Quy Nguyên tông.
Là đại tông môn nổi tiếng nhất tại Đạo Xuân trung thế giới, khung cảnh ở Quy Nguyên tông tất nhiên rất đẹp đẽ.
Thảm cỏ xanh mướt, trăm hoa đua nở, tiên khí lượn lờ, tiên hạc tung tăng bay múa, nhìn thế nào cũng giống như chốn thế ngoại đào nguyên[1].
Nhưng lúc này tâm tư Tạ Chinh Hồng lại không đặt ở đó.
“Tiền bối có cảm thấy nơi này có gì khả nghi không?” Tạ Chinh Hồng vẫn luôn lo lắng về chuyện Khốn Tiên thằng. Nếu đã vào được Quy Nguyên tông, vậy cần phải bắt đầu tra xét kỹ càng một phen, nếu không thì vào đây cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa.
“Có nhìn cũng nhìn không ra, bổn tọa còn chưa gấp thì ngươi cũng không cần phải sốt ruột làm gì.” Văn Xuân Tương vui mừng không thôi, tu sĩ bình thường nếu gặp được cơ duyên tốt như vậy, phản ứng đầu tiên đều là mưu lợi cho bản thân, không giống như Tạ Chinh Hồng luôn nghĩ cho y trước. Khó trách mình lại đối tốt với hắn như thế, sau khi suy bụng ta ra bụng người, Văn Xuân Tương kết luận mình đối xử tốt với Tạ Chinh Hồng căn bản chính là vì nguyên nhân này.
Chỉ cần Tạ Chinh Hồng sống tốt và không quy y, có lẽ y còn đối xử với hắn tốt hơn chút nữa.
“Vâng, tiền bối.” Tạ Chinh Hồng yên lòng.
“Tạ khách khanh, mời theo ta.” Lịch Hòa Quang xác nhận thân phận của Tạ Chinh Hồng lần nữa, nói với Tạ Chinh Hồng.
Tạ Chinh Hồng nhanh chóng đi theo.
“Chào đại sư huynh!”
“Đại sư huynh đã về đấy à?”
“Đại sư huynh……”
Dọc theo đường đi của Lịch Hòa Quang và Tạ Chinh Hồng, các đệ tử không ngừng hành lễ với Lịch Hòa Quang, xem ra Lịch Hòa Quang có ảnh hưởng rất lớn với các đệ tử trẻ ở Quy Nguyên tông, Tạ Chinh Hồng đi theo sau Lịch Hòa Quang cũng được chào đón thân thiện.
Đập vào mắt là một tòa phi cung khổng lồ. (Phi cung là cung điện nổi trên không trung)
Trên mái hiên điêu khắc các loại thần thú đủ màu, oai phong lẫm liệt; trên cột trụ đồ sộ sừng sững chi chít những phù văn thần bí dày đặc, khó mà đoán được chúng có nghĩa gì; thứ khiến người ta chú ý nhất nằm ở phía dưới tòa phi cung, một cột nước chọc trời! Cột nước kia vô cùng to lớn, rộng đến mấy chục trượng, nhìn vào còn tưởng là một tấm màn bằng nước. Khi cột nước kia chạm đến phi cung thì lại không ngừng rơi xuống, vỡ tung thành vô số bọt nước, khiến phi cung càng thêm sống động.
“Đó là “Tinh Đột tuyền”.” Văn Xuân Tương thấy Tạ Chinh Hồng tỏ vẻ hiếu kỳ, bèn chủ động giải thích, “Tinh Đột tuyền rất được yêu thích trong các tông môn, nước của nó có công hiệu tương tự như linh khí vậy, vừa tinh thuần vừa tự nhiên. Nơi nào có nó, độ tinh khiết của linh khí có thể tăng thêm gấp đôi, rất thích hợp để tu hành. Đợi đến khi bổn tọa thoát ra rồi, ngươi muốn bao nhiêu bổn tọa sẽ cho ngươi bấy nhiêu.”
“Tiền bối, bần tăng chỉ tò mò chút thôi.” Đối với hành vi thường xuyên “khoe của” của Văn Xuân Tương, Tạ Chinh Hồng vẫn cảm thấy có chút buồn cười. Nếu hắn thấy tò mò cái gì tiền bối liền cho hắn cái đó, thì dù tài sản của Văn tiền bối có nhiều đến mấy cũng chẳng mấy chốc mà cạn sạch thôi.
