01.
Thực ra trong lòng Phượng Cửu đã có tính toán kỹ lưỡng.
Việc đầu tiên sau khi ra khỏi Phạn Âm Cốc là tới chỗ cô cô để xin tha tội, lúc đó là do cô cô đưa nàng lên Cửu Trùng Thiên, giữa đường đã bị Đế Quân bắt cóc, biệt vô âm tín suốt bao nhiêu ngày, mặc dù nhà họ Bạch của họ đều để con cháu tự do muốn làm gì thì làm, nhưng chưa biết chừng thời gian qua cô cô cũng rất lo lắng cho nàng, nàng cần tới chỗ của cô cô để làm cho cô cô bớt giận.
Việc thứ hai là làm Diệp Thanh Đề sống lại, năm xưa Diệp Thanh Đề vì cứu nàng mà chết dưới đao kiếm của yêu quái, hồn phách đã bị nhuốm yêu khí, cho dù chuyển thế đầu thai cũng chỉ có thể làm yêu quái, kiếp kiếp phải chịu đau khổ, chỉ có một cách duy nhất để cứu chàng ta, đó là tạo ra một tiên thể chứa đựng hồn phách của chàng ta, hóa giải luồng yêu khí ấy, sau đó tới Dao Trì gột rửa hồng trần khiến chàng ta thành tiên. Năm xưa nàng đã thu lại hồn phách của chàng ta, gửi ở chỗ Tạ Cô Châu ở U Minh ty. Giờ đây nàng đã có được quả tần bà, quả tần bà sẽ sinh ra xương thịt cho người đã chết, xương thịt được sinh ra lại không phải là một phàm thai, mà là một tiên thể, vừa hay có tác dụng kỳ diệu là khôi phục sự sống cho chàng ta. Như vậy, sau khi nhận lỗi với cô cô, có thể tới chỗ của Tạ Cô Châu lấy lại hồn phách của Diệp Thanh Đề mà nàng nhờ ngài ấy bảo quản.
Lấy được hồn phách của Diệp Thanh Đề thì có thể tới chỗ Phục Mịch tiên mẫu, lão lão của nàng một chuyến, đây chính là việc thứ ba. Nàng và Đế Quân mặc dù đã thành phu thê, lại chưa làm lễ thành thân có sự chứng kiến của mọi người trong gia tộc, thứ lễ nghĩa này trong mắt Đế Quân mặc dù phù phiếm, nhưng trong mắt các bậc trưởng lão ở Thanh Khâu, đây lại là một việc trọng đại, nàng và Đế Quân buộc phải tổ chức một lễ thành thân. Nhưng Đế Quân thứ nhất không phải con nhà thế gia, thứ hai lại không nắm quyền lớn trong tay, nghiêm trọng nhất là chàng đánh nhau rất cừ, muốn qua được cửa ải của lão lão có thể không hề dễ dàng. Nàng khó khăn lắm mới giành được Đế Quân, lẽ nào lại có thể để mối nhân duyên này bị hỏng trong tay của lão lão, vì vậy nàng phải một mình tới gặp lão lão để thuyết phục bà.
Nhưng mọi việc từ xưa đến nay, phần lớn đều không được như ý muốn của con người.
Trong một đình hóng mát ở Tẩy Ngô cung, Dạ Hoa, thái tử điện hạ của Cửu Trùng Thiên, cô phụ của Phượng Cửu phong tư vô song lúc này đang nhàn tản vẽ tranh trong đình, Bạch Thiển, cô cô của nàng đang ngồi ngả người trên một chiếc giường thấp lật giở một cuốn sách du ký, Cục bột nhỏ, tiểu biểu đệ của nàng đang cuộn tròn trong lòng cô cô ngủ say sưa.
Nàng run rẩy lại gần hành lễ với cô cô của mình, sau khi hành lễ xong, cô phụ thái tử điện hạ lại nhìn nàng mỉm cười, cô cô của nàng thì không hề ngước mắt lên, chỉ có một giọng nói vang lên từ phía sau cuốn sách du ký: “Ồ, là Phượng Cửu à, có phải con đã quên rằng gần đây con phải gánh vác đại sự gì không?”. Giọng điệu này của cô cô là giọng điệu khi có việc không mấy tốt đẹp.
Nàng lập tức rùng mình, lí nhí nói: “Không, không nhớ”.
Cô cô vẫn không hề ngước mắt lên, tiếp tục nói: “Vậy ta phải nhắc cho con nhớ, lễ Tàng binh của con diễn ra vào mười năm ngày sau”.
Lễ Tàng binh. Đầu nàng bỗng đau buốt, khuôn mặt mếu máo nói: “Cô cô, người có thể coi như hôm nay chưa nhìn thấy con không, thực ra mười lăm hoặc mười sáu ngày nữa con mới quay về cơ”.
Cô cô của nàng cuối cùng cũng ngước mắt lên, nụ cười nở trong ánh mắt: “Nếu thật sự là mười lăm hoặc mười sáu ngày nữa con mới có thể quay về, ta sẽ biến thành hình dáng của con để thay thế con trong lễ Tàng binh, nhưng con đã về rồi, đừng nghĩ tới chuyện lợi dụng gì nữa, ngoan nào, vẫn còn mười lăm ngày, mỗi ngày ngủ ít đi hai, ba canh giờ cũng đủ để chuẩn bị rồi”.
Mắt nàng ngấn nước như sắp khóc, nói: “Nhưng một ngày tổng cộng con mới ngủ có bốn canh giờ”.
Cô cô của nàng liền nhìn nàng bằng ánh mắt thông cảm: “À, thật đáng thương, nhưng người trẻ tuổi ấy mà, một ngày chỉ ngủ một, hai canh giờ cũng không có vấn đề gì”.
Nàng đưa ánh mắt cầu cứu nhìn về phía cô phụ Dạ Hoa quân, Dạ Hoa quân đặt bút xuống nói: “Ồ, quả thật rất đáng thương”.
Mắt nàng lập tức cháy lên những tia lửa hy vọng, Dạ Hoa thay một chiếc bút làm từ lông thỏ, nói: “May mà con quay về sớm, nếu về muộn bảy, tám ngày chắc chỉ còn cách phải thức cả đêm thôi”.
Lửa hy vọng trong mắt Phượng Cửu lay động một cái rồi tắt ngúm.
Mặc dù Thanh Khâu không có nhiều lễ nghi rườm rà như trên Cửu Trùng Thiên, nhưng vẫn có một vài nghi lễ chính, ví dụ như lễ Tàng binh này. Đây là nghi lễ bắt buộc phải cử hành sau khi mỗi đời quân vương mới kế vị. Ngày tân quân kế vị do Bạch Chỉ Đế Quân kết hợp giữa thiên tướng và ngày sinh của tân quân để chọn ra ngày hành lễ, thông thường là sau đó một trăm năm, trong thời gian này tân quân phải đích thân chế tác ra một loại binh khí thuận tay, vào ngày lễ Tàng binh sẽ cất trong thánh địa nơi mình trị vì dưới sự chứng kiến của các vị tiên giả trong bát hoang, lưu lại cho con cháu đời sau sử dụng. Ví dụ như thanh kiếm Đào Chú trong tay nàng, chính là một kiệt tác mà cô cô Bạch Thiển của nàng đã rèn cho lễ Tàng binh của mình năm xưa.
Từ khi nhận tiên chức từ cô cô của nàng, kế vị làm quân vương của Đông Hoang, hai trăm năm qua, một nửa thời gian dùng cho việc học hành, một nửa thời gian dành để rèn thứ thần binh này. Binh khí mà nàng rèn cũng là một thanh kiếm, vì nguyên liệu dùng để rèn kiếm được lấy từ núi Hợp Hư trong Đại Hoang nên thanh kiếm này được mệnh danh là kiếm Hợp Hư.
Trước tiệc cưới của cô cô nàng vài ngày, thực ra kiếm Hợp Hư đã được luyện xong, nhưng hộp đựng kiếm dùng trong lễ Tàng binh không biết còn đang ở chốn nào xa lắc, trước đó nàng nghĩ dù sao vẫn còn sớm, đợi sau tiệc cưới của cô cô, ở trên Cửu Trùng Thiên chơi thêm một vài tháng cũng không ảnh hưởng gì.
Nào ai biết sau đó nàng lại bị rơi vào trong Phạn Âm Cốc, ai biết nàng còn quên sạch cả việc này.
Nếu ngày hành lễ, nàng mang thanh kiếm không tới trình ra trước mặt bát hoang, gia gia Bạch Chỉ Đế Quân của nàng chắc chắn sẽ lột da hồ ly của nàng ra. Phượng Cửu đau khổ than thở ngước lên nhìn trời, mọi kế hoạch đã tính toán kỹ lưỡng trước đó của nàng khỏi cần làm nữa rồi, giờ đây chế tạo hộp đựng kiếm mới là đại sự cuộc đời. Mười lăm ngày, mười lăm ngày. Tạm thời phải cố gắng thôi.
Phượng Cửu thở ngắn than dài đi qua ao Phấn Đà Lợi ở Nhất Thập Tam Thiên, tình cờ gặp Liên Tống quân, hai người cùng dạo bước, Liên Tống quân thấy bộ dạng đau khổ như mất người thân của Phượng Cửu bèn quan tâm thăm hỏi vài câu, trước sự quan tâm của Liên Tống quân, Phượng Cửu vô cùng cảm động, nói thật hết món nợ đang phải gánh trên vai lúc này. Liên Tống phe phẩy cây quạt trong tay, cười nói: “Chẳng phải trong nhà ngươi còn cất giữ cả một Đế Quân sao? Trình độ chế tác hộp đựng kiếm của Đông Hoa có thể coi là hạng nhất, việc này huynh ấy chắc chắn có thể làm xong trong một, hai ngày, những lúc quan trọng như thế này ngươi lại để huynh ấy ở đó không đem ra dùng, chẳng phải đã phí phạm của trời sao?”, trêu đùa nói: “Ngươi nói ngọt với huynh ấy vài câu, huynh ấy sẽ làm giúp ngươi, đâu cần ngươi phải ở đây thở ngắn than dài”.
