Có một câu chuyện, Vương Dao Dao chưa từng kể với ai.
Từ sau khi đến Tô Châu, có một giấc mộng kỳ quái cứ trở đi trở lại trong cơn mơ của nàng.
Trong giấc mộng ấy, nàng tựa hồ vẫn đang ở Cô Tô, nhưng mà, lại phảng phất như không phải Cô Tô của hiện tại.
Mà là Cô Tô của ngàn năm về sau.
Trong mộng, nàng cũng là lần đầu tiên đến Cô Tô. Thế mà, lại có cảm giác như trùng phùng hội ngộ.
Phảng phất quay về nhà sau nhiều năm phiêu bạt.
Nhân gian truyền rằng, Cô Tô là chốn mà mỗi chúng ta đều có thể tìm thấy tiền kiếp của mình.
Ngày đầu tiên ở Cô Tô, nàng đi dọc những dãy phố cổ kính rêu phong, nghe bên tai toàn những “Ngô nông nhuyễn ngữ” mà chính nàng chỉ có thể mơ hồ hiểu, lại đột nhiên thấy thân thương quá đỗi. Đưa tay chạm nhẹ vào những bức tường loang lổ tháng năm, lại có cảm giác đang chạm vào ký ức ngàn năm bị phong kín.
Ngày thứ hai ở Cô Tô, bên vịnh Minh Nguyệt, có một đôi mắt hiền từ dõi theo nàng. Nàng quay đầu nhìn lại, trông thấy một bà lão tóc bạc trắng như cước. Bà nhìn nàng, mỉm cười. Bà tiến lại gần, dùng Ngô ngữ để nói với nàng gì đó mà nàng không thể hiểu. Bà lão ấy dùng sự nồng ấm nơi đáy mắt và đôi tay để gửi đến nàng một lời chào. Sau đó, bà đưa nàng đến một nơi.
Đó là một từ đường cổ. Bên trên có một bức họa đã ố vàng. Trong bức họa vẽ một thiếu nữ, mình vận cổ phục, tóc cài ngọc trâm, khuôn mặt bầu tròn phúc hậu, mắt đen láy lấp lánh như sao. Nàng đang mỉm cười, người ta tựa hồ có thể xuyên qua bức họa, cảm nhận được niềm vui nơi đáy mắt của nàng.
Bà lão đưa bàn tay răn reo chỉ về phía bức họa, rồi lại chỉ vào nàng.
Lần này, nàng bỗng dưng có thể nghe hiểu được Ngô ngữ của bà.
Bà vừa nói:
“Nhìn xem, con rất giống người trong bức họa đúng không? Có phải con từ trong tranh ấy bước ra không?”
Nàng ngẩn người, ngắm bức họa một hồi lâu, quả là cảm thấy chính mình cùng với thiếu nữ trong tranh có mấy phần giống nhau.
Đột nhiên, một ý nghĩ thoáng hiện lên trong đầu nàng. Phải chăng, nàng có mặt ở Cô Tô này, cũng là sự an bài âm thầm của tiền nhân từ ngàn năm trước?
Lần nào cũng vậy, mỗi khi Vương Dao Dao mơ đến lúc mình nhìn thấy bức họa ấy, đều giật mình bừng tỉnh giấc.
Nhưng mà, trong đêm động phòng hoa chúc hôm ấy, nàng lại chưa tỉnh dậy.
Nàng mơ tới ngày thứ ba ở Cô Tô thành. Nàng trông thấy mình tiếp tục đi trên con đường nhỏ hẹp giữa những bức tường trắng ngói đen. Liễu rủ lơ thơ buông mành, cầu đá trầm mặc soi bóng đáy nước, dưới hiên dây leo giăng kín, che phủ lịch sử ngàn năm.
Bấy giờ, nàng dường như không còn là một du khách thưởng ngoạn phong cảnh, mà vô hình trung đã hóa thành một phần của nơi đây.
Nàng phải đi tìm kiếm những bí mật liên quan đến bản thân được ẩn giấu trong làn mưa bụi Giang Nam này.
Nàng cứ đi, đi mãi, đi tìm lại những ký ức đã lạc mất của chính mình.
