vô cùng thưởng thức cậu, nhưng, thứ cho tôi nói thẳng…
– Tư lệnh Hạ, cậu và nó, không phải người cùng đường.
Cuối cùng, Trịnh Long Vương chậm rãi nói, từng câu từng chữ, dù âm thanh không lớn nhưng lại như một cú chùy đập mạnh vào màng nhĩ Hạ Hán Chử.
Anh đột nhiên cảm thấy lời nói của Trịnh Long Vương nghe vô cùng quen tai, hình như mình đã từng nghe thấy ở đâu đó rồi thì phải.
Anh nhớ ra rất nhanh.
Đúng vậy, anh đã từng nghe rồi, không chỉ nghe rồi, đồng thời, những lời này cũng được thốt ra từ chính miệng anh.
Chỉ là khi đó, là anh đang khuyên nhủ Vương Đình Chi.
Anh cảm thấy trái tim của mình đập điên cuồng, mồ hôi lạnh túa ra ròng ròng, cổ họng như bị một bàn tay vô hình bóp chặt, lồng ngực bị chặn khí, không thể thở nổi, không thể nói nổi.
Thủy triều ban đêm dâng cao, dòng nước chảy xiết từ giữa sông lặng lẽ đập vào thân tàu, con thuyền bồng lại lần nữa bị lắc lư, ngọn đèn bão trên đỉnh đầu cũng theo đó mà đong đưa rất mạnh, các khớp nối giữa chuôi đèn cùng với tai treo bị rỉ sét, theo chiếc đèn đảo qua lại, phát ra âm thanh cụp cụp rất chói tai.
Hạ Hán Chử ngồi im đến cứng đờ, bóng dáng in lên cửa khoang phía sau, theo thân tàu, cũng lắc trái lắc phải.
Dòng sông chảy xiết vọt qua, thân tàu dần ổn định trở lại, tiếng lách cách chát chúa cuối cùng cũng biến mất bên tai.
Ánh mắt bức người của Trịnh Long Vương cũng không còn, ông nhìn Hạ Hán Chử đang ngồi ngây người, vẻ mặt dần trở nên ảm đạm.
– Tư lệnh Hạ, tôi già rồi, thế hệ này từ lâu cũng không phải thế hệ như chúng tôi nữa. Kho báu của Nghĩa vương cất trong tay tôi cũng vô dụng, tôi biết bao năm qua luôn có người âm thầm điều tra tung tích của tôi, nếu như một ngày nào đó bị rơi vào tay kẻ gian, thì chính là giúp kẻ xấu làm điều ác.
– Không nhiều, nhưng cũng không ít. Tôi dự tính, với giá cả hiện nay, đủ để chèo chống hai ba năm quân lương của mười vạn người. Tôi nguyện giúp cậu, dâng lên toàn bộ.
Hạ Hán Chử tim nảy lên một cái, ngước lên, đứng bật dậy.
Trịnh Long Vương khoát tay áo.
– Nhân hôm nay, tôi muốn nói thêm một câu nữa. Lục Hoành Đạt năm xưa gài bẫy hãm hại lệnh tổ cậu, dĩ nhiên là kẻ ác đứng đầu diệt môn Hạ gia, nhưng theo tôi được biết, căn nguyên ban đầu, lại là có người nặc danh lấy thân phận biết được chuyện Giáp môn quan năm xưa mà mật báo lão ta, nhắc đến lời hứa hẹn về kho báu lúc lệnh tổ cậu và cha tôi gặp nhau đàm phán. Cho nên sau đó, mới có chuyện khăng khẳng thả mấy trăm người kia đi.