Một nửa tâm trí của Phượng Cửu lúc này còn đang mãi nghĩ xem nên chọn nguyên liệu gì để làm hộp đựng kiếm, làm hình dạng như thế nào, nghe những lời đó của Liên Tống quân, hàm hồ nói: “Chuyện của ta thực ra vẫn nên do ta tự làm, việc này nếu giao cho Đế Quân đương nhiên chắc chắn sẽ không xảy ra sai sót gì, nhưng việc gì cũng dựa dẫm vào Đế Quân thì thật là không cầu tiến, hơn nữa Đế Quân cũng không muốn ta trở thành một phế vật chỉ biết dựa dẫm vào chàng, việc này cùng lắm cũng chỉ giúp ta vạch kế hoạch tiến độ chế tạo hộp đựng kiếm thôi, những việc khác chắc cũng sẽ không giúp ta nhiều”. Nghĩ tới điều gì đó, ánh mắt nàng chợt sáng lên, nói: “Hay là tam điện hạ cùng đánh cược với ta xem Đế Quân liệu có chủ động làm thay ta không, nếu ta thắng, tam điện hạ hãy tặng cho ta ngọc Vu Phù, thứ ngoc giá trị nhất thế gian này còn thừa lại sau khi chế tạo thanh đoản đao tặng Thành Ngọc Nguyên Quân, nếu tam điện hạ thắng, ta sẽ dùng cá béo trong ao Phấn Đà Lợi làm món cá sốt chua ngọt cho tam điện hạ nửa tháng”.
Lúc đó hai người đang bước vào cửa cung, Liên Tống gấp quạt lại, cười nói: “Tiền đặt cửa mặc dù tương đối hợp lý, nhưng nghĩ tới tình thế của ngươi hiện nay, lần cá cược này ta vẫn là ta thắng thì hơn”. Chàng ta phe phẩy cây quạt, nói: “Ồ, nếu ta thắng thực ra cũng không được coi là tốt, nếu ăn món cá sốt chua ngọt của ngươi, với bản tính ghen tuông của Đông Hoa, huynh ấy chắc chắn sẽ khiến ta nôn hết ra ấy chứ”.
Phượng Cửu nói: “Tam điện hạ nói như vậy là hơi quá rồi, hơn nữa, Đế Quân cũng đâu đến nỗi như vậy…”. Hai người vừa nói chuyện vừa đi vào trong cung.
Tuy gần đây Liên Tống rất đắc ý trong tình trường nhưng trong cờ bạc lại không gặp vận may, Đế Quân sau khi nghe xong thành quả của việc Phượng Cửu tới nhận lỗi ở chỗ cô cô của nàng, quả nhiên lập tức hóa ra bút mực, sắp xếp tiến độ chế tác hộp đựng kiếm cho nàng, dán vào một cây cột đối diện với thư trác (bàn đọc sách) trong thư phòng, nghĩ một lát lại nói thêm vài lời động viên, ngoài ra không làm gì khác nữa.
Nhân lúc Đông Hoa ra khỏi thư phòng, Phượng Cửu vội vàng chắp tay hướng về phía Liên Tống, mặt mày hớn hở khẽ nói: “Được sự coi trọng của tam điện hạ, xem ra hôm nay tại hạ được sao phát tài chiếu mệnh rồi, chắc chắn miếng ngọc Vu Phù của tam điện hạ thuộc về tại hạ rồi”.
Liên Tống quân cũng khẽ nói: “Ban nãy nhìn ngươi còn ủ ê rầu rĩ, bây giờ sao lại vui vẻ như vậy, chỉ vì đã thắng được miếng ngọc Vu Phù của ta sao?”.
Phượng Cửu càng nói khẽ hơn: “Hoàn thành hộp đựng kiếm trong vòng mười lăm ngày là chuyện đã định rồi, dù rầu rĩ cũng có được gì đâu, rầu rĩ một lúc giải tỏa tâm trạng thôi, có thể lừa được miếng ngọc Vu Phù của tam điện hạ để tô điểm thêm sắc màu cho hộp đựng kiếm của ta lại là niềm vui bất ngờ, sao có thể không khiến người ta tươi vui hớn hở được?”.
Bên ngoài, Đông Hoa đã sai Trọng Lâm bày một bàn cờ cùng hai chiếc ghế đá dưới gốc cây lá đỏ. Giờ đây trong thư phòng chỉ còn một mình Phượng Cửu, nàng đang ngồi ngay ngắn trước thư trác vẽ hình dạng hộp kiếm, nếu chàng và Liên Tống chơi cờ trong thư phòng sẽ ảnh hưởng tới nàng, hôm nay thời tiết ấm áp, ngồi hóng mát chơi cờ ở bên ngoài cũng tốt.
Trọng Lâm ôm bàn cờ thay đổi tới mấy hướng liền, chốc lại hỏi Đế Quân bày ở chỗ này có được không, lát lại hỏi Đế Quân bày chỗ kia có được không, nhưng mãi vẫn chưa được. Trọng Lâm toát hết cả mồ hôi. Đừng thấy Trọng Lâm tiên quan có vẻ rất nghiêm nghị, nhưng ngài lại nổi tiếng là người hiểu ý Đế Quân nhất trong cung Thái thần, mang mỹ danh Giải ngữ hoa. Lúc này, ngay cả việc bày một bàn cờ cũng không vừa ý của Đế Quân, việc này khiến Giải ngữ hoa Trọng Lâm đại nhân cảm thấy áp lực quá lớn. Lại bày thêm mấy lần nữa, khi Trọng Lâm đại nhân sắp suy sụp mới nghe thấy Đế Quân chậm rãi nói: “Ờ, vị trí này không tồi”.
Trọng Lâm đại nhân quả thực không hiểu, bàn cờ lúc này được kê ngoài bóng râm của cây lá đỏ, cũng cách xa đám hoa cỏ, sao Đế Quân lại thích vị trí này chứ, khi đứng dậy dùng tay áo lau mồ hôi, ngước mắt lên liền nhìn thấy chiếc thư trác và Phượng Cửu đang trải giấy bày nghiên phía sau thư trác trong thư phòng. Trọng Lâm đại nhân bỗng nhiên hiểu ra, thấy chiếc thư trác đó vì không kê đối diện với cửa sổ phòng, đứng từ bên ngoài nhìn vào cho dù thế nào cũng không nhìn thỏa ý được… Giải ngữ hoa Trọng Lâm đại nhân chân thành nói với Đế Quân: “Ngoài trời vừa hay có gió mát, thư trác của Phượng Cửu điện hạ lại kê quá khuất, không thể hưởng gió mát, đợi thần kê lại thư trác cho điện hạ một chút”. Đế Quân tán thưởng nhìn Trọng Lâm, gật đầu đồng tính: “Ừm, kê lại một chút cũng tốt”.
Phượng Cửu nỗ lực làm việc trong phòng, Đông Hoa và Liên Tống nỗ lực phía bên ngoài, các quân cờ đen trắng dọc ngang trên bàn cờ, Liên Tống có chút cảm khái: “Năm ngoái huynh và đệ cũng cùng uống rượu chơi cờ trong cung Thái Thần này, đệ còn nhớ lúc đó đã từng khuyên huynh, nói rằng một ngày nào đó nếu huynh nghĩ thông, muốn tìm một vị Đế Hậu song tu, Tri Hạc cũng không tồi. Haizz, thực ra Tri Hạc với huynh, chung quy hơi miễn cưỡng một chút, nhưng lúc đó vì niệm tình nàng ta ở trong cung Thái Thần nhiều năm… Có điều, huynh chờ đợi bao nhiêu năm như vậy lại đợi được Phượng Cửu, huynh đã không uổng công chờ đợi, quả nhiên chỉ có người này xứng đáng với ngôi vị Đế Hậu của huynh”.
Đông Hoa nhướng mày, nói: “Hôm nay trước khi tới đây đệ đã uống say rồi ư? Hiếm hoi lắm mới nói được vài câu hay ho như vậy”.
Liên Tống hững hờ cười nói: “Rượu thì không uống nhưng đã đánh cược một phen”. Lại nói: “Mặc dù ấn tượng của đệ đối với Tri Hạc cũng không tồi, ừm, Tri Hạc múa đẹp, chỉ có điều nếu luận về dung mạo và khí phái, nói một câu công bằng, về điểm này thì Tri Hạc thua xa Phượng Cửu”. Chàng ta đi một quân cờ màu trắng, nói tiếp: “Hôm nay đệ đã khuyên Phượng Cửu có thể nhờ huynh thay nàng ấy chế tạo hộp kiếm, nàng ấy lại nói rằng việc của mình vốn nên tự mình làm, không thể dựa dẫm vào huynh rồi trở thành một phế vật. Đệ vốn tưởng rằng đó chỉ là những lời nói khách sáo của nàng ấy, tiểu cô nương mà, luôn muốn được người ta cung phụng, chiều chuộng, không ngờ huynh không giúp nàng ấy, nàng ấy thật sự lại không hề cảm thấy có gì không ổn, những lời nói đó lại là những lời nói thật lòng”.
Đông Hoa ngước mắt lên nhìn Phượng Cửu trong thư phòng, thiếu nữ áo đỏ đang vô cùng chuyên tâm trầm tư trước trang giấy trắng, có thể tưởng tượng ra dáng vẻ của nàng lúc phê sửa văn thư sau này trông như thế nào, Đế Quân khẽ đặt quân cờ màu đen trong tay xuống, nói: “Tiểu Bạch luôn rất biết phải trái”.
Phượng Cửu biết phải trái mấy ngày gần đây bận tối mắt tối mũi, chư tiên còn chưa vào chầu buổi sớm, nàng đã ngồi trong thư phòng, hễ ngồi vào bàn là ngồi đến chiều, lại ngồi từ chiều tới lúc lên đèn, lại ngồi từ lúc lên đèn tới tận đêm khuya. Còn Đế Quân thì bận rộn ở khu vườn nhỏ phía sau.
Ngày thứ ba Đông Hoa đem tất cả đồ nghề của nàng chuyển vào trong khu vườn nhỏ, Phượng Cửu lúc bấy giờ mới biết mấy ngày vừa rồi Đế Quân bận rộn trong vườn để làm gì. Ngước mắt lên nhìn, đình lục giác trong hồ sen đã hoàn toàn thay đổi, sáu mặt quanh đình đều được treo rèm tránh gió, bộ bàn ghế bằng thủy tinh đã được thay bằng một chiếc bàn dài, trên bề mặt thủy tinh trắng nối giữa đình và mặt nước đã được trải thảm để tránh bị lạnh chân khi ngồi trên đất.
Nghe ý tứ của Trọng Lâm, Đế Quân chê trong thư phòng quá gò bó, đặc biệt sắp xếp lại mái đình nhỏ này để tiện cho nàng làm việc. Ngày đầu tiên khi Phượng Cửu dọn vào đó, liền cảm thấy mái đình nhỏ này quả là đáng yêu hơn thư phòng nhiều. Bởi vì ở trong vườn, cả ban ngày và ban đêm đều có cảnh sắc sống động, khi làm hộp kiếm thấy mệt mỏi nàng chỉ cần ngước mắt lên là có thể nhìn ngắm phong cảnh cho đỡ mệt, khi nàng muốn ngủ chỉ cần buông rèm xuống là mái đình đã trở thành một phòng ngủ. Tâm ý này của Đế Quân khiến nàng có chút cảm động.