“Nơi này là Trưởng Lão đường, mời Tạ khách khanh cùng ta vào bái kiến các trưởng lão, lấy một giọt tinh huyết để chế tác hồn đăng, sau đó ký vào sách ngọc là có thể trở thành khách khanh nhất đẳng của Quy Nguyên tông chúng ta rồi.” Lịch Hòa Quang giải thích.
“Tất cả đều nghe theo sự sắp xếp của Lịch đạo hữu.” Tạ Chinh Hồng gật đầu nói.
Thông thường quy trình bái kiến trưởng lão khá nghiêm ngặt, nhưng vì địa vị của Lịch Hòa Quang ở Quy Nguyên tông, các trưởng lão kỳ Nguyên Anh đều không dám nhiều lời về sự xuất hiện của Tạ Chinh Hồng, ngược lại, họ quan tâm đến việc Lịch Hòa Quang bao giờ thì bế quan kết Anh hơn, mọi người đều thoải mái chia sẻ vài kinh nghiệm cho Lịch Hòa Quang.
“Nếu là do Lịch sư điệt tiến cử thì ắt hẳn Tạ tiểu hữu phải có chỗ hơn người rồi.” Một vị trưởng lão mỉm cười nói, “Có điều theo quy định thì vẫn cần hỏi đôi điều.”
“Đúng vậy.” Lịch Hòa Quang gật đầu, lui về sau hai bước, để Tạ Chinh Hồng một mình trả lời câu hỏi của các trưởng lão. Đây là việc bắt buộc, cũng vì để phòng tránh việc có Ma tu lợi dụng thân phận khách khanh làm gian tế.
“Vị Tạ tiểu hữu này tu luyện loại công pháp nào, kinh Phật chủ tu là gì?
“Bần tăng tu luyện《Đại Bàn Nhược công》, tạm thời đang tu theo《Kinh phân biệt Duyên khởi, Sơ thắng, Pháp môn》[2].”
“Đại Bàn Nhược công ư, hình như lão phu từng nghe qua tên này ở đâu rồi.” Trưởng lão nọ bỗng ngừng hỏi, chợt nhớ ra gì đó, sắc mặt liền vui vẻ hơn, “Thì ra là môn đồ của Bàn Nhược thiền sư, thất kính rồi thất kính rồi.”
“Thôi trưởng lão có vẻ biết rõ nội tình nhỉ?” Một trưởng lão hiếu kỳ nói.
Thôi trưởng lão tươi cười, chậm rãi kể lại chút chuyện cũ, “Lão phu từng có một hảo hữu, đến từ thế giới khác, trong một lần kể cho lão phu những tin đồn thú vị ở thế giới đó, hắn có nhắc tới vị Bàn Nhược thiền sư này. Người đó xuất thân là tán tu, Phật pháp vô cùng cao thâm, được rất nhiều tông môn tiếp đón long trọng. Bàn Nhược thiền sư là người hóm hỉnh và ôn hòa, thường hay làm những việc nằm ngoài dự đoán của mọi người. Mọi người đều gọi ngài là “Kỳ nhân”, một cao nhân Phật tu như vậy lưu lại truyền thừa ở trung tiểu thế giới cũng không có gì lạ.”
“Ra là thế, Tạ tiểu hữu thật là may mắn, chắc chắn sẽ rất triển vọng.”
Nếu công pháp mà Tạ Chinh Hồng tu luyện quả thật là của một Phật tu đại năng ở Thượng giới lưu lại, vậy nhận hắn vào được lợi nhiều hơn hại. Có Lịch Hòa Quang tiến cử, những bước tiếp theo đều không gặp khó khăn gì, cuối cùng trưởng lão lấy một giọt tinh huyết của Tạ Chinh Hồng để chế tác hồn đăng. Tạ Chinh Hồng như cảm ứng được gì đó, đến khi hồn đăng biến mất, Tạ Chinh Hồng phát hiện giữa mình và Quy Nguyên tông xuất hiện một mối liên hệ nhân quả.
Cuối cùng, các trưởng lão giới thiệu cho Tạ Chinh Hồng về quyền lợi và nghĩa vụ của khách khanh nhất đẳng, dặn dò cẩn thận, sau đó mới để hai người rời đi.
“Đa tạ Lịch đạo hữu.” Ra khỏi Trưởng Lão đường, Tạ Chinh Hồng nói lời cảm tạ với Lịch Hòa Quang.
“Không cần khách khí như vậy, ta là đệ tử của Quy Nguyên tông, chiêu mộ nhân tài cho tông môn là bổn phận của ta.” Lịch Hòa Quang xua tay, cũng không để chuyện này trong lòng.
