Văn Xuân Tương sửa lại sắc mặt, tận lực khiến mình có vẻ không hề sung sướng khi người gặp họa.
“Tiểu hòa thượng, nếu ngươi đã kiếm được kha khá đan dược rồi thì tìm một chỗ nào đó để tiêu hóa cho hết đi. Chờ thêm vài ngày đến khi bọn họ bắt đầu thi đấu, ngươi lại ra cũng chưa muộn.” Có thể ít lộ diện được thì ít lộ diện đi.
“Tiền bối, bần tăng muốn học Như Lai thần chưởng.” Tạ Chinh Hồng suy nghĩ một lát, nhẹ giọng nói.
Thứ mà Phi Long thành không thiếu nhất chính là tu sĩ đại năng, chỉ đứng ở đây thôi cũng khiến hắn cảm nhận được không ít sức mạnh khó có thể lường được, trong tình huống như vậy, vẫn nên học lấy vài thứ trước thì tốt hơn. Sau khi trải qua chuyện ở Lôi gia, Tạ Chinh Hồng cảm thấy bây giờ mình đã có thể học được rồi.
“Được.” Văn Xuân Tương đáp.
Y đã muốn dạy từ lâu rồi, song tiểu hòa thượng luôn nói chưa tới lúc chưa muốn học, khiến Văn Xuân Tương thấy hơi ngượng ngùng. Dù gì y cũng vừa mới nhận được hiếu kính của tiểu hòa thượng, chính là chiếc giường hàn ngọc rất hợp ý y kia, mình không làm gì đáp lại thì cứ cảm giác như đang chiếm lợi của tiểu hòa thượng. Y đường đường là Ma Tôn mà còn cần đi chiếm lợi của một tiểu hòa thượng sao?
Tạ Chinh Hồng nói với đám người Yến Uyển rằng mình muốn tìm một chỗ để tiêu hóa hiệu lực của đan dược, sau đó liền tìm một khách sạn mới mở, chọn một tầng ngầm bắt đầu bế quan.
Như Lai thần chưởng chia làm mười hai thức, lần lượt là Phật Quang Sơ Hiện, Kim Đỉnh Phật Đăng, Phật Động Sơn Hà, Phật Vấn Già Lam, Nghênh Phật Tây Thiên, Phật Quang Phổ Chiếu, Thiên Phật Hàng Thế, Vạn Phật Triều Tông, Phật Pháp Vô Biên, Duy Ngã Độc Tôn, Lập Địa Thành Phật, Tinh Vân Khai Hoa. Chín thức đầu vốn là một bộ, nghe nói là do một vị Phật nghe Phật Tổ truyền đạo mà sáng chế nên, lưu lạc đến các thế giới, ba thức sau lần lượt là do ba vị đại năng sáng chế, tên họ cụ thể không rõ. Như Lai thần chưởng là một trong những công pháp đứng đầu của tông môn Phật tu, hầu như ai cũng ao ước, người có thể tu hành nó thì đã ít lại càng ít, hiện giờ đã bị phân tán thành mười mấy phần đến những tông môn Phật tu ở các thế giới, phần lớn đều trở thành vật tượng trưng bị bỏ trên gác xó.
Mà Văn Xuân Tương tự nhận mình là một Ma tu đủ tư cách, vậy nên không chút khách khí một mình đi tới các đại thế giới, đập xong mấy con lừa trọc kia thì liền bắt đầu cướp đồ, trong tổng cộng mười hai thức của Như Lai thần chưởng, mình y đã đoạt được năm thức. Đánh cướp oanh liệt, vô cùng thiếu đạo đức.
Khụ khụ, đương nhiên, không phải Văn Xuân Tương chưa từng hoài nghi có phải mình xui xẻo như thế có liên quan đến việc y cướp quá nhiều đồ của đám hòa thượng hay không, song y không nói nửa chữ với Tạ Chinh Hồng, những gì y có nói thì đều là phiên bản đã được mỹ hóa.
Vì trước đó Tạ Chinh Hồng đã học bộ công pháp Đại Nhật thần chưởng biến đổi từ thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng là Phật Quang Sơ Hiện, vậy nên thức mà Văn Xuân Tương định dạy hắn cũng là thức này. Quan trọng hơn là, thức này là thức đầu tiên mà y đoạt được từ một tông môn lụi bại, hiện giờ tông môn đó đã giải tán chia bốn xẻ năm, sẽ không mang đến phiền toái cho tiểu hòa thượng.
Lại phải cảm thán vận khí của tiểu hòa thượng rồi.
Văn Xuân Tương không chút áy náy mà nghĩ vậy.
Trước khi y truyền cho Tạ Chinh Hồng thức thứ nhất của bộ công pháp là Phật Quang Sơ Hiện, Tạ Chinh Hồng đã chủ động đọc thầm lại một lần trong lòng bộ công pháp Đại Nhật thần chưởng để tìm cảm giác. Xúc loại bàng thông, nếu Đại Nhật thần chưởng được biến đổi từ Phật Quang Sơ Hiện thì đương nhiên có thể giúp hắn lĩnh ngộ một chút. (Xúc loại bàng thông: một câu thành ngữ, nghĩa là khi đã nắm bắt được quy luật, cơ chế, xu hướng của một sự vật, sự việc thì từ đó có thể suy ra quy luật, cơ chế, xu hướng của những sự vật, sự việc tương tự.)