Phượng Cửu ăn nghỉ ở trong đình, nàng vô cùng bận rộn, nhưng từ tận đáy lòng nàng cảm thấy nếu trên Cửu Trùng Thiên lập bảng những thần tiên nhàn rỗi nhất, Đế Quân chắc chắn sẽ nằm trong ba người dẫn đầu. Vì bận rộn việc công mà nàng bất đắc dĩ phải ở một thời gian dài trong đình, Đế Quân lại cũng ăn nghỉ trong đình. Mặc dù đa phần trà nước mà nàng uống đều do Đế Quân đưa cho, khi nàng bận đến nỗi quên cả ăn cơm, Đế Quân còn tận tay đút cho nàng thứ gì đó. Nhưng thực ra phần lớn thời gian ở trong đình, Đế Quân đều đọc sách thư giãn. Khi nàng vẽ hình dáng hộp kiếm, Đế Quân ngồi bên nàng đọc sách thư giãn, khi nàng lựa chọn nguyên liệu gỗ để làm hộp kiếm, Đế Quân nằm bên cạnh nàng đọc sách thư giãn, khi nàng tách gỗ, Đế Quân nằm bên cạnh nàng đọc sách thư giãn, khi nàng thử lắp sơ hộp kiếm… chàng đã úp sách lên mặt mà ngủ rồi…
Mười ngày thoáng một cái đã trôi qua, hộp kiếm cũng đã gần như làm xong, chỉ còn hoa văn chạm trổ trên miếng ngọc Vu Phù để trang trí là chưa làm thôi, Phượng Cửu cuối cùng đã có thể thở phào. Người vừa thấy thoải mái, liền bỗng nhiên nhớ tới một chuyện lúc mơ ngủ hôm nay.
Mấy ngày trước dường như Đế Quân đã hỏi nàng xem khi nào thì có thể dẫn chàng tới Thanh Khâu diện kiến song thân nàng, lúc đó nàng đã nói như thế nào nhỉ? Lúc đó nàng hình như đang bào một thanh gỗ, không để ý nên đã nói rất thật: “Đợi em thuyết phục lão lão, sau đó thuyết phục phụ thân của em rồi sẽ đưa chàng về”.
Lúc đó nàng bận tối mắt tối mũi, lúc này khi nhớ lại lập tức giật nảy mình, sao lúc đó mình lại nói thật chứ. Lúc đó Đế Quân đang dùng sách che mặt, yên lặng rất lâu, nàng cũng không để ý, bây giờ nghĩ lại, Đế Quân chắc không giận chứ, nhưng mấy ngày sau dường như Đế Quân cũng không có biểu hiện gì khác cả.
Nàng bất giác mở to mắt, trước mắt là khuôn mặt đang yên bình say ngủ của Đế Quân, nàng vuốt ve khuôn mặt của chàng, khẽ khàng mà áy náy nói: “Em nhất định sẽ sớm thuyết phục lão lão và phụ thân, sớm đưa chàng về Thanh Khâu, tạm thời để chàng phải chịu ấm ức vài ngày, chàng không được vì chuyện này mà giận em đấy”, lại khe khẽ vỗ đầu Đế Quân. Vì xin lỗi Đế Quân, trút được tảng đá đè nặng trong lòng, nhìn sắc trời thấy vẫn còn nửa canh giờ nữa để ngủ bèn rúc đầu vào trong lòng Đế Quân để tránh ánh trăng rồi ngủ thiếp đi.
Lễ Tàng binh được ấn định vào ngày mười tám tháng hai, Phượng Cửu vất vả suốt mười bốn ngày đêm, cuối cùng vào lúc canh năm của đêm ngày mười sáu tháng hai, nàng quẳng con dao khắc đi, hoàn thành hộp kiếm, phong ấn linh khí vào hộp, coi như đã hoàn thành được việc lớn này.
Hộp kiếm bằng gỗ hán nam dài bốn tấc, làm thành hộp kéo, những chỗ kết nối hoàn toàn không để lại dấu vết, dưới đáy hộp và hai bên thành khắc hoa văn hình năm con hồ ly đùa nghịch, trên mặt hộp được khảm hai bông hoa phật linh khắc bằng ngọc Vu Phù. Phượng Cửu giỏi nấu ăn, một số món ăn nàng thường phải tỉa củ cải hay khắc bí đỏ, do đó, hoa văn khắc trên hộp kiếm cũng được thực hiện một cách hết sức tinh tế và tao nhã. Hộp kiếm này không biết so với hộp kiếm mà gia gia cùng mấy vị thúc bá của nàng làm cho lễ Tàng binh năm xưa thì thế nào, nhưng so với hộp cô cô nàng làm năm đó, quả thực đẹp hơn rất nhiều.
Phượng Cửu nhìn hộp kiếm đặt trên chiếc bàn dài, cảm thấy rất mãn nguyện, nàng tự cảm thấy hài lòng ít nhất một khắc, cảm thấy ổn rồi liền định đi ngủ. Khi đóng viên dạ minh châu thì nhìn thấy Đế Quân nằm bên cạnh chiếc bàn dài không biết đã ngủ được bao lâu rồi, nàng đưa tay kéo chiếc chăn mây đắp trên người Đế Quân lên cao hơn, sau đó thận trọng nép bên cạnh chàng.
Nhưng đã nằm xuống hồi lâu mà vẫn không buồn ngủ, trằn trọc một lát, lại trở dậy lấy giấy bút, nghĩ ngợi một lát rồi lại bắt đầu tô tô phết phết, tô phết đến nỗi ngáp dài rồi mới thu bút lại, đang định đi ngủ bỗng nghe thấy giọng nói của Đế Quân vọng lại từ phía sau: “Ta nhớ việc vẽ hình dáng nàng đã làm xong rồi, muộn thế này còn vẽ gì nữa?”.
Phượng Cửu thích nghe nhất là giọng nói của Đế Quân khi chàng vừa mới tỉnh ngủ, giọng nói khàn thấp còn mang theo chút âm mũi, nàng cảm thấy rất hay, muốn nghe chàng nói thêm nói vài câu nữa, liền cố ý không nói gì cả. Vì ánh sáng của viên dạ minh châu quá chói, không dễ gây buồn ngủ nên ban nãy nàng chỉ châm một ngọn nến bên cạnh bàn, lúc này trong đình chỉ có một luồng sáng yếu ớt. Một tay của Đế Quân đặt lên vai nàng, ghé lại gần, nhìn vào bức vẽ qua ánh sáng mờ nhạt của ngọn nến: “Xem ra… giống một ngôi nhà?”. Nghiêng đầu nhìn nàng nói: “Hử? Sao không nói gì thế?”.
Bận rộn suốt mười mấy ngày, nàng tự cảm thấy thực ra trong những ngày qua mình có phần lạnh nhạt với Đế Quân, sớm đã muốn trò chuyện tâm tình của chàng, lúc này đã được nghe khoái lỗ tai rồi, bèn mãn nguyện kéo cây nến lại gần một chút, nói: “Hộp kiếm làm xong rồi em nhất thời lại không ngủ được, liền vẽ một căn lầu bằng trúc để xem thử, động hồ ly mà cô cô để lại ở Thanh Khâu thực ra em ở không quen lắm, sớm đã muốn dựng một căn lầu trúc trong rừng trúc bên ngoài, nhưng bản vẽ trước đây của em không có phòng ngủ của chàng và tiểu hồ ly, vì vậy muốn vẽ lại một bức đưa cho Mê Cốc dựng nhà, mặc dù một năm chàng có lẽ chỉ có thể ở Thanh Khâu nửa năm thôi, nhưng em cảm thấy…”.
Đế Quân nghe vậy dường như cảm thấy rất hứng thú, đưa tay chỉ vào một điểm trong bức vẽ, nói: “Chỗ này là của ta đúng không?”, lại nói: “Ta rất nhàn rỗi, ở cung Thái Thần hay Thanh Khâu thực ra không ảnh hưởng gì, cũng có thể sống lâu dài ở Thanh Khâu, nhưng ta tưởng ta sẽ ở phòng nàng, sao còn phải làm thêm một phòng khác nữa?”.
Phượng Cửu tự đắc nói: “Đó là do em suy nghĩ chu đáo, bởi vì nếu chúng ta cãi nhau, em đuổi chàng ra ngoài, nếu không có phòng ngủ này chàng sẽ không có chỗ để ngủ, mặc dù thực ra cũng có một thư phòng, nhưng ngủ ở trong thư phòng còn phải làm phiền Mê Cốc chuẩn bị giường chiếu cho chàng, có chút phiền phức”.
Đế Quân trầm mặc, nói: “Ta cảm thấy dù ta có khiến nàng tức giận như thế nào, nàng cũng không nên đuổi ta ra ngoài”.
Phượng Cửu khoát tay nói: “À, cái đó không quan trọng, đều là những chuyện nhỏ nhặt cả thôi, tạm thời không nhắc đến nó, quan trọng là nên thêm mấy phòng cho tiểu hồ ly nhỉ? Nếu căn lầu trúc này dựng xong em dự định ít nhất sẽ ở đó hàng nghìn năm, vì vậy dựng mấy phòng đều cần phải tính toán thật kỹ, chàng cảm thấy nên để mấy phòng thì được?”.
Đế Quân nói: “Để mấy phòng tức là sinh mấy con, là ý đó đúng không? Vậy thì để một phòng là đủ rồi”.
Phượng Cửu trò chuyện một lát lại cảm thấy hơi buồn ngủ, ngáp dài nói: “Ừm, thực ra em vốn định để lại hai phòng, bởi vì có hai nhóc tỳ mới vui, đúng không, nhưng lại có phần lo lắng rằng hai đứa chúng nó sẽ tự chơi với nhau, không gần gũi với mẫu thân là em, không chơi với em thì phải làm thế nào, giống nhà cô cô, chỉ có một mình Cục bột nhỏ, Cục bột nhỏ lại tương đối quấn quýt với cô cô, em nghĩ như vậy cũng tốt, vì vậy bức vẽ này cũng chỉ để một phòng, nếu chàng cũng đồng ý…”.
Đế Quân lập tức cắt ngang: “Vậy thì sinh hai đứa, bức vẽ này nàng cũng không cần sửa lại, hãy nhường phòng của ta cho chúng, cứ quyết định như vậy đi”.
Phượng Cửu vừa mới ngáp xong, bụm miệng nói: “Nhưng…”, Đế Quân đã thổi tắt ngọn nến.