– Tổ phụ cậu tuân thủ lời hứa hẹn, rơi vào mắt kẻ vô sỉ thì lại trở thành có ý đồ khác, có mưu đồ riêng. Cũng bởi có người mật báo, mới có chuyện sau đó Lục Hoành Đạt thêu dệt tội danh và hãm hại cả nhà cậu. Bao nhiêu năm qua, tôi thường nghĩ, chuyện cha tôi năm xưa có nhắc đến kho báu với tổ phụ cậu cực kỳ bí mật, người ngoài làm sao biết được. Người mật báo, có lẽ chính là thân tín bên cạnh tổ phụ cậu. Về phần là mang hận muốn trả thù cá nhân, hay là, tiểu nhân không hiểu nghĩa quân tử, suy bụng ta ra bụng người, nhận định tổ phụ cậu vì kho báu kia mà khăng khăng thả người, dưới sự thúc đẩy của lòng tham mà làm ra chuyện ác kia, tôi không dám khẳng định.
– Thôi tôi không nói nhiều nữa. Tư lệnh Hạ là người làm việc lớn, tối nay có thể gặp cậu, trò chuyện thoải mái, là vinh hạnh của Trịnh mỗ.
Trịnh Long Vương nói xong, nhấc chăn phủ trên người lên, chậm rãi đứng lên.
Lại một đợt sóng nữa dâng lân, con thuyền lại lắc lư, thân hình ông cũng theo đó lảo đảo, hơi không đứng vững.
Hạ Hán Chử bước vội tới muốn đỡ ông. Trịnh Long Vương đã bám vào ghế dựa, giữ người thăng bằng, sau đó trịnh trọng thi lễ với Hạ Hán Chử, nói:
– Cảm ơn cậu đã có ơn cứu mạng với con gái Diệp thị. Ơn không thể báo đáp, xin nhận một lễ của tôi.
Hạ Hán Chử làm sao dám nhận lễ này của ông, lập tức đỡ lấy tay ông.
Hai tay của Trịnh Long Vương giống như ruộng cạn rạn nứt, lòng bàn tay đầy vết chai, rất lạnh, nhưng lúc ông cầm ngược lại tay Hạ Hán Chử, lại như cày sắt cứng không gì sánh được.
Ông siết chặt tay người thanh niên trẻ tuổi đối diện này, nhìn anh chăm chú, chậm rãi nói:
– Tư lệnh Hạ, hy vọng cậu có thể suy xét, tôi sẵn sàng bất cứ lúc nào.
– Tôi chờ câu trả lời của cậu.
………….
Đêm khuya, thời tiết càng trở nên ảm đạm hơn, vầng trăng trên đỉnh đầu đã không thấy nữa, gió cũng dần dần lớn lên, bờ sông nổi sóng, cuốn vào một loạt dãy thuyền, hơi rung nhẹ.
Hình như sắp có mưa rồi.
Đinh Xuân Sơn đợi đã lâu cuối cùng cũng thấy được con thuyền bên kia động đậy, từ giữa con sông tối đen như mực quay trở về, chậm rãi cập bờ.
Một bóng người từ trong khoang thuyền đi ra, anh ta nhận ra là sếp của mình.
Người đàn ông đầu trọc lại xuất hiện, cung kính đưa anh lên bờ, con thuyền kia lại lần nữa rời bờ.
– Tư lệnh …
Đinh Xuân Sơn bước lên gọi Hạ Hán Chử, nhưng không nghe được tiếng đáp lại, thấy anh đứng trên bờ, dường như đang nhìn con thuyền bồng kia.
Con thuyền đi rất nhanh, bóng thuyền cũng hoàn toàn biến mất trên sông trong bóng đêm, anh vẫn không rời đi mà đứng yên tại chỗ như cũ.
Đinh Xuân Sơn không biết anh đang nhìn cái gì, bầu không khí vô cùng nặng nề, chần chừ một lúc bèn dừng bước chân, không tiếp tục đi lên nữa mà lẳng lặng đứng chờ.
Một lát sau, anh ta bỗng cảm thấy trên mặt hơi ướt, ngửa đầu, trời đã mưa rồi.
– Tư lệnh, trời mưa rồi!
Hạ Hán Chử cuối cùng xoay người lại rồi bước đi.