Đây là thứ đầu tiên mà Văn Xuân Tương dạy Tạ Chinh Hồng, cũng từng giúp Tạ Chinh Hồng đánh lùi không ít kẻ địch, có ý nghĩa phi phàm với Tạ Chinh Hồng. Mà từ trong Đại Nhật thần chưởng, hắn lại cảm nhận được hai chữ “Nhật Nguyệt”.
Cái gọi là thiền, bên ngoài không có hình dáng, bên trong không có tâm tư, đại đa số thuật pháp của Phật đạo đều không có ý tưởng hay hình thể cố định, tỷ như Tam Bảo của Phật gia, tỷ như Chư Hành Vô Thường ấn. Đại Nhật thần chưởng từ đầu đến cuối đều tiếp tục sử dụng ý tưởng về nhật nguyệt này, khiến Tạ Chinh Hồng không thể không suy nghĩ cẩn thận.
Đại Nhật thần chưởng, Nhật Xuất Phật Sơn, Nhật Chiếu Phật Ảnh, Nhật Nguyệt Đương Không, Sơn Hà Nhật Nguyệt, Nguyệt Ảnh Tây Lai………
Nhưng mà càng nghĩ, Tạ Chinh Hồng càng cảm thấy chẳng có đường nào có thể đi.
Giống như phía trước có vô số ngọn đèn, mà hắn thì đứng ở chỗ tối, không biết nên đi theo lối nào.
Nhật nguyệt và Phật quang, có một ít chỗ tương tự, nhưng phần lớn thì không liên quan.
Trên đầu Tạ Chinh Hồng hơi toát ra một chút mồ hôi lạnh.
“Không cần nghĩ nhiều.” Giọng nói của Văn Xuân Tương bỗng nhiên xông vào tai Tạ Chinh Hồng.
“Cẩn thận ngẫm lại đạo lý của tứ đại giai không.” Văn Xuân Tương tiếp tục chỉ dẫn.
(Tứ đại giai không có nghĩa là tứ đại đều là không, tứ đại là bốn nguyên tố vật chất lớn gồm đất nước, gió, lửa. Thân người do tứ đại hợp thành, đến khi hết duyên thì nó tan rã, tứ đại trở về với tứ đại.)
Tạ Chinh Hồng thử loại bỏ hết mọi tạp niệm trong đầu, không cố chấp với ý nghĩ về nhật nguyệt nữa, mà một lần nữa diễn luyện lại Đại Nhật thần chưởng trong tử phủ. Phàm nhân có câu: “Đọc sách trăm lần thì ý nghĩa của nó sẽ tự hiện ra”, trong tu hành, đạo lý này cũng rất có tính khả thi.
Tạ Chinh Hồng không ngừng diễn luyện lại các chiêu thức trong tử phủ, dần dần cũng đắm chìm trong ý cảnh của môn thuật pháp này.
Đỉnh đầu nhật nguyệt, chân đạp kim liên.
Tựa như hết thảy mọi thứ trên thế gian đều không thể mảy may đả động đến hắn, có pháp nơi tay, có đạo trong tâm, đạt được những thứ xưa nay chưa từng có.
Nhật nguyệt chiếu thân ta, lòng ta tới nhật nguyệt.
Là người nhà Phật, vốn không nên có chấp niệm với các loại ý nghĩ, không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Như Lai thần chưởng thì sao, Đại Nhật thần chưởng thì sao, thượng phẩm hay hạ phẩm cũng đâu có quan trọng như thế, chẳng qua là tình cờ gặp Phật quang hiện ra, tình cờ có cảm giác, ngẩng đầu nhìn thấy nhật nguyệt, cảm xúc lộ ra, đạt thành Đại Nhật thần chưởng mà thôi.
(Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn là phương pháp niệm Phật của Đại Thế Chí Bồ Tát. Một lòng chuyên tâm niệm Phật, chỉ hướng tới một mục tiêu, không nghi ngờ không xen tạp tư tưởng khác thì mới có thể vãng sanh, mới có thể thành Phật.)
Là Tạ Chinh Hồng nghĩ lầm.
May mà hắn kịp thời tỉnh ngộ lại.
Tạ Chinh Hồng loáng thoáng thấy một tăng nhân mừng như điên sau khi được tắm trong Phật quang, trong giây lát hắn lập tức bình tĩnh lại, theo dấu vết của Phật quang, không ngừng đánh ra các loại chưởng pháp, mỗi chiêu mỗi thức, đều là những động tác và chiêu thức mà Tạ Chinh Hồng quen thuộc, đó là Đại Nhật thần chưởng.