Ánh sáng mờ mờ của hoa bồ đề vãng sinh trên tường trong khu vườn nhỏ chiếu vào, trong đình không đến nỗi quá tối tăm, Đế Quân hơi đưa tay lên, sáu tấm rèm treo ở đình lục giác đều được buông xuống, che chắn hết những tia sáng đó, đôi môi của Đế Quân khẽ dừng lại trên trán nàng, kéo tấm chăn mây đang đắp trên người mình cuộn nàng vào trong chăn: “Không ngủ đi trời sắp sáng rồi đấy, thức đêm nhiều ngày như vậy, không cảm thấy mệt sao?”.
Phượng Cửu lập tức quên hết tất cả những điều ban nãy đang định nói, níu quần áo trước ngực của Đế Quân, mơ màng gật đầu: “Ban nãy nói chuyện với chàng còn không cảm thấy mệt, tắt đèn rồi không hiểu sao lại cảm thấy vừa mệt vừa buồn ngủ, nhưng ban nãy chàng đã nhìn thấy hộp kiếm chưa, em làm có đẹp không?”.
Đế Quân ôm nàng vào lòng: “Ừm, nhìn thấy rồi, làm rất đẹp”.
02.
Bên ngoài Đông Hải, trong Đại Hoang, chính là nước Thanh Khâu.
Lễ Tàng binh lần trước ở Thanh Khâu là khi thượng thần Bạch Thiển phân phong Đông Hoang khoảng mười vạn năm về trước. Theo sử sách ghi chép, lễ đài năm đó được dựng trên núi Đường Đình của Đông Hoang, mấy trăm bậc thang kết bằng các loại hoa cỏ dẫn thẳng từ lễ đài tới thánh đỉnh cao nhất của núi Đường Đình. Khi thượng thần Bạch Thiển còn trẻ tuổi, khoác trên mình bộ xiêm y trắng muốt, hai tay giơ cao hộp kiếm bước lên từng bậc thang được kết từ hoa cỏ, đặt thanh kiếm Đào Chú trên thánh đỉnh của núi Đường Đình, người có một phong tư khiến các chư tiên trong cõi hồng hoang tranh nhau truyền tụng.
Núi Đường Đình không hổ danh là núi thánh của Đông hoang, trải qua mười vạn năm vẫn xanh tươi um tùm, không hề thấy vẻ già nua. Khi tia nắng đầu tiên của buổi sớm ngày hôm nay chiếu xuống, lễ đài dùng để tiến hành lễ Tàng binh trên đỉnh núi lại xuất hiện trên thế gian, đó là một lễ đài rất cao lớn, rộng rãi, làm toàn bằng mây lành, không hề lẫn chút tạp sắc nào, lớp mây mù phiêu diêu cuộn bay trên lễ đài toát lên tiên ý vô biên, quả xứng là nơi dùng để hành lễ của thần tiên. Khán đài phía đối diện mặc dù được dựng bằng các loại gỗ quý hiếm lấy từ trên núi, xét về lý thì cũng được coi là xa hoa, nhưng so với lễ đài mây này thì vẫn còn kém một bậc.
Lúc này có ba người đang ngồi trên khán đài kém một bậc này. Người ngồi phía bên phải là thái tử điện hạ Dạ Hoa quân của cung Tẩy Ngô trên Cửu Trùng Thiên, người ngồi bên trái là Liên Tống quân của cung Nguyên Cực và Đông Hoa Đế Quân ở cung Thái Thần. Đế Quân dựa vào thành ghế, thi thoảng nghịch hộp lưu ly nhỏ xinh đang cầm trên tay, nói với Liên Tống: “Đệ đến sớm như vậy ta cũng hiểu được, chẳng qua chỉ để xem trò vui, Dạ Hoa đến sớm như vậy, hắn nhớ nhầm giờ sao?”.
Liên Tống quân cười đầy ý tứ sâu xa, nói: “Coi như huynh có phúc, có thể đích thân đến xem lễ Tàng binh của Phượng Cửu. Thanh Khâu bọn họ hiếm khi tổ chức nghi lễ trọng đại, nghi lễ quan trọng nhất trong cuộc đời chắc chính là ngày này. Tương truyền năm xưa, trong lễ Tàng binh thượng thần Bạch Thiển tuổi còn trẻ, dung mạo xinh đẹp vô song đã khiến chư tiên trong cõi hồng hoang nghiêng ngả. Tên tiểu tử Dạ Hoa mấy hôm trước khi uống rượu với đệ, đã rất hối tiếc vì không có duyên chứng kiến thượng thần Bạch Thiển làm lễ Tàng binh, chỉ có thể tưởng tượng ra hình dáng của nàng ấy năm xưa như thế nào qua ghi chép trong điển tịch, hôm nay hắn đến vào giờ này chắc là muốn được nhìn ngắm nơi mà năm xưa Bạch Thiển thực hiện lễ Tàng binh chăng”.
Đế Quân liếc nhìn Dạ Hoa ngồi đối diện đang trầm tư nhìn lên vân đài, đột nhiên hỏi: “Đệ nói xem… khi Tiểu Bạch vừa ra đời nàng có dáng vẻ như thế nào nhỉ?”.
Liên Tống quân bị sặc một ngụm trà, nói: “Câu này của huynh không nên để Dạ Hoa nghe thấy, chưa biết chừng lại nghĩ rằng huynh cố ý chọc tức hắn, chắc chắn sẽ thầm ghi thù huynh đấy”. Ánh sáng từ chiếc hộp lưu ly trong tay của Đông Hoa chiếu vào mắt chàng ta, Liên Tống chỉ chiếc quạt vào đó, hỏi: “Trong tay huynh đang cầm thứ gì vậy?”.
Đế Quân xòe tay ra: “Đệ hỏi cái này ư? Đồ ăn vặt Tiểu Bạch làm cho ta, sợ bị chảy nước dưới ánh nắng nên đã dùng hộp lưu ly để phong kín lại”.
Liên Tống quân cảm thấy như có sét đánh trúng người mình ngay giữa trời nắng: “Đồ ăn vặt? Cho huynh ư?”. Sán lại gần nhìn kỹ, bên trong chiếc hộp màu lam nhạt trong suốt quả nhiên có một ít kẹo mật, còn được làm thành hình hồ ly nữa chứ. Khóe miệng của Liên Tống quân giật giật, nói: “Đệ quen biết huynh bao nhiêu năm như vậy mà lại không biết huynh còn có thói quen ăn quà vặt, chuyện này tạm thời không nhắc đến, Phượng Cửu hôm nay phải tiến hành đại lễ trước mặt hàng nghìn hàng vạn tiên giả trong bát hoang, nhất định là rất căng thẳng, huynh lại còn bảo nàng ấy làm đồ ăn vặt cho mình, liệu có phải huynh có phần vô liêm sỉ không huynh…”.
Đế Quân vẫn đùa nghịch chiếc hộp trong tay, nhoẻn miệng cười, nói: “Đừng trách oan ta, ban ngày nàng ngủ nhiều quá, đêm qua không ngủ được, bảo ta thức dậy cùng nàng làm kẹo. Ngoài ra, lần thứ hai khi ta gặp nàng, nàng còn dám đá cả chậu hoa về phía đầu ta, lại có thể điềm tĩnh đổ tội cho Mê Cốc nữa”, đưa mắt liếc nhìn chư vị tiên giả trong bát hoang tập hợp về ngồi kín ba mươi tầng trong ba mươi tầng ngoài khắp bốn xung quanh khán đài, chậm rãi nói: “Chỉ là một thế trận nhỏ thôi mà, đệ nghĩ nàng dễ dàng bị căng thẳng như thế sao?”.
Liên Tống quân cố ý gập quạt lại, gõ gõ trong lòng bàn tay, than rằng: “Nói chuyện với huynh quả nhiên không thú vị bằng nói chuyện với Dạ Hoa”, nhìn mây lành cuồn cuộn kéo đến từ phía Đông, nói: “Mấy vị chân hoàng rảnh rỗi chắc cũng đã đến rồi, cả nhà Bạch Chỉ Đế Quân chắc cũng sắp đến, đệ đi tìm Dạ Hoa để ngồi cùng, huynh cũng lên trên ngồi đi, nếu không chư vị đến rồi nhìn thấy huynh ngồi ở đây lại không dám ngồi”. Đưa mắt nhìn về vị trí trên cao, cười một tiếng, nói: “Theo thứ bậc, gia gia của Phượng Cửu còn phải ngồi phía dưới huynh, ồ, Phượng Cửu đã có can đảm theo đuổi huynh, trong những trường hợp như thế này nàng ấy quả nhiên không cần quá căng thẳng”.
Chư vị tiên giả ngồi kín ba mươi tầng bên trong ba mươi tầng bên ngoài dưới khán đài đều là các tiểu tiên trong bát hoang. Lễ Tàng binh của thượng thần Bạch Thiển cách đây đã lâu, chư vị tiên giả của cõi hồng hoang được chứng kiến đại lễ đó phần lớn đều đã qua đời, lớp tiểu tiên mới đều chỉ được đọc vài điều ghi chép trong sử sách, vô cùng có hứng thú với nghi lễ cổ xưa này, đã nô nức kéo về chiếm chỗ ở núi Đường Đình từ ba ngày trước đó. Lúc đám tiểu thần tiên nhìn thấy sự hoành tráng khi lễ đài làm từ mây lành trong chốc lát tái xuất trên thế gian, đều mãn nguyện trầm trồ, cảm thấy đã không uổng công tới tranh chỗ. Thấy ba vị thần tiên tới khán đài từ sớm đều có dung mạo tuyệt thế, hơn nữa vẻ đẹp của mỗi người lại không giống nhau, lại trầm trồ một cách mãn nguyện, cảm thấy đã không uổng công tới tranh chỗ. Nghĩ tới việc đại lễ còn chưa bắt đầu đã đẹp như vậy rồi, không biết khi đại lễ bắt đầu còn đẹp thế nào nữa, lại trầm trồ kích động, cảm thấy đã không uổng công tới tranh chỗ.
Thời gian hành lễ vẫn còn sớm, các vị tiên giả ai nấy rôm rả chuyện trò. Ví dụ như dưới khán đài có một tiểu thần tiên bên ngoài cốc ngồi nói chuyện với một tiểu thần tiên là người ở Thanh Khâu ngay bên cạnh: “Xin hỏi huynh đài là tiên ở Thanh Khâu phải không? Huynh đài có biết trong ba vị thần tiên đến sớm nhất, vị thần tiên áo đen và vị thần tiên áo trắng là thần quân nào vậy?”.