Mấy ngày sau, anh đầy mệt mỏi lặng lẽ đi vào Tỉnh Phủ, đi tới con phố Thái Bình. Tòa nhà cổ nơi Hạ gia từng mang bao ký ức của anh đều nằm ở đây.
Trong ký ức của anh, hai cánh cổng lớn, một trạch ba viện, gạch xanh ngói xám, cổ kính và trang nghiêm.
Hai con sư tử đá cùng một hàng cọc buộc ngựa đã từng đặt trước cổng chính kia cũng chứng kiến vô số biến đổi của thời gian chào đón vô số khách đến và đi.
Bây giờ, thời đại thay đổi, con sư tử đá đã không còn nữa, trên vị trí cọc buộc ngựa cũng chỉ để lại một loạt lỗ thủng dưới nền đất. Tòa nhà cổ Hạ gia này trước kia đầu tiên là trở thành binh doanh của Tiền phủ đài, sau lại biến thành tư trạch của một phú hộ, một thời gian sau, người ta gia đạo suy tàn, chuyển đến tay người khác, được dùng làm hội quán. Lại về sau nữa, hội quán cũng kinh doanh không tốt mà đóng cửa, không một ai tiếp nhận, cuối cùng, mấy năm trước, anh đã phái người đến mua lại tòa nhà cổ này.
Anh biết, toà nhà cổ này từ lâu đã thay đổi, đầy bụi và tơ nhện giăng đầy, cỏ hoang mọc thành cụm. Không còn thư phòng mà tổ phụ đã từng cầm tay anh dạy anh viết chữ, cũng không còn cây mai vàng cổ bên ngoài cửa sổ đã từng làm bạn với anh nhiều năm. Anh từ bấy đến nay chưa từng trở về, cũng không cho người đến dọn dẹp, hoặc là cho khôi phục lại dáng vẻ trước kia của nó. Kể cả năm ngoái, anh trở về tảo mộ, cũng không quay về đây. Anh không dám, và cũng không có đủ can đảm một lần nữa đẩy cửa để bước vào.
Anh từng thề với mình, thù của Hạ gia một ngày chưa báo, anh sẽ không trở về.
Mặc cho nó lụn bại đi.
Nếu như những lúc cảm thấy mệt mỏi, yếu lòng và bồi hồi, nhớ tới nơi này, anh lại lần nữa khôi phục lại năng lượng của mình, mặc lại khôi giáp của mình, nắm chặt lưỡi đao của mình, tiếp tục tiến về phía trước.
Mưa phùn tầm tã, hơi nước như tơ nhung theo gió vờn quanh, làm ướt vành mũ dạ của anh. Nước chậm rãi thấm vào mũ, cuối cùng tụ thành giọt nước xuyên qua mi Hạ Hán Chử, dọc theo sống mũi anh lăn xuống. Anh cứ thế đứng ở đầu phố, đứng rất lâu, từ xa ngắm nhìn hai cánh cổng lớn cũ kỹ đóng chặt, phát hiện ra, từ bấy đến nay, anh vẫn không có đủ can đảm để qua đó, đẩy mở hai cánh cổng trong trí nhớ của anh.
Hạ Hán Chử anh là một kẻ hèn nhát chính cống.
Anh tự nghĩ như vậy…
………
Trường học đã mở lại ngay sau Tết Nguyên Tiêu.
Đám bạn Tưởng Trọng Hoài cuối năm ngoái bị điều đi không tham gia kỳ thi cuối cùng lúc về đã thi lại xong xuôi, duy nhất Cao Bình Sinh có thể cạnh tranh với Tô Tuyết Chí, bởi vì thành tích cậu ta thi thể thao quân sự bình bình, đứng thứ hai, bởi vậy mà Tô Tuyết Chí đã được như nguyện mà quay trở lại ký túc xá đơn mà năm ngoái đã từng ở, không cần phải lo lắng những thứ bất tiện nữa.
Kế hoạch phòng thí nghiệm của cô cũng có sự khởi đầu thuận lợi.