【”Thượng phẩm kiến phật tốc, hạ phẩm kiến phật trì, tuy hữu trì tốc dị, chung vô thối chuyển thời. Tham thiền bệnh trước tương, niệm phật quý đoạn nghi, thực thực hữu tịnh thổ, thực thực hữu liên trì.”[1]】Tăng nhân nọ mặt mày hiền lành, khiêm tốn mà đặc biệt, hắn lẳng lặng đọc vài câu Phật kệ, không hề nhìn Tạ Chinh Hồng bên này lấy một cái. (Phật kệ là các bài thơ ngắn của các nhà sư.)
Đây là thần niệm của một vị đại năng còn sót lại ở trong pháp quyết của Đại Nhật thần chưởng.
Khi đã thông hiểu đạo lý của Đại Nhật thần chưởng, nếu có cơ duyên nhất định thì sẽ thấy được hình ảnh này. Mà hình ảnh xuất hiện trong Phật quang này, chính là thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng, Phật Quang Sơ Hiện. Khi đại năng nọ truyền xuống Đại Nhật thần chưởng, muốn đưa cho những người đến sau một phần cơ duyên, nên liền khắc ghi thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng trong đầu, chuyển dời và truyền lại vào trong Đại Nhật thần chưởng. Nếu có duyên, không chừng còn có thể học được một ít tinh túy của Như Lai thần chưởng.
Có lẽ hắn cũng không ngờ được rằng, có người sẽ thử lý giải công pháp của hắn trước khi học thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng.
Quên đi hoài nghi trong lòng, quên đi sở học trong lòng, hai thứ đều quên thì mới có thể học được thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng.
Tạ Chinh Hồng lẳng lặng nhìn tăng nhân nọ, lại nhìn Phật quang trên đầu mình.
Chợt có cảm ngộ.
Tạ Chinh Hồng muốn thử diễn luyện chiêu thức Phật Quang Sơ Hiện, nhưng vừa nâng tay làm vài động tác thì liền thấy hơi không đúng lắm.
“Tuy rằng không trúng, nhưng cũng không cách xa nữa đâu.” Văn Xuân Tương lẳng lặng nhìn Tạ Chinh Hồng đang đả tọa, không khỏi cảm thán nói.
Y đương nhiên biết hiện giờ Tạ Chinh Hồng đã rơi vào trong ý cảnh của Đại Nhật thần chưởng, thấy được Như Lai thần chưởng trong ý cảnh, cũng định thông qua những gì mình chứng kiến và cảm nhận để diễn luyện thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng.
Không thể không nói đây là một phương pháp rất hay.
Khi tu sĩ hoặc tiên nhân có cảm ứng nào đó rồi sáng tạo ra một pháp quyết vô song, môn pháp quyết này có lẽ còn vượt xa hạn chế trong tu vi của bản thân. Mà về sau tại một thời gian và địa điểm nào đó, nếu có người cũng có cảm ứng như vậy thì hiển nhiên cũng có thể học được những thứ đó.
Giống như Kiếm tu, khi Kiếm tu tu luyện được kiếm ý và kiếm phách thì sẽ lưu lại một mảnh kiếm ý của mình, để người đời sau thông qua kiếm ý của mình rồi bắt chước, tìm được kiếm ý của bản thân. Cũng dị khúc đồng công với loại công pháp này của Phật tu. (Dị khúc đồng công mình từng giải thích rồi đó, nghĩa là có vẻ khác nhau nhưng cùng đóng góp như nhau.)
Cho dù là Văn Xuân Tương, cũng không thể nói rằng Tạ Chinh Hồng thực hiện sai.
Nếu thuận lợi, Tạ Chinh Hồng thậm chí còn có thể không thông qua y mà vẫn học được thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng.
Đáng tiếc.
Đáng tiếc rằng bây giờ Tạ Chinh Hồng chỉ mới ở kỳ Xuất Khiếu, mặc dù đã có Chư Hành Vô Thường ấn, song hắn vẫn chưa tu được Tam Bảo của Phật gia, thứ hai là chưa chứng được Phật thân vô thượng, thiếu đi hai điều kiện thiết yếu, dù cho Tạ Chinh Hồng có khí vận ngập trời thì sao có thể diễn luyện hoàn chỉnh được chứ? Hơn nữa, Như Lai thần chưởng trong ý cảnh kia, chẳng qua chỉ là những gì mà tăng nhân sáng lập ra Đại Nhật thần chưởng chứng kiến và suy nghĩ thôi, không phải nguyên nước nguyên vị.
Một chiêu thức đã qua tay của người khác, đương nhiên sẽ sinh ra biến hóa.
Đây cũng không phải là phương thức truyền thừa chính xác của Như Lai thần chưởng.
Những gì Tạ Chinh Hồng diễn luyện theo cảm ngộ hiển nhiên không phải Như Lai thần chưởng, mà là phiên bản diễn hóa công pháp diễn sinh của Đại Nhật thần chưởng và Như Lai thần chưởng. Cẩn thận mà nói thì đúng là hơi không đâu vào đâu. Tuy nhiên có thể tự sáng tạo công pháp, chứng tỏ Tạ Chinh Hồng đã bước đầu lĩnh ngộ được đạo của mình.