“Đây là ngọc bội của khách khanh, xin đạo hữu đeo nó trên người, nếu cần tài nguyên gì, cứ cầm nó đi tới nơi tương ứng, đưa nó cho tu sĩ thủ vệ rồi lấy thứ mình cần.” Chân trời bỗng lóe sáng, một đốm sáng rơi xuống, vừa lúc được Lịch Hòa Quang đỡ lấy. Ngọc bội của khách khanh nhất đẳng là ngọc trắng, nhị đẳng là ngịc xanh, tam đẳng thì là ngọc tím, ngọc bội khác nhau thì nơi được đến tất nhiên cũng khác nhau.
“Khách khanh mới đến đều có thể tới Tàng Kinh các lựa chọn vài bộ Ngoại công pháp để tu hành, xin khách khanh ghi nhớ điều này. Nếu có việc gì xin cứ tìm gặp Tần Anh.” Lịch Hòa Quang dặn dò.
“Bần tăng chúc Lịch đạo hữu nhanh chóng kết Anh trở về.” Tạ Chinh Hồng khẽ nói “A Di Đà Phật”.
“Đa tạ.” Lịch Hòa Quang gật đầu, hóa thành một vệt sáng đỏ bay đi.
Chẳng bao lâu sau, trên không trung hiện ra một dòng tin tức: “Ta Lịch Hòa quang, hôm nay bế quan kết Anh!”
Tin tức vừa truyền ra, mọi người đều ồ lên xôn xao.
Tạ Chinh Hồng đeo ngọc bội của khách khanh, rất nhanh liền tìm được một quản sự, nhờ hắn dẫn mình đến đỉnh núi dành cho khách khanh. Sau khi cố ý chọn được một động phủ hoang vu yên tĩnh, Tạ Chinh Hồng tặng cho quản sự nọ mấy khối linh thạch rồi mới an tâm bước vào.
Nhìn bên trong động phủ được trang bị đầy đủ mọi thứ, Tạ Chinh Hồng không khỏi thoải mái hơn, mọi việc tiến triển quá mức thuận lợi, khiến những lo âu lúc trước đều thành uổng phí.
Để đảm bảo an toàn, Tạ Chinh Hồng vẫn bố trí một trận pháp đơn giản ở cửa động, sau đó mới ngồi xuống nghỉ ngơi.
Văn Xuân Tương bay ra từ trong chuỗi hạt, lượn lờ quanh động phủ một vòng, cũng coi như vừa lòng.
Động phủ này thoạt nhìn có vẻ hơi nhỏ, nhưng bên trong lại có một động thiên khác, hẳn là có thiết lập một trận pháp không gian. Bên trong chia ra thành phòng luyện đan, phòng luyện khí và phòng phù lục trận pháp, thỏa mãn nhu cầu nghiên cứu của khách khanh. Trong phòng còn có một quyển sách ngọc trống, nếu chủ nhân của động phủ có gì không hài lòng với dụng cụ ở đây, có thể viết lên trên đó, tổng quản tương ứng sẽ nhanh chóng nhận được tin và đổi lại cho ngươi.
“Tiền bối hiện ra như vậy không có vấn đề gì chứ?”
“Không sao, bổn tọa đã xem qua rồi, nơi này rất an toàn.” Văn Xuân Tương vỗ vỗ giường ngọc bên trong động phủ, không chút khách khí nằm luôn xuống, “Nơi này thoải mái hơn trong vòng tay nhiều, trước khi ngươi góp đủ linh thạch thì ta sẽ ở tạm đây vậy.”
“Xin tiền bối cứ tự nhiên.” Tạ Chinh Hồng cười nói, “Bần tăng cũng không cần nó.”
Tạ Chinh Hồng lấy một chiếc bồ đoàn từ trong túi ra, đi mấy bước vào sâu trong động phủ, tìm một chỗ đặt bồ đoàn xuống.
“Tiểu hòa thượng, ngươi chạy xa như vậy làm gì?” Văn Xuân Tương tò mò hỏi. (Mới đi có mấy bước đã nhớ rồi (งื▿ื)ว)
“Bần tăng định làm chút công khoá, sợ sẽ quấy rầy tiền bối.” Tạ Chinh Hồng thành thật trả lời.
Thấy Tạ Chinh Hồng muốn niệm kinh, Văn Xuân Tương cũng không hỏi nữa. Y chỉ có hứng thú với công pháp Phật tu thôi, y đọc kinh văn chỉ vì muốn hiểu rõ công pháp Phật tu, còn vụ niệm kinh gì đó hả, vẫn là xin miễn cho kẻ bất tài này.