Tiểu thần tiên của Thanh Khâu chớp chớp mắt tự hào nói: “Vị áo đen là con rể của Thanh Khâu chúng ta – thái tử điện hạ Dạ Hoa quân ở trên Cửu Trùng Thiên, vị áo trắng tay cầm quạt kia thì ta không biết. Có điều, huynh đài chỉ hỏi ta về nhị vị thần tiên này, lẽ nào huynh đài biết vị thần tiên áo tím tóc trắng kia là ai ư? Vị thần tiên đó thật tuấn mỹ, nhưng những thần tiên đến sau đều phải bái lạy ngài ấy, mặc dù nhìn còn rất trẻ, ta nghĩ chắc giữ một chức quan không nhỏ đâu nhỉ?”, lại vui vẻ nói: “Trên đời cũng có nhân vật như vậy, giống như điện hạ Phượng Cửu của chúng ta, điện hạ Phượng Cửu của chúng ta tuổi còn trẻ, nhưng cũng là một vị quan không nhỏ!”.
Tiểu thần tiên bên ngoài cốc nuốt nuốt nước miếng, nói: “Chức quan của vị tôn thần đó còn lớn hơn điện hạ Phượng Cửu của các ngươi nhiều, tuy ta chỉ mới bái kiến vị tôn thần đó một lần khi lên trời xin ban phẩm vị”, lại nuốt nuốt nước bọt, nói: “Nhưng vị đó chính là Đông Hoa Đế Quân, người từng là chủ nhân của trời đất, sau thoái ẩn về ở cung Thái Thần, Đế Quân thọ ngang trời đất, dung mạo rực rỡ sánh ngang với nhật nguyệt, điện hạ Phượng Cửu của các ngươi…”.
Còn chưa nói hết câu đã bị tiểu thần tiên ở Thanh Khâu tròn xoe mắt cắt ngang: “Là… là Đông Hoa Đế Quân sao? Đông Hoa Đế Quân bằng xương bằng thịt?”, kích động đến nổi nắm chặt tay lại: “Quả… quả nhiên hôm nay đã không uổng công tới chiếm chỗ!”.
Thanh Khâu làm lễ, từ trước đến nay đều không gửi thiệp mời, chư tiên giả trong bát hoang nếu muốn hoặc rảnh rỗi, đến xem đều là khách, nếu ai không muốn hoặc không rảnh rỗi cũng không miễn cưỡng, đây là phong cách hành xử của Thanh Khâu. Mặc dù vậy, quy cách như thế nào, trường hợp ra sao, cũng có thể đại thể đoán trước được những vị thần tiên có phẩm cấp cao nào ở trên trời dưới đất sẽ đến tham dự.
Nhưng hôm nay, trong đại lễ của Thanh Khâu bọn họ, tại sao Đông Hoa Đế Quân lại xuất hiện, Bạch Chỉ Đế Quân người đứng đầu Thanh Khâu cảm thấy mình không hiểu. Bạch Chỉ thỉnh giáo người bạn thân vốn nổi tiếng nắm tin đồn nhanh nhạy của mình là Chiết Nhan, thượng thần Chiết Nhan mơ màng nói rằng mình cũng không hiểu.
Liên Tống quân ngồi bên cạnh Dạ Hoa quân kìm nén một cách khó khăn, ấm ức nói với Dạ Hoa quân: “Ngươi nói xem tại sao bọn họ lại không tới hỏi ta chứ?”.
Dạ Hoa quân nâng ly trà lên, nhướng mày nói: “Cháu nghe Thiển Thiển nói, Thành Ngọc bình sinh ghét nhất là những kẻ hay đưa chuyện của người khác”.
Liên Tống quân lập tức ngồi ngay ngắn: “Ồ, bản quân chỉ có lòng muốn giúp đỡ người khác thôi, lúc này xem ra bọn họ cũng không quá cần tới sự tương trợ của bản quân”.
Thượng thần Bạch Thiển dẫn theo Cục bột nhỏ đến muộn, nghi hoặc nhìn hai người, nói: “Hai người đang nói chuyện gì vậy?”.
Liên Tống quân cười gượng, nói: “Dạ Hoa đang khổ sở hồi tưởng phong thái của ngươi năm xưa”.
Bạch Thiển thuận tay nâng ly trà lên nhuận họng, lần theo vô số ánh mắt rực lửa trên người Dạ Hoa quân, nhìn xuống đám tiểu tiên cơ phía dưới đài, chậm rãi nói: “Em năm xưa ấy à, thực ra nhỏ hơn chàng bây giờ một chút, tuy nhiên phong tư lại không gây chú ý như chàng bây giờ”.
Cục bột nhỏ lập tức làm ra vẻ già dặn, phụ họa theo: “Haizz, phụ quân quả thực quá gây chú ý, gây chú ý như vậy không tốt, không tốt”.
Liên Tống quân nhướng mày cười nói: “Hai người mười dặm hoa đào, mỗi người năm dặm, ta thấy rất tương xứng, thực ra không ai cần oán trách ai cả”.
Dạ Hoa quân thản nhiên nói: “Vậy mười dặm hoa đào của Thành Ngọc, tam thúc có từng chiếm được nửa dặm?”.
Liên Tống quân cười trừ, nói: “Hôm nay ta đã trêu ai chọc ai vậy, hễ mở miệng ra là chẳng gặp việc gì tốt đẹp…”.
Ánh mặt trời xuyên qua các tầng mây, khiến vạn vật trên núi Đường Đình đều được khoác lên mình một sắc vàng rực rỡ, càng làm nổi bật lên tiên khí nghi ngút của ngọn núi này. Mấy tiếng nhạc khe khẽ vang lên, trên lễ đài mây ngút ngàn bỗng xuất hiện một trận pháp, do mười vị tiên giả cầm kiếm kết thành, pháp trận này là để thử xem thứ binh khí cất giữ hôm nay có đủ tư cách được đặt trên núi thánh hay không.
Hay nói một cách khác, Phượng Cửu cần mang theo thanh kiếm Hợp Hư vừa mới đúc xong vượt qua pháp trận này, nếu qua được mới có thể bước lên các bậc thang kết bằng hoa cỏ rồi đặt kiếm trên thánh đỉnh, nếu không qua được chỉ có thể làm lại, đợi một trăm năm sau lại tiến hành lễ Tàng binh. Khoan chưa nói đến chuyện công sức luyện kiếm trong một trăm năm qua hoàn toàn phí công vô ích, lại còn bị mất mặt, do đó lúc đầu Liên Tống quân mới đoán rằng hôm nay Phượng Cửu nhất đình sẽ rất căng thẳng. Sở dĩ buổi lễ này long trọng như vậy, còn trang trọng hơn cả lễ thành thân của các vị tân quân cũng là bởi vì nó liên quan tới sự tôn nghiêm của tân quân.
Bạch Dịch, phụ thân của Phượng Cửu làm chủ tế trong buổi lễ ngày hôm nay. Phượng Cửu ẩn mình phía sau một đám mây trên không trung, nhìn phụ thân của mình lảm nhảm trên lễ đài, chỉ đợi phụ thân lảm nhảm xong nàng sẽ phi thân xuống dưới, vì nàng đứng ở trên cao, không phải nghe phụ thân lảm nhảm, nhưng bên cạnh lại còn một nô bộc trung nghĩa là Mê Cốc đang lảm nhảm nữa.
Mê Cốc ôm hộp kiếm của nàng, nhìn pháp trận mười người phía sau lưng Bạch Chỉ, trong lòng lo lắng, miệng liên tục nói: “Lát nữa điện hạ cứ bình tĩnh, thực ra nếu điện hạ không qua được pháp trận này cũng không có gì nghiêm trọng, Thanh Khâu chưa từng có người nào ở độ tuổi của điện hạ đã phải thực hiện nghi lễ này, mặc dù là thần tử mà nói ra những lời này có phần không thích hợp lắm, nhưng trong chuyện này Quân Thượng cũng quả thực đã ép điện hạ hơi quá…”.
Lời nói của Mê Cốc lọt vào lỗ tai bên trái của Phượng Cửu lại chui ra bằng lỗ tai bên phải. Thực ra ánh mắt của nàng đang nhìn về phía hai người là gia gia nàng và Đông Hoa Đế Quân trên khán đài, trong lòng bỗng lóe lên một tia linh quang. Nàng ngẫm thấy gia gia của nàng mới là người đứng đầu lớn nhất ở Thanh Khâu, hôn sự giữa nàng, còn cần gì phải lần lượt thuyết phục lão lão và song thân của nàng nữa, gia gia mới là người có thể quyết định ngay mà! Nhưng phải làm thế nào mới có thể thuyết phụ được gia gia đây?
Gia gia của nàng không thích khách sáo, có lẽ cần nói thẳng với người rằng, “Gia gia, con đã tìm được một phu quân chính là Đông Hoa Đế Quân người ngồi phía trên gia gia trong ngày hôm đó, xin gia gia ân chuẩn cho hôn sự của chúng con”. Nhưng nếu nói như vậy, liệu có quá cứng nhắc không nhỉ?
Trước đây cô cô dạy nàng cách thuyết phục người khác, cô cô đã nói như thế nào nhỉ? Ồ, đúng rồi, cô cô nói, muốn thuyết phục một người, trong cuộc chuyện trò tốt nhất là nên lôi kéo một chút quan hệ với người đó trước, nếu có thể gợi nhớ một vài ký ức của người đó càng tốt, điều quan trọng nhất là phải khiến người đó có cảm giác thân thiện, ngoài ra cuối cùng thể hiện một chút tình cảm chân thành với người đó thì càng tốt. Nàng nhớ tới lời dạy đó, cảm thấy được chỉ giáo, liền thầm sửa đổi lại một chút những lời nói có phần gượng ép cứng nhắc ban nãy, lại thầm nhắc lại: “Gia gia, con đã tìm được một phu quân, chính là Đông Hoa Đế Quân người ngồi trên gia gia trong buổi lễ ngày hôm nay đó, nghe nói trước đây khi còn đi học, gia gia và chàng là bạn cùng trường, gia gia còn từng đánh trận dưới trướng của chàng nữa!”. Tốt rồi, đã có mối liên hệ rồi, hồi ức và cảm giác thân thiện cũng có rồi, còn về tình cảm chân thành… “Con và chàng sau này nhất định sẽ hiếu thuận với gia gia, mong gia gia ân chuẩn cho hôn sự của chúng con!”. Ồ, tình cảm chân thành chắc cũng có rồi.
Nàng đang nghĩ tới chỗ quan trọng thì Mê Cốc bên cạnh kéo tay áo nàng: “Điện hạ, đến giờ rồi, đã đến lúc phải vào pháp trận rồi”.
Mê Cốc lại dặn dò nàng: “Không qua được thì chúng ta không qua nữa, cũng không sợ bị người khác chê cười, nhất thiết không được miễn cưỡng cố xông lên đâu nhé!”.