Văn Xuân Tương nhìn Tạ Chinh Hồng đang đắm chìm trong thế giới của bản thân, không khỏi có chút cảm thán.
Tiểu hòa thượng đã kết ấn thành công, có được thành tựu như vậy là điều rất bình thường.
Có điều thời gian lại hơi không bình thường.
Quá nhanh!
Dù Văn Xuân Tương trưởng thành cùng Tạ Chinh Hồng, nhưng mỗi khi thấy được sự kinh người của Tạ Chinh Hồng, tim cũng không kìm được mà đập thình thịch. Cho dù y biết Tống Thanh, gần như có thể nói là Phật tu có thiên phú nhất và cũng giống Phật nhất mà y từng gặp, song vào những thời khắc quan trọng của Tạ Chinh Hồng, sao hắn lại có bản lĩnh cỡ này?
Văn Xuân Tương không dám nghĩ nhiều.
Có lẽ trước đây y vẫn luôn xem nhẹ lai lịch của Tạ Chinh Hồng.
Suy nghĩ phức tạp hiện giờ của Văn Xuân Tương, Tạ Chinh Hồng đương nhiên không biết. Hắn hơi điều chỉnh thủ thế của mình một lần nữa, hành động theo thể ngộ của bản thân.
Toàn bộ linh khí trong tầng ngầm đều vì động tác của hắn mà trở nên có quy luật, nâng lên khi tay Tạ Chinh Hồng nâng lên, buông xuống khi tay hắn buông xuống, có vẻ vô cùng sống động linh hoạt, mỗi một chuyển động, đều mang theo những dấu tích gần như là Đạo.
Văn Xuân Tương nhìn kỹ xung quanh, liên tục tạo vài pháp quyết.
“Đóng!”
Một trận pháp kết giới vô hình bao phủ lấy toàn bộ tầng ngầm, cũng ngăn cách sự tra xét của ngoại giới.
Thôi vậy.
Dù thành tựu sau này của tiểu hòa thượng nhất định sẽ rất lợi hại, nhưng hiện tại mới chỉ là một tu sĩ kỳ Xuất Khiếu nho nhỏ mà thôi.
Vẫn cần dựa vào sự giúp đỡ và bảo hộ của y, nếu không những động tĩnh vừa rồi lộ ra ngoài thì cũng đủ khiến tiểu hòa thượng ăn đủ.
Nghĩ đến đó, Văn Xuân Tương lại không khỏi có chút đắc ý.
Cũng may là tiểu hòa thượng gặp được y, nếu đổi lại là Ma Tôn hay Ma Hoàng khác mà gặp được một mầm tốt như vậy, dù có liều mạng đánh đổ tu vi trước đây thì cũng muốn đoạt xá chiếm lấy thân thể này.
Tạ Chinh Hồng đáng để trả cái giá đó.
Nhưng tiếc là tiểu hòa thượng vẫn chưa trưởng thành mà đã bị y nuôi nhốt rồi.
Văn Xuân Tương càng trở nên đắc ý, ánh mắt nhìn Tạ Chinh Hồng dịu dàng đến nỗi sắp chảy ra nước.
Cũng do ngay từ đầu động tác khá trúc trắc nên hiện giờ động tác của Tạ Chinh Hồng nhanh chóng chuyển sang thông thuận tự nhiên.
Tạ Chinh Hồng nhắm mắt, dường như không biết mình đang làm gì, hết sức chuyên chú diễn luyện các chưởng pháp trong lòng, sinh sinh tử tử, khô khô vinh vinh, đều mang theo một ít thiền ý. (Khô là khô cằn, héo úa; Vinh là vinh hoa, tươi tốt. Còn thiền ý tức là mang tính thiền, tính trầm tĩnh, yên lặng.)
Văn Xuân Tương thấy thế, vội vàng dứt bỏ cảm xúc đắc ý vừa nãy của mình, ở một bên âm thầm ghi nhớ, quyết tâm chờ đến khi tiểu hòa thượng diễn luyện xong hết bộ công pháp này thì y liền học được. Lấy cũ đổi mới, tuy rằng giá trị hoàn toàn chẳng thể so sánh, nhưng tốt xấu gì cũng thu thêm một bản nữa. Hơn nữa, như vậy thì y có thể vui vẻ trao đổi cùng tiểu hòa thượng một phen, hưởng thụ ánh mắt sùng bái ngưỡng mộ mà tiểu hòa thượng dành cho y.
Khi Tạ Chinh Hồng nhìn mình bằng ánh mắt đó, Văn Xuân Tương luôn cảm thấy toàn thân vô cùng sảng khoái.
Một Phật tu có khả năng sẽ đạt được vô số thành tựu trong tương lai, giờ phút này lại cung kính ngưỡng mộ mình, tôn sùng lời mình nói như khuôn vàng thước ngọc, cảm giác thành công như thế quả thực khó có thể hình dung, khiến người ta muốn ngừng mà không được!