Bởi Tạ Chinh Hồng là người mới đến, cho nên hai ngày đầu hắn không cần làm gì cả, chờ tới ngày thứ ba mới cần chỉ điểm cho các đệ tử Phật tu ở Quy Nguyên tông.
Trong hai ngày này, Tạ Chinh Hồng cố ý xem một ít kinh văn nhập môn, lại chạy sang động phủ bên cạnh, thỉnh giáo một vị khách khanh khác, mới coi như tạm an tâm, cảm thấy mình sẽ không phạm sai lầm nào. Văn Xuân Tương thấy vậy liền cười vỡ bụng.
“Yên tâm đi, ngươi là khách khanh, muốn dạy thế nào là quyền của ngươi, không cần làm như mấy ông thầy ở phàm giới phải cầm tay chỉ dạy.” Nếu một tu sĩ yếu kém đến nỗi phải cầm tay dạy bảo, kẻ đó cơ bản chẳng làm nên trò trống gì. Phật tu càng là như thế, tu Phật đặc biệt chú trọng tuệ căn và chữ “Ngộ”.
“Dù thế nào cũng cần hoàn thành trách nhiệm của mình.” Tạ Chinh Hồng trả lời.
So với Tạ Chinh Hồng chuẩn bị kỹ càng mọi chuyện thì những đệ tử Phật tu ở Quy Nguyên tông lại chẳng mong đợi gì nhiều.
Con người có một đặc điểm kỳ quái, chuyện gì càng không như ý thì càng đâm đầu vào.
Các đệ tử Phật tu ở Quy Nguyên tông tự cho mình có xuất thân chính thống, luôn xem thường những kẻ có ngoại lai hoang dã. Vả lại Tạ Chinh Hồng cũng mới chỉ là tu sĩ kỳ Kim Đan, tuy nói hắn xếp thứ năm trên Thiên Đan bảng, nhưng chẳng qua là nhờ chiếm ưu thế khi đấu với Ma tu mà thôi, kiến thức Phật pháp của hắn ra sao thì lại là chuyện hoàn toàn khác.
Khi Tạ Chinh Hồng chưa đến, một vài đệ tử đang định lên mặt với hắn, làm khách khanh của Quy Nguyên tông bọn họ không có dễ như vậy đâu! Vài đệ tử biết suy xét phải trái bèn khuyên bảo, nhưng thấy không có tác dụng gì thì đành bỏ cuộc. Có thể ngăn cản người ta đâm đầu vào chỗ chết hay sao?
Tạ Chinh Hồng sửa soạn xong, đạp phi kiếm bay đến trong giảng đường, bên dưới có khoảng vài trăm đệ tử đang ngồi đông đúc, nhìn mấy cái đầu trọc lóc kia cũng có chút vui mắt.
“Mắt của bổn tọa!”
Văn Xuân Tương vừa nhìn thấy một đám lừa trọc thì tâm tình lập tức xấu đi, Tạ Chinh Hồng thì không tính, ăn mặc như vậy nhìn không giống hòa thượng. Nhưng cái lũ này thì khác, mấy trăm cái đầu trọc tập hợp lại với nhau, chẳng mấy chốc đã khiến Văn Xuân Tương bừng bừng hỏa khí.
Tạ Chinh Hồng muốn trấn an y nhưng nhận thấy Văn Xuân Tương đã ngăn chặn mọi cảm giác, căn bản không thể trao đổi được.
Haiz.
Tạ Chinh Hồng khẽ thở dài, trong lòng thấy có chút buồn cười.
Đúng là tiền bối yêu hay ghét đều trực tiếp biểu hiện ra mặt!
******
★Chú thích:
[1]Thế ngoại đào nguyên: Vào niên hiệu Thái Nguyên triều Tấn, có một người đánh cá ở Vũ Lăng tình cờ đi lạc vào một nơi có phong cảnh tuyệt đẹp, bao phủ bởi rừng đào nở rộ, tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Người trong làng nói với người đánh cá rằng, tổ tiên của họ vì lánh nạn đời Tần đã bỏ chạy đến đây, từ đó về sau chưa bao giờ đi ra bên ngoài. Sau khi trở về, người đánh cá lập tức đi gặp Thái thú Lưu Hâm kể lại sự việc. Lưu Hâm liền sai người đi tìm, men theo kí hiệu mà người đánh cá đã để lại, nhưng không tìm thấy được.
[2]Kinh phân biệt Duyên khởi, Sơ thắng, Pháp môn: là kinh giảng về luật nhân duyên tối thượng, gồm hai quyển, do Tam Tạng pháp sư Huyền Trang của Đại Đường dịch.