Những mái ngói uốn lượn, tựa như muôn lớp sóng trùng điệp, đưa nàng về với lịch sử thâm trầm.
Chẳng biết, trong từng hơi thở ở đây, phải chăng vẫn còn lưu giữ lại một chút ánh trăng, hay là, hương thơm của một ấm trà Bích Loa năm đó?
Sau cùng, nàng bước đến ngôi nhà cổ của một vị Tể tướng Minh triều.
Tương truyền, vị Tể tướng này từng liên tiếp đỗ Giải Nguyên, Hội Nguyên, Trạng Nguyên, là thầy của Thái tử, cũng là thầy của một vị thi nhân nổi danh kim cổ.
Chỉ biết, nói về thầy của mình, vị thi nhân ấy từng gọi ông là: “Hải nội văn chương đệ nhất, sơn trung Tể tướng vô song.”
Nàng bần thần đứng trước tòa cổ viện thanh nhã tịch mịch này. Biết bao cố sự đã từng diễn ra ở nơi đây, đến bây giờ, chỉ còn một tòa nhà trống không, lạnh lẽo.
Nhẹ nhàng đẩy ra cánh cửa hoen ố đầy bụi, cũng mở ra trang sử bị lãng quên trong dòng chảy ngàn năm.
Tiểu kiều nước chảy róc rách, đình viện thâm sâu quạnh vắng.
Nàng ngước mắt lên nhìn đình đài lầu các, tựa hồ trông thấy, cô nương mở ra song cửa gỗ điêu hoa năm ấy, vẫn còn đứng tựa lan can trông ngóng.
Nàng rủ mi nhìn xuống chiếc đu dưới gốc cổ thụ, phảng phất nghe thấy, tiếng cười của thiếu phụ ngồi trên chiếc đu năm ấy, vẫn còn khúc khích vang vọng ngàn năm sau.
Nàng rảo bước đến gần, leo lên cầu thang gỗ. Mỗi một bước, cầu thang vang lên một tiếng kẽo kẹt, như đánh động ký ức phủ bụi. Cuối cùng, nó đưa nàng đến một gian phòng cổ quạnh vắng. Chỉ thấy trong phòng đã phủ một lớp bụi dày, mạng nhện giăng đầy. Nhưng mà, mọi vật dụng trong ấy, lại tựa hồ vẫn còn nguyên vẹn. Gương đồng, hộp yên chi, chiếc lược gỗ mòn nhẵn, mấy mảnh son giấy đã sớm khô quắt.
Có lẽ, ngàn năm trước, từng có một nữ tử ở nơi này.
Nàng nhìn ngắm xung quanh một hồi, bỗng nhiên như thấy trong lờ mờ ảo ảnh, có một thiếu phụ đang ngồi trước gương đồng, lại có một nam tử không trông được rõ mặt đang âu yếm cầm bút vẽ mày cho nàng.
Cảnh vật chung quanh nhòe đi, đến khi nàng có thể nhìn rõ được mọi thứ một lần nữa, đã thấy thiếu phụ nọ đang đứng gần lan can, toàn thân là áo tang trắng toát, tay cầm một đoản đao sáng loáng kề sát vào cổ mình, lớn tiếng hô:
“Các người đừng bước qua đây! Các người tiến lên một bước nữa, ta liền cắt cổ tự sát!”
Nam tử không rõ mặt kia lập tức lệnh cho thuộc hạ:
“Các ngươi lui xuống!”
Đoạn, chàng lại hết mực dịu giọng khuyên:
“Phu nhân, vi phu đã bảo bọn họ lui xuống rồi, ngoan, bỏ đao xuống đi. Xem như vi phu cầu xin nàng, bỏ đao xuống đi, được không?”
Thiếu phụ lắc lắc đầu, nói:
“Nếu ta bỏ đao xuống, các ngươi nhất định sẽ bắt ta lại. Ngươi làm ra bao nhiêu chuyện như thế, ta còn ở bên cạnh ngươi, chính là vô tình vô nghĩa, bất trung bất hiếu...”