Khụ khụ, đương nhiên, một ít cũng vì y vui vẻ muốn thử nữa.
Tuy rằng Văn Xuân Tương có Phật tính dày đặc, tinh thông các loại tạp học, nhưng y lại không có duyên với loại chuyện như tự sáng tạo công pháp Phật đạo. Song điều này cũng bình thường thôi, Phật tu có xuất thân đứng đắn cũng đâu có mấy ai có thể tự sáng tạo công pháp đâu? Nhiều lắm cũng chỉ sáng tạo được một ít chiêu thức nhỏ thôi, khó có thể thành một bộ, căn bản chẳng đáng khoe ra. Nhưng thứ Tạ Chinh Hồng sáng tạo lần này lại khác, công pháp tạo ra từ cảm ngộ của Đại Nhật thần chưởng và thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng, mặc dù hơi không đâu vào đâu, nhưng cũng xem như một tác phẩm thượng thừa không thể nghi ngờ. Đợi đến khi Tạ Chinh Hồng chính thức bắt đầu học Như Lai thần chưởng là có thể hoàn thiện nó tốt hơn nữa.
Tạ Chinh Hồng chỉ cảm thấy tựa như mình đang ở giữa biển lớn, sóng biển liên tiếp cuộn trào theo tâm tình hắn. Không biết qua bao lâu, thủy triều chậm rãi rút đi, lộ ra bờ biển. Phạm vi bình địa càng lúc càng lớn, mà nước biển cũng càng ngày càng ít, cuối cùng biển lớn biến thành ruộng dâu. Thế sự đổi dời, cho dù là biển lớn hay núi cao thì luôn có lúc chuyển hóa lẫn nhau.[2]
(Bãi bể nương dâu: thành ngữ để chỉ sự thay đổi lớn của cuộc đời, của đất trời.)
Chỉ có nhật nguyên trên cao, Phật đạo Đại Thừa, vĩnh viễn không biến.
Chỉ có tấm lòng cầu Phật, tấm lòng tìm kiếm đại đạo, chưa từng thay đổi.
Khi Tạ Chinh Hồng tỉnh lại từ trong tâm cảnh của bãi bể nương dâu, thời gian trôi qua mới chỉ có vài canh giờ ngắn ngủi, linh thạch đặt ở bốn phía quanh hắn đã hóa thành bột phấn, linh khí trong phòng cũng bị hút sạch không còn chút nào. Từng chiêu thức của bộ chưởng pháp mà hắn diễn luyện hiện lên rõ ràng trong đầu hắn, cuối cùng dần dần biến thành ba chữ “Thương Hải chưởng”.
“Không tệ không tệ.” Khi Tạ Chinh Hồng tỉnh lại thì Văn Xuân Tương cũng bừng tỉnh, “Tuy rằng uy lực của bộ Thương Hải chưởng này không tính là xuất chúng, nhưng hay ở chỗ ý cảnh, còn có rất nhiều không gian hoàn thiện.”
“Tiền bối học xong rồi?” Mặc dù Tạ Chinh Hồng dùng câu nghi vấn nhưng giọng điệu lại khẳng định chắc chắn.
“Đương nhiên, cái này đâu thể làm khó được ta.” Văn Xuân Tương đắc ý trả lời, “Tuy rằng trước đây ngươi học Đại Nhật thần chưởng rất nhanh, nhưng bổn tọa còn nhanh hơn ngươi.”
“Tiền bối lợi hại, bần tăng vô cùng bội phục.” Tạ Chinh Hồng thành tâm chịu phục trả lời.
Văn Xuân Tương cực kỳ đắc ý, song cũng không khỏi phỉ nhổ chính mình.
Tiểu hòa thượng mới bao nhiêu tuổi chứ, còn mình đã bao nhiêu tuổi tuổi rồi.
Việc này giống như ra một đề bài cho trẻ con, người lớn giải được rất nhanh, nhưng kỳ thực chẳng đáng khoe ra. Có điều thấy tiểu hòa thượng tu hành thuận lợi như vậy, Văn Xuân Tương thấy ghen tị nên nhịn không được muốn đả kích hắn một chút.
Phải biết rằng, Tu Chân giới rất hiểm ác, tiểu hòa thượng không thể cứ ngốc bạch ngọt như thế được. (Trùi ui bảo ảnh ngốc bạch ngọt kìa (♡˙︶˙♡) cưng gì đâu à)
“Nào, giờ bổn tọa sẽ truyền cho ngươi chiêu thức công pháp của Phật Quang Sơ Hiện.” Văn Xuân Tương bay ra khỏi chuỗi hạt, đến gần trước mặt Tạ Chinh Hồng, cố ý sáp tới gần mặt hắn.
Ánh mắt Tạ Chinh Hồng thoáng lấp lóe, tai hơi ửng hồng. (Chòi má Tương ơi sao bảo ko sắc dụ được ảnh màΣ>―(〃°ω°〃)♡→ chúc mừng em đã thành công)
Tiền bối sáp tới gần quá.