Trước khi vào học, cô đã báo cáo với hiệu trưởng về ý định làm việc với tiến sĩ Dư để nghiên cứu một chủ đề về vi sinh vật và vi khuẩn, hy vọng cho phép tiến sĩ Dư được tự do ra vào trường học và phòng thí nghiệm.
Phòng thí nghiệm của cô là do Phó thị quyên tặng, có thể nói tính cá nhân và độ tự do rất cao. Hiệu trưởng đương nhiên sẽ không can thiệp vào nội dung nghiên cứu của cô, lập tức phê chuẩn.
Tô Tuyết Chí liền bận rộn, chẳng mấy chốc, tháng Giêng đã qua, tiếp hai tuần nữa là sẽ bước vào trung tuần tháng Hai. Cuối tuần nữa lại đến rồi, bởi vì đầu tuần quá bận, cô không trở về, tuần này rảnh rỗi, liền muốn đến nhà thuê để thăm anh họ.
Chia tay với tiến sĩ Dư, cô ra khỏi phòng thí nghiệm, trước khi đi, cô hơi chần chừ nhìn về hướng phòng làm việc của hiệu trưởng, đang tính qua đó gọi điện thoại thì lại nhìn thấy trợ lý của hiệu trưởng chạy tới gọi cô, nói là có điện thoại của cô.
– Là Hạ tiểu thư gọi.
Tô Tuyết Chí tim nảy lên một cái, tức khắc chạy tới.
Chẳng khác gì tâm linh tương thông, rất trùng hợp.
Thực ra vừa rồi cô định gọi điện tìm Hạ Lan Tuyết để hỏi cô ấy mấy ngày nay có nhận được tin tức gì của Hạ Hán Chử không.
Anh rời kinh sư ngày mùng bảy tháng giêng.
Từ sau khi anh đi, Tô Tuyết Chí lúc nào cũng xem báo chí. Đến cuối tháng, cô đọc tin trên báo biết được anh đã thuận lợi bình loạn Quan Tây, trên các tờ báo còn đăng tải cả điện văn Mã Quan Sinh phát cho tổng thống. Tô Tuyết Chí lúc ấy rất an tâm, bắt đầu tính xem khi nào thì anh trở về. Theo cô dự đoán, tầm mùng 10 tháng Hai chắc anh sẽ trở lại kinh sư. Lại tiếp tục tính toán, anh sẽ ở lại kinh sư mấy ngày, Tổng thống tiếp kiến, chúc mừng thành công, xã giao với mọi người, đây là những việc ắt không thể thiếu.
Tô Tuyết Chí lại cho anh thời gian một tuần, hẳn là đủ rồi. Nếu thế, tầm 17 tháng Hai là anh có thể quay về Thiên Thành rồi. Nhưng mà hôm nay đã là ngày 20 tháng Hai, anh lại chẳng những không quay về Thiên Thành mà lúc nào có thể trở về kinh sư cô cũng không có chút tin tức gì cả. Tính đến hôm nay, thời gian anh về kinh sư đã chậm mười ngày so với dự tính của cô.
Đầu tuần cô bận bịu nên không để tâm, thỉnh thoảng sẽ nghĩ tới anh, đoán có phải anh trên đường về bị chậm trễ không, hoặc là lại đi làm việc gì khác không. May mắn chưa đến hai ngày, Hạ Lan Tuyết đã nhận được tin tức về anh trai mình rồi.
Đinh Xuân Sơn đánh một điện báo về, nói là chậm mấy ngày nữa mới về được.
Hạ Lan Tuyết lập tức chuyển cho cô.
Tô Tuyết Chí lúc này mới an tâm, tiếp tục đợi một tuần nữa.
Ngày mai là cuối tuần, vừa rồi cô không kìm nén được sự sốt ruột muốn liên lạc Hạ Lan Tuyết hỏi cô ấy mấy ngày nay có nhận được tin mới nhất về anh trai cô ấy không, không ngờ tự Hạ Lan Tuyết lại gọi điện tới.