Nam tử tựa hồ rất nhẫn nại, nhỏ nhẹ nói:
“Nàng buông đao xuống, vi phu thả nàng đi, nàng muốn tìm hắn thì tìm hắn, vi phu không ngăn cản, được không?”
Thiếu phụ vẫn lắc đầu, bảo:
“Ngươi gạt ta. Người vẫn sẽ bắt ta về. Chỉ có chết, mới là giải thoát duy nhất.”
Nam tử nghe đến đây, tựa hồ đánh mất bình tĩnh, đúng lúc gia nhân mang một cậu bé độ chừng năm, sáu tuổi đến. Chàng vội nói:
“Ngôn nhi, mau đến đây khuyên mẹ của con, cầu xin mẹ con buông đao xuống!”
“Mẹ, người không cần Ngôn nhi nữa sao?” Đứa bé nức nở khóc.
Tay cầm đao của thiếu phụ thoáng run lên. Nàng nhìn đứa bé, nhất thời trong mắt xuất hiện do dự.
Lúc này, một viên đá bay đến hất đoản đao tuột khỏi tay nàng.
Mắt thấy đám người chuẩn bị xông lên bắt lấy mình, thiếu phụ quyết tuyệt quay người, nhanh như chớp gieo mình xuống lầu cao.
“Đừng!”
Một tiếng kêu thống thiết vang lên.
Toàn bộ không gian ngập tràn sắc đỏ của máu.
Vương Dao Dao trong mộng cảnh cũng bất giác sợ hãi, hoảng hốt muốn chạy ra khỏi tòa nhà đáng sợ này.
Nhưng mà, nàng chạy mãi, chạy mãi, vẫn không tìm thấy lối ra.
Đến lúc trời sụp tối, nắng tắt dần phía sau chân trời. Nàng đang sợ hãi tột độ, đột nhiên thấy trước mặt mình có một bóng người. Bạch y thắng tuyết, tóc đen như thác, ngọc thụ lâm phong, thật là một nam tử phong nhã vô song. Người này tay cầm đèn lồng, nàng chỉ có thể thấy một nửa khuôn mặt của y.
Chợt, y quay người lại, đối diện với nàng. Vẫn là không thể nhìn rõ mặt.
Nàng vô cùng hoảng sợ, lùi về phía sau.
Thoáng chốc, người đó đã biến mất trước mặt nàng.
Nàng cứ lùi mãi, lại va phải vật gì đó lành lạnh.
Nàng chợt quay người, kinh khiếp hét lên một tiếng, ngã ngồi xuống đất.
Hóa ra người kia, chẳng biết tự lúc nào, đã xuất hiện ở phía sau nàng.
Nam tử khẽ cười một tiếng. Tuy rằng không thể nhìn thấy mặt y, nàng vẫn nhận ra y đang cười.
Y bước đến trước mặt nàng, ngồi xuống, khẽ vươn bàn tay thon dài trắng bệch chạm vào má nàng.
Lạnh như xác chết.
“Muốn trốn ư? Cho dù đầu thai luân hồi bao nhiêu kiếp, vi phu vẫn tìm thấy nàng.”
-------_---- ---
Vương Dao Dao hét lên một tiếng, choàng tỉnh giấc.
Biểu ca lo lắng hỏi:
“Làm sao vậy? Mơ thấy ác mộng?”
Nàng gật gật đầu, rúc vào lòng biểu ca, vẫn còn chưa hết sợ hãi.
Biểu ca nhẹ vỗ vỗ lưng nàng an ủi, khẽ nói:
“Đừng sợ, mộng mị không phải là thật. Ngủ tiếp đi, bây giờ mới canh ba thôi.”
Nàng nằm trong lòng biểu ca, một lúc sau cũng thiếp đi, đem giấc mơ kỳ dị bỏ vào quên lãng.
Đêm ấy, mặt Thái Hồ vẫn tĩnh lặng như gương, âm thầm lưu giữ hết thảy mọi trầm tích dưới đáy hồ.
Dưới bầu trời Thái Hồ, phảng phất có một cánh cửa vô hình.
Đẩy cửa bước vào, sẽ bắt gặp giấc mộng tiền kiếp của chính mình.