Mặc dù Tạ Chinh Hồng trấn định rất nhanh, nhưng chút cảm xúc nhỏ này vẫn không tránh được tầm mắt của Văn Xuân Tương.
Nhìn xem, quả nhiên sức hấp dẫn của y với tiểu hòa thượng cũng khá lớn đó chứ.
Hiện giờ y mới cách tiểu hòa thượng chừng một ngón tay, lúc trước Mạnh Tân Huyên còn sắp dán lên mặt hắn, gần gũi hơn y nhiều, vậy mà mí mắt tiểu hòa thượng chẳng động chút nào.
Ừm, ít ra thì mắt thẩm mỹ của tiểu hòa thượng vẫn bình thường.
“Nhắm mắt, ngưng thần.” Văn Xuân Tương trong lòng nhộn nhạo, nhưng ngoài mặt vẫn vô cùng chính trực.
Tạ Chinh Hồng lập tức nhắm mắt, song vì có thần thức nên hắn còn nhìn thấy rõ ràng hơn.
“…….Thần thức cũng đóng lại.” Văn Xuân Tương nói thêm.
Tạ Chinh Hồng đành phải đóng luôn cả thần thức.
Xúc giác và khứu giác thì vẫn giữ nguyên.
Phân thần của Văn Xuân Tương là do linh khí hội tụ mà thành, song bao giờ Tạ Chinh Hồng cũng có thể ngửi thấy được một mùi hương như có như không.
Hắn có thể cảm giác được mùi hương đó càng lúc càng đậm, có gì đó dán lên trán hắn.
Nhưng không đợi Tạ Chinh Hồng nghĩ kỹ xem đó rốt cuộc là gì, một ý niệm khổng lồ liền theo giữa trán truyền vào trong thần thức của hắn.
Thuật pháp cao thâm như Như Lai thần chưởng, luôn không thể dạy bằng ngọc giản và diễn luyện, mà phải truyền tống ý niệm một chọi một. Trước đây vì giành lấy chiêu thức này, Văn Xuân Tương đã không tiếc tay đánh bất tỉnh hòa thượng có thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng, tìm một con tiểu mộng yêu, mới có thể thuận lợi lẻn vào trong mộng hắn, trộm đi chiêu thức này. Sau khi xong việc còn tiện thể xóa ký ức của hòa thượng nọ, thần không biết quỷ không hay.
Tạ Chinh Hồng bị thần niệm khổng lồ trùng kích, dường như cả người đều tĩnh lặng.
Sâu trong tử phủ, Tạ Chinh Hồng kỳ Nguyên Anh trong bộ dáng thiếu niên chợt mở mắt, trong mắt có thể thấy được một chút vui sướng.
Một tượng Phật thân tựa nam tựa nữ, dường như có thể thấy được trăm dáng hình bỗng hiện ra, trên người tản ra khí tức huyền diệu khó giải, khiến người ta không khỏi sinh ra ý niệm kính ngưỡng.
Tạ Chinh Hồng đứng trước mặt tượng phật nọ, trong đầu trống rỗng.
Thân vô thất, khẩu vô thất, niệm vô thất, vô dị tưởng……….
(Thân không có lỗi, miệng không có lỗi, ý tưởng không có lỗi, không có tư tưởng khác……)
Vài chữ cổ xưa nằm sâu trong ý niệm tạo thành mười tám pháp bất cộng nhanh chóng dịch chuyển, còn nhanh và chói mắt hơn cả khi Tạ Chinh Hồng kết Anh.
Nhất thiết thân nghiệp tùy trí tuệ hành……… Nhất thiết ý nghiệp tùy trí tuệ hành.
(Hết thảy nghiệp của thân được thực hành theo trí tuệ……….Hết thảy nghiệp của ý được thực hành theo trí tuệ.)
(Phần trên là mười tám pháp bất cộng mà mình từng giải thích ở chương 63, các bạn ko nhớ thì đọc lại nhé.)
Kim quang của tượng Phật chói sáng, bao phủ cả Tạ Chinh Hồng lẫn toàn bộ tử phủ trong kim quang.
Gột rửa trong Phật quang, tựa như cả người đều được thăng hoa, Tạ Chinh Hồng thậm chí có thể cảm nhận được mỗi giọt máu trong cơ thể, mỗi huyệt vị nơi linh khí chuyển động. Hắn chưa bao giờ “nhìn” rõ mình như vậy.
Đây chính là Như Lai thần chưởng.
Đây chính là Phật Quang Sơ Hiện!
Cùng lúc đó, chưởng quầy và các tu sĩ khác trong khách sạn đều cảm giác linh mạch như nhảy lên, linh khí biến đổi thất thường. Không ít tu sĩ đồng loạt chạy ra khỏi phòng hỏi chưởng quầy xem có phải linh mạch của khách sạn xảy ra vấn đề hay không.
Bản thân chưởng quầy cũng chẳng hiểu ra sao, linh mạch là do trưởng lão của thương hội bọn họ canh giữ, bình thường hắn đâu có được tiếp xúc, sao có thể trả lời được?