Cô chạy ào vào văn phòng, nhấc tai nghe lên.
– Lan Tuyết, là tôi, có gì không?
– Tô thiếu gia…
Hạ Lan Tuyết giờ vẫn gọi cô như vậy, là Tô Tuyết Chí bảo cô ấy cứ tiếp tục xưng hô như vậy.
– Chắc anh cũng biết rồi phải không, sáng nay anh em đã quay về kinh sư rồi. Vừa rồi thím Hạ gọi điện tới nói cho em biết. Anh em có nói với chị ngày nào thì trở về Thiên Thành không ạ?
Giọng nói Lan Tuyết rất vui vẻ.
Trong lòng Tô Tuyết Chí cũng đầy vui sướng, lấy lại bình tĩnh, quay đầu liếc trợ lý hiệu trưởng cũng vừa đi vào, quay lưng lại, đè thấp giọng nói:
– Tôi còn chưa biết.
Hạ Lan Tuyết như rất bất ngờ, bật thốt lên:
– Em còn tưởng anh em sẽ liên lạc với anh chứ. Anh ấy về kinh sư rồi mà.
Tô Tuyết Chí vừa rồi chỉ thấy quá vui, nghe cô ấy nói vậy thì ngập ngừng:
– Chắc là cũng sắp rồi, hôm nay vừa trở về, việc chắc rất nhiều.
Hạ Lan Tuyết tán đồng:
– Đúng đúng, anh nói đúng, anh em hôm nay nhất định rất bận! Đợi anh ấy rảnh rồi chắc chắn sẽ liên hệ với anh. Nếu anh biết ngày nào anh ấy về thì nhớ báo em một tiếng nhé. Em giờ tìm anh ấy khó bỏ xừ.
Giọng điệu cô ấy mang theo sự phàn nàn nho nhỏ.
Tô Tuyết Chí mỉm cười đồng ý, nói thêm với cô ấy hai câu rồi cúp máy, vội vàng trở lại phòng ngủ, thu dọn một chút rồi ra khỏi trường học, đi vào trong thành.
– Bán báo! Bán báo! Mua báo mới ra hôm nay đi.
Một cậu bé bán báo chạy đằng trước, vung vẩy tờ báo, rao rất to.
Tô Tuyết Chí gọi cậu nhóc lại mua một tờ báo vừa mới in vẫn còn vương mùi mực.
Mở ra xem, đập và mắt là tin tức chiếm vị trí lớn ở ngay trang bìa đầu tiên.
Quả nhiên là tin tức liên quan tới anh.
10 giờ sáng nay, đặc sứ do tổng thống phái đi xử lý loạn Quan Tây đã khải hoàn, ngồi xe lửa trở lại kinh sư rồi. Tổng thống phái nhiều người đến trạm xe để đón người, bố trí đội quân nhạc, cảnh tượng hết sức long trọng. Dưới tin tức là một bức ảnh minh họa. Bức ảnh được chụp ngay tại sân ga, là cảnh anh vừa xuống xe lửa, trong ảnh đầy người, là bức ảnh đóng mở. Anh đứng ở trung tâm, là tiêu điểm của cả bức ảnh.
Tấm ảnh hơi mờ, nhưng dáng người mặc quân chế phục của anh thẳng tắp, cười tươi, gương mặt không tự chủ được mà tỏa sáng, trong đôi mắt nhìn qua ống kính sáng lấp lánh như xuyên qua mặt giấy, đánh thẳng vào lòng người.
Tô Tuyết Chí xem tin tức mới đăng sáng nay, lật đi lật lại nhiều lần, cuối cùng nhìn người trong tấm ảnh kia, nhớ tới vào ngày đó của hơn tháng trước, anh đuổi kịp xe lửa, đặt chiếc hộp có chiếc nhẫn vào tay mình, trái tim bất giác run rẩy lên.