Phượng Cửu chỉ cần bên tai được yên tĩnh, ừm một tiếng. Nhưng nàng thực ra không hề tán đồng với kiến giải của Mê Cốc. Mặc dù nàng học không giỏi những môn Đạo điển, kinh Phật, Thơ từ, Văn chương, nhưng nếu luận về việc vác kiếm đánh lộn, năm nào nàng cũng là người đứng đầu trong số các thần tiên có độ tuổi xấp xỉ với nàng ở Thanh Khâu.
Sự lo lắng này của Mê Cốc thực ra hơi thừa.
Bạch Dịch vừa xuống lễ đài, trong không trung liền vang lên một tiếng nhạc diệu kỳ, pháp trận trên lễ đài lập tức thành hình, phía sau một đám mây trên không trung bỗng xuất hiện đường sáng màu bạc khi kiếm sắc rời khỏi vỏ, chém đôi tầng mây màu vàng, một thiếu nữ toàn thân áo đỏ cầm kiếm đạp gió mà tới, trong nháy mắt đã vào trong pháp trận.
Trên vị trí cao nhất của khán đài, Đế Quân – người nãy giờ buồn chán ngồi nghịch chiếc hộp đựng kẹo hồ ly đã thay đổi tư thế ngồi, hơi ngước đầu lên.
Trong pháp trận, sắc trắng sắc đỏ giao nhau, bóng kiếm ngút trời, trời đất tĩnh lặng, tiếng đao kiếm va vào nhau không ngừng vang lên. Trong vòng khoảng mười chiêu, bóng áo đỏ với thanh kiếm Hợp Hư đã tạo ra được ba thời cơ để vượt trận, nhưng đáng tiếc là mỗi khi tới thời khắc quan trọng, pháp trận vốn chỉ có mười người bỗng lại xuất hiện bóng một trăm người, tạo nên một bức tường chắn kiên cố như thành đồng vách sắt, chặn đứng người đang muốn vượt qua lại.
Đám tiểu thần tiên phía dưới lễ đài, đặc biệt là đám tiểu thần tiên của Thanh Khâu đều toát mồ hôi lo cho tiểu Đế cơ của bọn họ.
Pháp trận này chính là pháp thuật do Bạch Chỉ Đế Quân đích thân dùng một thành thần lực đặt trong núi Đường Đình từ thời đại hồng hoang khi lễ Tàng binh mới được lập ra, khi lễ đài bằng mây lành xuất hiện, pháp thuật này cũng tự động mở ra kết thành một pháp trận khiến người ta khó có thể dự liệu. Phượng Cửu cau mày, ban nãy nàng dùng những chiêu kiếm sắc bén, chiêu sau mạnh hơn chiêu trước, định tấn công nhanh, bởi vì ngay từ chiêu đầu tiên đã phát hiện ra mười vị tiên giả kết trận này thực ra dùng kiếm còn thua kém mình, muốn giải quyết “nhanh” để vượt qua pháp trận, nhưng không ngờ sự tinh diệu của pháp trận này lại không nằm ở chỗ người kết trận dùng kiếm thế nào, mà là mỗi khi tới thời khắc quan trọng, luôn có trăm bóng người bỗng nhiên xuất hiện ngăn cản nàng vượt trận.
Đúng là một thế trận ôn hòa.
Nếu cứ từ từ đánh để kéo dài thời gian thì không được, từ khi cô cô vượt trận trong đại lễ lần trước, mười vị tiên giả kết trận này đã ngủ suốt mười vạn năm chỉ để gây khó khăn cho nàng trong ngày hôm nay, tinh lực của họ đương nhiên mạnh hơn nàng nhiều, xem ra vẫn cần phải tìm ra một biện pháp rồi lấy hết sức tấn công thật mạnh. Pháp thuật mà gia gia tạo nên này, mặc dù mỗi lần sinh ra pháp trận đều không hoàn toàn giống nhau, nhưng trước sau vẫn luôn có mười vị tiên giả kết trận, không có lý gì tới lượt nàng lại bỗng nhiên gọi trăm người tới kết trận, mặc dù gia gia luôn một lòng mong nàng thành tài nhưng cũng không mong đợi đến mức đó, mí mắt nàng khẽ giật, nói như vậy… trăm bóng người đó chỉ có thể là ảo ảnh.
Không hiểu tại sao, nghĩ tới đây nàng lại bất giác phân tâm liếc nhìn về phía vị trí khách quý trên khán đài, vừa hay bắt gặp ánh mắt của chàng, Đế Quân đang ngồi trên vị trí cao nhất, khóe môi nở một nụ cười không rõ ý nghĩa, hai ngón tay chụm lại chỉ vào đuôi mắt. Nàng vừa lơ đễnh một cái, một loạt đường kiếm sắc của các vị tiên giả kết trận đồng lượt lao tới, nàng hít một hơi thật sâu rồi lùi lại vài trượng, trong đầu lập tức hiện lên trận địa cọc băng mà Đế Quân dựng lên cho nàng luyện kiếm trong Tật Phong viện ở Phạn Âm Cốc, lúc đó bên cạnh rừng băng có vài cây hạnh già mờ ảo trong sương khói, khi nàng bịt mắt luyện kiếm, Đế Quân thích nằm dưới gốc cây hạnh uống trà. Đúng rồi, đôi mắt.
Mẫu thân của Phượng Cửu đang ngồi cạnh lão lão của nàng, ánh mắt vô cùng lo lắng: “Cửu Nhi sao lại gặp phải pháp trận xui xẻo này, pháp trận này đến con cũng chưa chắc đã vượt qua được, Cửu Nhi mới bao nhiêu tuổi, có tu vi thâm sâu bao nhiêu chứ, mẫu thân, người xem phải làm thế nào đây, phải làm thế nào bây giờ?”.
Ánh mắt của lão lão Phượng Cửu lại sáng bừng, nói một cách đầy tính toán: “Không qua được mới tốt, ta luôn không đồng ý với kiến giải của công công (cha chồng) của con, con gái thì phải nuôi dưỡng như châu như ngọc, gả cho một phu quân tốt rồi làm một người vợ tốt, đang yên đang lành lại kế thừa quân vị tổ nghiệp gì đó, tất cả đều là bởi vì khi Cửu Nhi còn nhỏ các con đã bỏ nó cho công mỗ (cha mẹ chồng) nuôi dưỡng một thời gian, nếu năm xưa giao Cửu Nhi cho ta nuôi, chắc chắn sẽ không như vậy. Nam tử thời nay có ai thích một cô gái múa kiếm đánh quyền chứ, nói ngay như tiểu cô (em chồng) Bạch Thiển của con đó, chẳng phải mấy năm gần đây không còn đánh đấm gì nữa mới gả được cho một chỗ tốt hay sao? Hôm nay nếu Cửu Nhi qua được pháp trận này, đám thanh niên tuấn kiệt trong bát hoang này còn ai dám lấy nó nữa chứ?”.
Khóe mắt mẫu thân của Phượng Cửu bỗng chảy ra hai giọt nước mắt lo lắng, nói: “Nghe phu quân nói năm xưa công công lập nên pháp trận này, nguyên nhân quan trọng nhất chính là muốn khảo hạch tân quân, động viên họ sau khi kế vị phải nỗ lực phấn đấu, nếu hôm nay Phượng Cửu không qua được, công công nhất định sẽ cho rằng nó chưa đủ tiến bộ, bất luận thế nào cũng sẽ phải phạt nó, nhưng theo ý kiến của mẫu thân, nếu Phượng Cửu qua được pháp trận này lại không gã được cho một đám tốt, đây mới là tiến thoái lưỡng nan, phải làm như thế nào mới tốt đây, phải làm như thế nào mới tốt đây…”.
Lão lão của Phượng Cửu khoát tay, nói một cách dứt khoát: “Gia gia nó nếu muốn phạt nó, các con khuyên nhủ ông ấy là được rồi, việc đó lẽ nào còn quan trọng hơn cả việc Phượng Cửu được gả cho một đám tốt hay sao?”. Bà quay đầu lại nhìn về phía lễ đài bằng mây lành, giọng điệu có phần vui vẻ, nói: “May mà Cửu Nhi hôm nay cũng xuất sắc, đã thể hiện sự yếu đuối một cách không tồi, con xem mấy chiêu tránh né vừa rồi nó đã tránh né một cách khiến người ta thương mến làm sao, nhìn tình hình này, bại trận là…”, hai chữ chắc chắn còn đang nằm nguyên trong miệng của lão lão nàng, hồi lâu, lão lão lão nàng sững sờ chỉ tay vào lễ đài, toàn thân run rẩy như một chiếc lá khô trong gió mùa thu: “Nó… sao nó đã vượt qua rồi!”.
Phượng Cửu đã phá vỡ thế trận này như thế nào, lão lão của nàng vì còn bận dạy dỗ mẫu thân nàng nên đã không nhìn thấy, chư vị tiên giả trên khán đài và đám tiểu thần tiên bên dưới khán đài lại đều nhìn thấy rất rõ.
Vừa rồi thấy vị tiểu Đế cơ này bị dồn tới sát mép vân đài, trái tim của bọn họ đều đã nhẩy lên tận cổ họng, lại thấy nàng bỗng nhiên thu kiếm về chém đứt một bên tay áo, đưa tay ra đón lấy mảnh vải bịt mắt của mình lại. Khi đám đông còn đang nghi hoặc, nàng đã không chút do dự cầm kiếm lao vào trong pháp trận, khi chiến đấu thân thủ lại nhanh nhẹn khéo léo hơn cả khi chưa bịt mắt lại, chỉ trong vòng ba chiêu đã lại tạo được một thời cơ phá trận, đến khi trong trận bỗng nhiên lại xuất hiện hình bóng của một trăm người, nàng cầm kiếm hơi dịch chuyển về phía bên phải, đám đông còn chưa kịp phản ứng lại, nàng đã phá vỡ ảo ảnh, đứng ở phía bên kia của pháp trận, pháp trận đã bị phá.
Tiểu Đế cơ trẻ tuổi chống kiếm đứng thẳng, giật dải lụa đỏ che mắt xuống, ngẩng đầu nhìn về phía khán đài trên cao, khuôn mặt không son phấn ửng hồng vì vừa giao chiến, ánh mắt long lanh, rực sáng chớp mắt nhìn về một nơi nào đó rồi nhanh chóng thu về.
Ngày bình thường thấy nàng có vẻ không nghiêm túc, gặp phải pháp trận rắc rối như thế này, lại diễn ra trước mắt của chư vị thần tiên khắp bát hoang, nhưng nàng không hề tỏ vẻ lo sợ, tiến thoái ung dung, cử chỉ đĩnh đạc, trong sự yên lặng trên đài dưới đài, vững vàng trấn áp toàn bộ nơi đây, còn có thể điềm tĩnh thản nhiên thu kiếm vào trong bao, khe khẽ thở phào một hơi: “Cuối cùng có thể khoe hộp kiếm làm năm nay rồi”.