Linh mạch dưới đáy khách sạn như có mắt vậy, đưa dòng linh khí cuồn cuộn không ngừng đến tầng ngầm của Tạ Chinh Hồng, vậy nên linh khí cung cấp cho các phòng khác bị hao hụt đi.
Linh khí bạo động rất nhanh ổn định lại, tuy rằng thiếu đi một ít linh khí, song các tu sĩ cũng không để ý, có lẽ đây là do linh mạch sắp đến cực hạn. Chưởng quầy cũng nghĩ vậy, có lẽ do linh mạch này sắp khô kiệt nên mới xảy ra dao động như vậy, trong lòng thầm hận mấy trưởng lão của thương hội sao lại chôn một linh mạch sắp dùng hết xuống dưới này?
Các trưởng lão của thương hội vô tội bỗng dưng bị rủa nhầm, lúc trước khi tìm được thì linh mạch này vẫn rất dồi dào linh khí, chưa từng sử dụng một tí nào, cung cấp một trăm năm cũng tuyệt đối không thành vấn đề. Nhưng mà hiện giờ, cùng lắm chỉ dùng được một năm nữa thôi.
Văn Xuân Tương rời khỏi Tạ Chinh Hồng, nhìn linh khí tiêu hao trong phòng, không khỏi đau lòng cho khách điếm này.
Gặp phải tiểu hòa thượng coi như là bọn họ xui xẻo.
May mà linh mạch tiểu hòa thượng muốn giờ vẫn chưa kiếm được, nếu không thì thứ đầu tiên bị hút khô chính là linh mạch kia. Thuật pháp càng cao thâm thì càng tiêu hao nhiều linh khí, đây là chuyện không cách nào tránh khỏi. Dù là tông môn Phật tu nào thì số lượng đệ tử đích truyền luôn ít hơn Pháp tu, Kiếm tu và Ma tu, chính bởi vì lượng linh khí mà bọn họ tiêu hao vượt xa những tu sĩ khác mấy lần.
Trước đây động phủ của Hoàng Oanh tuy rằng cũng bị hút khô linh khí, nhưng sau này Tạ Chinh Hồng kết ấn, trời giáng dị tượng khiến Hoàng Oanh nhân họa phúc đắc (gặp phúc trong họa), chuyện này ngoài nguyên nhân Tạ Chinh Hồng có lòng cảm kích với Hoàng Oanh ra thì còn bởi vì bản thân Hoàng Oanh khí vận tràn đầy nên mới như thế. Còn phần khác thì phải kiểm điểm xem bình thường bọn họ có làm chuyện thiếu đạo đức gì hay không.
Văn Xuân Tương bất giác tìm đủ loại cớ cho Tạ Chinh Hồng, cũng hạ quyết tâm không nói chân tướng cho tiểu hòa thượng.
Bằng không thì với suy nghĩ của tiểu hòa thượng, có khi sẽ lưu lại khách sạn này để đền bù tổn thất cho đối phương mất thôi.
Với hắn, vừa rồi chỉ là tiếp nhận thần niệm của thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng thôi, hắn vẫn chưa bắt đầu học.
Song dù chỉ mới tiếp xúc, cũng khiến Tạ Chinh Hồng được lợi không ít.
“Tiểu hòa thượng, hiện giờ ngươi cảm thấy thế nào?” Văn Xuân Tương cũng thể hội qua sự lợi hại của môn công pháp này, nhịn không được bèn hỏi.
“Thần thanh khí sảng (Tinh thần sảng khoái, thoải mái).” Tạ Chinh Hồng thoáng suy tư một hồi, miêu tả bằng một câu như thế.
“Ừm, xem ra tinh thần của ngươi rất tốt.” Văn Xuân Tương nhìn Tạ Chinh Hồng càng thêm môi hồng răng trắng hơn, liền nói.
Quả thực là đồng nhân bất đồng mệnh mà. (Đồng nhân bất đồng mệnh: Cùng là người nhưng số phận mỗi người lại khác nhau.)
Lúc trước sau khi y học được chiêu này, đã bị Phật quang làm khó chịu mất mấy ngày.
Năm thức của Như Lai thần chưởng, hiện tại Văn Xuân Tương cũng không dám nói mình đã hiểu được nó thấu đáo.
Ma Phật có sự khác biệt, đối mặt với thuật pháp gần như đứng ở đỉnh cao Phật đạo như vậy, y vẫn có chút lực bất tòng tâm.
Song dù là như thế, cũng đủ để y cười nhạo không ít Phật tu.
“Khiến tiền bối phí sức rồi.” Tạ Chinh Hồng đứng lên, nhìn căn phòng, “Tiền bối, lúc bần tăng nhập định có xảy ra chuyện gì sao?” Sao hắn cảm thấy có chỗ nào không ổn thế nhỉ.
“Không có việc gì cả.” Văn Xuân Tương mặt không đổi sắc trả lời, “Có phải giờ ngươi cảm thấy nhìn cái gì cũng rõ ràng hơn rất nhiều, còn cảm nhận được linh khí tăng lên một ít đúng không?”