Trong lễ Tàng binh, đến phần cuối cùng khi bước lên cả trăm bậc thang được kết bằng hoa cỏ đi lên thánh đỉnh giấu kiếm mới dùng đến hộp đựng kiếm, nếu ngay cả pháp trận giữ kiếm cũng không qua được, hộp kiếm quả thực không có cơ hội xuất hiện nữa.
Phượng Cửu đưa tay lên khẽ vẫy một cái, một tia kim quang lập tức lóe lên trong không trung, dừng lại ngay trước mặt nàng, trong luồng kim quang đó thấp thoáng một hộp kiếm dài hẹp, kiếm Hợp Hư bỗng phát ra một tiếng kêu, hộp kiếm lập tức mở ra, chỉ trong nháy mắt đã thu gọn thanh kiếm dài ba tấc vào trong đó.
Chủ tế Bạch Dịch vái lạy thánh đỉnh: “Xin đem Hợp Hư, đặt ở Đường Đình, võ đức mãi mãi vững bền, bảo vệ Đông Hoang của chúng ta”.
Thánh đỉnh để giữ thanh kiếm trước lễ đài bỗng nhiên mở ra theo lời tụng, Đế cơ áo đỏ hai tay giơ cao, sắc mặt nghiêm trang, nâng cao hộp kiếm lên ngang trán, bước từng bước lên cầu thang cỏ. Chư tiên Đông Hoang đều đồng loạt quỳ xuống vái lạy, lời chúc tụng làm chấn động cả trời xanh: “Thiếu quân đại đức, tạo nên thần binh, xin đem Hợp Hư, đặt ở Đường Đình, võ đức mãi mãi vững bền, bảo trợ Đông Hoang của chúng ta”.
Lời tụng vang vọng khắp núi rừng, mãi không ngừng nghỉ.
03.
Lần này Liên Tống quân tới núi Đường Đình, một là đi cùng với Thành Ngọc Nguyên Quân – người tới đây để xem trò góp vui, hai là bản thân chàng cũng tới xem trò vui cho đỡ buồn.
Bởi vì có mục đích rõ ràng, hôm nay Liên Tống quân quả nhiên đã hóng được không ít thứ hay ho.
Ví dụ như ban nãy, khi chàng chuyển quạt sang tay kia, liền nhìn thấy một động tác nhỏ của Tiểu hồ ly và Đông Hoa trong khoảng cách núi cao sông dài xa vời vợi. Người khác đương nhiên không chú ý, nhưng Liên Tống quân là người vô cùng sáng mắt sáng lòng, đương nhiên đã nhìn thấy Phượng Cửu sau khi phá trận bèn đưa mắt nhìn lên khán đài, còn Đế Quân – người ngồi ở vị trí cao nhất trên khán đài lại chuyển tay trái lên chống má, điềm nhiên dùng khẩu hình nói với nàng, khẩu hình đó rõ ràng là “Đánh hay lắm”, khóe môi của Tiểu hồ ly liền nở một nụ cười đắc ý, lại tốn rất nhiều công sức để thu nụ cười đó lại, cẩn trọng thu ánh mắt lại nhìn cây kiếm Hợp Hư, đợi đến khi phụ thân của nàng ấy đọc lời chúc tụng, còn giả vờ như vô ý đưa mắt liếc nhìn bốn xung quanh xem có ai chú ý tới họ không.
Việc đầu mày cuối mắt với người mình yêu giữa chốn đông người, công tử hào hoa Liên Tống quân nghĩ lại, phát hiện bản thân mình lại chưa từng thực hiện, tức thì cảm thấy rõ ràng đã uổng phí cho danh hiệu thánh tình của mình, bất giác đưa mắt nhìn về phía các tiểu tiên trên thiên đình ở rìa khán đài, tìm hình bóng của Thành Ngọc Nguyên Quân trong số đó. Thành Ngọc Nguyên Quân từ khi ngồi yên trên chiếc ghế ở rìa khán đài đó, luôn bàn luận với Ti Mệnh Tinh Quân về việc rốt cuộc có bao nhiêu cách ăn quả hồ đào, thảo luận một cách vô cùng hứng thú, không hề quay đầu nhìn chàng dù chỉ một cái.
Liên Tống quân ngây người nhìn hình bóng đó một hồi lâu, có chút thương cảm, có chút rầu rĩ.
Liên Tống quân đang trong lúc rầu rĩ, ngẩng đầu liếc nhìn thấy một đám mây đen lớn chậm rãi trôi đến dưới ánh mặt trời. Đợi đến khi nhận ra ai là người nấp sau đám mây đen đó, chàng lập tức không còn cảm thấy rầu rĩ nữa. Trong đại lễ ngày hôm nay mà lại gặp người tới gây gổ, Liên Tống quân phe phẩy cây quạt ngồi tựa ghế, cảm thấy có chút thú vị.
Phượng Cửu lúc bấy giờ đang đưa cây kiếm Hợp Hư vào trong thánh đỉnh. Khi còn chưa buông tay, nhìn đám mây đen càng ngày càng tiến lại gần, động tác của nàng bất giác chậm lại. Chính vào lúc động tác chậm lại đó, liền nghe thấy một tiếng cười vọng ra từ phía sau đám mây đen: “Quả nhiên là một ngày hội lớn mà chư vị thần tiên cũng thưởng thức, tuy nhiên lễ Tàng binh này của Phượng Cửu điện hạ, theo ngu ý của Nhiếp mỗ, dường như vẫn còn thiếu một bước”. Mây mù tản ra, một trang nam tử khoác áo khoác lông chồn, trên tay cầm một chiếc lò sưởi, được một đoàn thị tùng vây quanh, mỉm cười lơ lửng trên đám mây.
Trên thế gian này chỉ có duy nhất một người khiến Phượng Cửu thoạt nhìn đã không kìm được mà cảm thấy nóng bức thay cho hắn ta, người đó chính là Huyền chi Ma quân Nhiếp Sơ Dần. Vào thời khắc này, xuất hiện tại nơi đây, nói những câu như vậy, Nhiếp Sơ Dần rõ ràng là tới để quấy rối. Có điều tất cả các bậc trưởng bối trong nhà họ Bạch đều có mặt tại đây, Phượng Cửu tự cảm thấy một tiểu bối như nàng không cần phải cố ra mặt vào lúc này, bèn thu hộp kiếm về ngước mắt lên nhìn phụ thân mình là Bạch Dịch.
Trong số các bậc trưởng bối ở Thanh Khâu, phụ thân nàng được coi là người biết nói năng khách sáo nhất, tiếng nhạc trên lễ đài dừng lại, khuôn mặt của Bạch Dịch ôn hòa như gió xuân: “Bản quân thường nghe nói Ma tộc luôn phóng khoáng, không câu nệ lễ giáo phép tắc, nhưng không ngờ Huyền chi Ma quân lại rất trọng lễ nghĩa, hôm nay Thanh Khâu chúng ta cử hành một nghi lễ cổ trên địa bàn của chúng ta, lại làm phiền Huyền chi Ma quân đại giá tới nhắc nhở, thật là hổ thẹn, hổ thẹn”.
Ánh mắt của Nhiếp Sơ Dần khẽ động, nụ cười vẫn hiện nguyên trên khuôn mặt, đáp: “Thượng thần Bạch Dịch nói sai rồi, hai chữ ‘nhắc nhở’ quả thực Nhiếp mỗ không dám nhận, có điều Nhiếp mỗ đã từng được chứng kiến hai đại lễ Tàng binh thời hồng hoang ở Thanh Khâu, trong lòng vô cùng ngưỡng mộ mà thôi. Còn nhớ trước đây, sau trận thử kiếm đều có một trận đấu kiếm, cho phép những người cùng thế hệ có thể thách đấu với tân quân, việc này rất khiến người ta mong đợi, nhưng tại sao hôm nay tới lượt điện hạ Phượng Cửu làm lễ Tàng binh, sau khi thử kiếm lại tiến hành tàng kiếm luôn như vậy chứ?”.
Nhiếp Sơ Dần rốt cuộc muốn gì, chư vị thần tiên đến xem đại lễ người không hay biết vẫn không hay biết, người hiểu rõ cũng đã hiểu rõ rồi.
Trước đây trong lễ Tàng binh ở Thanh Khâu quả thực có vòng đấu kiếm với tân quân, các tiên giả cùng thế hệ đều có thể thách đấu với tân quân, nếu người thách đấu bị thua, sẽ không có vấn đề gì, nhưng nếu thắng được tân quân sẽ có được một lời hứa từ tân quân. Tương truyền Bạch Chỉ Đế Quân lập ra hai vòng thử kiếm và đấu kiếm, vòng đầu tiên là để khích lệ chí tiến thủ của tân quân sau khi kế vị, vòng sau càng là vì khích lệ con cháu nhà họ Bạch từ nhỏ đã đứng đầu trong số chúng bạn cùng trang lứa. Bởi vì nếu không thể đứng đầu thì phải đưa ra một lời hứa với cương vị tân quân, cái giá phải trả là quá lớn, vì thế đám con cháu nhà họ Bạch mặc dù ai nấy đều được dạy dỗ theo kiểu tự do phát triển mà trưởng thành, nhưng cuối cùng đều lần lượt thành tài. Bốn người con trai của Bạch Dịch Đế Quân đều từng bị giày vò như vậy, khi tới lượt cô con gái út Bạch Thiển, lại bởi vì Đế Hậu không nỡ nhẫn tâm, thương nàng là phận nữ nhi, ngày nào cũng tới khóc lóc trước mặt Bạch Chỉ Đế Quân, khóc liền suốt hai tháng trời liền gợi được chút lòng trắc ẩn của Bạch Chỉ Đế Quân, ngài loại bỏ vòng đấu kiếm trong lễ Tàng binh, đồng thời mặc nhận rằng sau này nếu Thanh Khâu lại có nữ quân, lễ Tàng binh của nữ quân sẽ được bỏ vòng đấu kiếm so với lễ Tàng binh của nam tử.
Thượng thần Chiết Nhan hơi nghiêng người hỏi Bạch Chỉ Đế Quân ngồi ngay bên cạnh: “Lễ Tàng binh là đại lễ truyền thống của tân quân sau khi kế vị, nếu có thay đổi về mặt phép tắc, bắt buộc phải sửa đổi lại trong lễ sách của Thanh Khâu mới có thể được coi là chính thức trong bát hoang, không phải là ngài đã quên không sửa đấy chứ?”.
Bạch Chỉ Đế Quân ôm đầu nói: “Thanh Khâu không coi trọng lễ tiết lắm, ngài cũng biết mà, việc này quả thực là ta đã quên mất”.