“Đúng thế.”
“Đó là chuyện thường, lúc trước khi học nó bổn tọa cũng vậy đấy.” Văn Xuân Tương tiếp tục nói, dù sao hiện giờ người từng học Phật Quang Sơ Hiện chỉ có một mình y, không phải y nói thì ai nói đây?
“Ra là vậy, đa tạ tiền bối chỉ giáo.”
“Không cần khách sáo.” Văn Xuân Tương nháy mắt mấy cái.
Bổn tọa sống nhiều năm như vậy, lừa một tiểu hòa thượng như ngươi chẳng phải là dễ như trở bàn tay hay sao?
———————————–Tiểu phiên ngoại————————————
Các hòa thượng trong ngôi chùa đổ nát nọ đều xem Phật Tử như mèo nhà địa chủ, chẳng dám động vào hắn.
Phật Tử muốn đến đại điện, muốn vào phòng ăn, muốn đi Tàng Kinh các, đều tùy ý hắn, không một hòa thượng nào dám cả gan ngăn trở.
Dù sao trong chùa của bọn họ cũng chẳng có bao nhiêu kinh Phật lợi hại, chẳng qua chỉ là mấy loại thông thường nhất mà thôi.
Nghe nói địa chủ đại nhân rất thích mèo, có nuôi mấy con, con này còn thông minh hơn con kia. Mà Phật Tử là con nhỏ nhất trong số đó, màu lông cũng mờ nhạt nhất, nên họ cũng chấp nhận.
Đương nhiên, điều này cũng liên quan đến việc Phật Tử tính tình ôn hòa, rất là ngoan ngoãn.
Trong ngôi chùa cũ nát chẳng có trò gì chơi, mấy hòa thượng nhỏ tuổi cũng không có hoạt động giải trí gì. Thế nên, chơi với Phật Tử liền trở thành một hoạt động thông thường của bọn họ.
Phật Tử cũng rất nể tình, bảo nâng móng thì nâng móng, muốn xoa đầu thì cho xoa đầu, có vẻ rất là dịu ngoan.
Buổi sáng khi tụng kinh, Phật Tử cũng sẽ ngồi ở một góc, lẳng lặng nghe bọn họ tụng kinh.
Tuy rằng miêu yêu không đoán ra thằng con nhà mình nghĩ gì về ngôi chùa này, song ngẫm lại nếu con mình có thể tắm trong Phật pháp giảm bớt yêu khí, về sau khi hóa ra hình người đi hành tẩu cũng tiện hơn, còn chuyện thằng con mình sau này có đi làm hòa thượng hay không, căn bản không nằm trong phạm vi suy xét của nàng.
Ngươi từng gặp miêu yêu đi làm hòa thượng bao giờ chưa?
******
★Chú thích:
[1]Thượng phẩm kiến phật tốc, hạ phẩm kiến phật trì, tuy hữu trì tốc dị, chung vô thối chuyển thời. Tham thiền bệnh trước tương, niệm phật quý đoạn nghi, thực thực hữu tịnh thổ, thực thực hữu liên trì: Câu trên là của Trương Thủ Ước. Thượng phẩm và hạ phẩm ở đây là đang nói đến các bậc vãng sanh. Thượng phẩm vãng sanh thì đến Tây phương cực lạc trông thấy Phật A Di Đà, hạ phẩm vãng sanh thì còn phải tu học một thời gian mới có thể thấy Phật. Câu nói trên đại ý là người tu Phật dù thượng hay hạ phẩm đều phải chuyên tâm một lòng hướng Phật, không bị lay chuyển, dứt bỏ mọi nghi ngờ, thì mới có thể thực sự có cõi cực lạc niết bàn.
[2]Bãi nể nương dâu: nguyên văn là “Thương hải tang điền”, dùng để chỉ những thay đổi lớn trong đời người, trong xã hội, tương tự câu “Vật đổi sao dời” hay “Sông cạn đá mòn”. Thành ngữ này bắt nguồn từ một câu chuyện tiên Phật.
Tương truyền rằng, ở thời Đông Hán có ông Phương Bình, học giỏi tài cao, thi đỗ đạt và được bổ nhiệm làm quan. Sau một thời gian thi thố với đời, Phương Bình đã bỏ quan đi tu. Ông đắc đạo và trở thành Phật.
Một lần Phật Phương Bình giáng xuống nhà Thái Kinh (người đời Hậu Hán) cho mời tiên nữ Ma Cô đến. Ma Cô bảo với Phương Bình rằng: “Tiếp thị dĩ lai dĩ kiến, Đông hải tam vi tang điền.” nghĩa là “Từ khi hầu chuyện với ông, tôi đã thấy bể Đông ba lần biến thành ruộng dâu”.
Editor: Tưởng tượng Phật Tử là bé mèo cute dễ cưng quá (/▽\*)。o○♡ Cầu được vuốt lông (=^・ᴥ・^=)