Thượng thần Chiết Nhan lại nói: “Vậy… người cùng thế hệ có thể thách đấu với tân quân, ngài có phải cũng quên mất không hạn chế rằng chỉ có người trong thần tộc của Thanh Khâu mới được thách đấu đúng không?”.
Bạch Chỉ Đế Quân hàm hồ đáp: “Mấy buổi đại lễ trước đều diễn ra từ thời thượng cổ hồng hoang, lúc đó thế phong thuần phác, Ma tộc đâu có tâm kế tới lợi dụng ta như vậy, ta sơ ý ở điểm này cũng không có gì lạ”.
Thượng thần Chiết Nhan thở dài một tiếng, nói: “Vì chữ quên và chữ sơ ý này của ngài, chưa biết chừng hôm nay lại khiến Nhiếp Sơ Dần có được món lợi lớn, hơn nữa, về tình về lý thì ngài còn không nói gì được hắn ta”.
Bạch Chỉ Đế Quân cau mày nói: “Hắn ta lớn hơn Cửu nha đầu tới bảy, tám vạn tuổi, nếu xuống so tài với Cửu nha đầu chẳng phải sẽ gây trò cười là bắt nạt trẻ con hay sao, ta nghĩ hắn ta không mặt dày như vậy đâu. Trong số đám tùy tùng mà hắn mang theo, ta thấy chưa chắc đã có ai đánh thắng nổi Cửu nha đầu”.
Thượng thần Chiết Nhan không tiếp lời, hai người đều nâng ly trà lên nhuận họng, ánh mắt lại hướng về đám mây trên không trung, vừa hay nghe thấy Nhiếp Sơ Dần nói: “Nếu trong lễ sách của Thanh Khâu chưa từng có sự thay đổi về phép tắc của lễ Tàng binh, hôm nay sẽ phải có một trận đấu kiếm, Nhiếp mỗ đã sớm được nghe danh điện hạ Phượng Cửu kiếm thuật tinh thông điêu luyện, Nhiếp mỗ cũng là người say mê kiếm thuật, không biết có thể cọ xát học hỏi với điện hạ vài chiêu?”.
Khuôn mặt vừa rồi còn ôn hòa như gió xuân của Bạch Dịch trong chốc lát đã phủ đầy sương thu: “Cho dù cần có một trận đấu kiếm, Ma quân và tiểu nữ cũng không được coi là người cùng trang lứa, sao có thể nói tới chuyện học hỏi, Ma quân xin hãy tự trọng”.
Thấy Bạch Dịch có vẻ bị ép tới mức tức giận, Nhiếp Sơ Dần cười rất chân thành: “Điện hạ Phượng Cửu là thế hệ cháu của Thanh Khâu, Nhiếp mỗ cũng là ma quân đời thứ ba, xét từ điều này, Nhiếp mỗ và điện hạ Phượng Cửu thực ra đúng là người cùng thế hệ. Nhiếp mỗ chẳng qua chỉ say mê kiếm thuật mà thôi, thành tâm muốn được so tài với Phượng Cửu, mặc dù là tỷ thí, nhưng Nhiếp mỗ với tư cách là hậu duệ của Ma tộc, tuyệt đối không phải là người không thể nhận thua, lẽ nào điện hạ Phượng Cửu thân là hậu duệ của Thần tộc, lại là một người không thể chịu thua sao?”.
Tính từ đời Khánh Khương, Nhiếp Sơ Dần quả nhiên là Ma quân đời thứ ba, nhưng vương vị Ma quân từ trước đến nay đều dựa vào nắm đấm chứ không dựa vào huyết thống. Xét từ góc độ đó, nếu nói hắn ta và Phượng Cửu là người cùng thời quả thực là khiên cưỡng, nhưng cho dù là khiên cưỡng, nói rõ ra như vậy rốt cuộc cũng rơi vào thế yếu. Hơn nữa, vốn chỉ là một cuộc tỷ thí trong dòng tộc, hắn ta nói như vậy lại trở thành cuộc so tài giữa hậu duệ của hai tộc, hai tộc Ma, Thần mặc dù mấy năm gần đây chung sống hòa thuận, nhưng chung quy vẫn co hiềm khích từ xưa, Nhiếp Sơ Dần thách đấu như vậy, tứ hải bát hoang nhìn vào, Phượng Cửu đấu cũng phải đấu, không đấu cũng phải đấu.
Trong số chư vị thần tiên đến xem đại lễ, có người thật sự lo lắng, cũng có người muốn xem trò vui. Nhóm người thứ nhất do Thương Di thần quân – người vẫn thầm ngưỡng mộ Phượng Cửu cho tới tận hôm nay đứng đầu, nhóm thứ hai do Tri Hạc công chúa – nghĩa muội của Đông Hoa Đế Quân đứng đầu.
Thượng thần Chiết Nhan liếc mắt nhìn cục diện trước mặt, bất đắc dĩ liếc về phía Bạch Chỉ Đế Quân, nói: “Ngài xem, ngài lại đoán nhầm rồi, từ xưa đến nay, người làm nên nghiệp lớn đều không câu nệ đến thể diện, thể diện quả thực là thứ có thể có có thể không, Nhiếp Sơ Dần đã quyết tâm không cần thể diện, quyết chí ỷ mạnh hiếp yếu đánh một trận với Cửu nha đầu rồi, xem ra là muốn có một lời hứa của Thanh Khâu, để khi hắn ta thành đại sự sẽ dùng vào lúc quan trọng. Đáng tiếc ngài lại luôn là một người thích thể diện, cái thiệt này chỉ có thể nuốt trôi vào trong bụng, để Cửu nha đầu lên giao đấu hình thức với hắn ta vài ba chiêu vậy”.
Bạch Chỉ Đế Quân đặt ly trà lên bàn, nói: “Hãy để Cửu nha đầu giao đấu với hắn ta vài ba chiêu rồi nói”, vừa nói vừa gật đầu với Bạch Dịch.
Bạch Dịch hiểu được thái độ của phụ thân, sa sầm nét mặt gọi Phượng Cửu bước xuống từ đỉnh thang cỏ trong nụ cười càng lúc càng chân thành của Nhiếp Sơ Dần.
So với vẻ bi phẫn vì phải chịu nỗi ấm ức thầm lặng mà không thể thổ lộ của phụ thân, Phượng Cửu lại tỏ ra vô cùng ung dung. Dưới đài, ngoài một số tiểu thần tiên không hiểu chuyện đang nhìn nàng một cách đầy chờ đợi ra, những thần tiên hơi hiểu chuyện một chút đều biết nàng tuyệt đối không thể đánh lại được Nhiếp Sơ Dần, nàng không nghĩ nhất định phải đánh thắng hắn ta để Thần tộc được nở mày nở mặt, vì vậy trong lòng nàng rất điềm tĩnh.
Phượng Cửu điềm tĩnh mở hộp kiếm, điềm tĩnh lấy thanh kiếm Hợp Hư ra, điềm tĩnh chụm tay mời Nhiếp Sơ Dần người đang cầm chiếc lò sưởi và thanh kiếm trong cùng một tay, miệng nói: “Xin được thỉnh giáo”. Đối thủ như thế này không phải lúc nào cũng gặp được, mặc dù chắc chắn không thể đánh lại hắn ta, nổ lực quyết đấu một trận chắc chắn sẽ có thu hoạch.
Trên lễ đài nhất thời bóng kiếm bay lượn, đường kiếm dài di chuyển thanh thoát như bóng chim bay, uyển chuyển như rồng bay phượng múa, khi hai thanh kiếm chạm nhau thi thoảng còn phát ra hoa lửa. Sau mười chiêu, mũi kiếm sắt của Nhiếp Sơ Dần đã kề thẳng vào cổ họng của Phượng Cửu, một giọt mồ hôi lăn từ trên trán xuống gò má của Phượng Cửu. Chung quy là thực lực quá đỗi chêch lệch, Nhiếp Sơ Dần thu kiếm vào trong bao, ra vẻ tiếc nuối, nói: “Là do Nhiếp mỗ đã đánh giá quá cao kiếm thuật của điện hạ, kiếm của Thần tộc, chẳng qua cũng chỉ có vậy”.
Dưới lễ đài, đôi lông mày lưỡi mác của Bạch Dịch đã rướn cao, nghiến răng nói với Bạch Chỉ: “Để hắn ta lợi dụng rồi còn sỉ nhục Thanh Khâu của chúng ta như vậy sao?”.
Trên lễ đài, Phượng Cửu lại khiêm tốn nói: “Ma quân mặc dù lớn hơn Phượng Cửu tám chín vạn tuổi, tuổi gấp ba lần Phượng Cửu, nhưng dù sao cũng là người cùng thời, lại trong vòng mười chiêu đã thắng Phượng Cửu, Phượng Cửu thật sự tâm phục khẩu phục”.
Nụ cười nơi khóe mắt của Nhiếp Sơ Dần lạnh đi đôi chút: “Điện hạ ăn nói khéo lắm, nhưng Nhiếp mỗ đã thắng trận này, thắng làm vua, thua làm giặc, điện hạ là người giữ chữ tín, chắc sẽ không chối dành cho Nhiếp mỗ một lời…”, từ “hứa” còn chưa tiếp đất, từ trên khán đài bỗng vang lên một tiếng nói: “Đợi đã”.
Ánh mắt của đám đông hướng về nơi phát ra tiếng nói, người cất giọng nói là một vị tiên giả áo lam có một khuôn mặt đầy hòa khí, đó là Hàn Sơn Chân Nhân dưới trướng Nữ Oa.
Hàn Sơn Chân Nhân dưới trướng Nữ Oa nương nương mấy vạn năm, phẩm cấp mặc dù không được coi là cao, nhưng vì cai quản sổ sách hôn sự của Thần tộc, các vị tiên giả đồng liêu gặp ngài đều cung kính chắp tay chào, tránh hai chữ Hàn Sơn, khách khí gọi ngài là “Chân Nhân”. Khi Thần tộc thành hôn cùng bái lạy trời đất, tờ sớ cúng tế trong hôn lễ sẽ được đốt cho vị Chân Nhân này, phiền ngài ghi chép trong sổ sách mới được coi là đã chính thức thành hôn. Xét về lý mà nói, vị Chân Nhân này chẳng có liên quan gì tới buổi lễ Tàng binh ngày hôm nay, Hàn Sơn Chân Nhân không chút liên quan lúc này đang đứng trong góc khuất nhất ở rìa bên phải của khán đài, chắp tay về phía lễ đài, nói: “Tiểu tiên mặc dù hiểu biết nông cạn, nhưng cũng biết được vòng đấu kiếm trong lễ Tàng binh của Thanh Khâu là vòng phu thê tân quân cùng tiến thoái, Ma quân mặc dù đã đánh bại được tân quân Phượng Cửu điện hạ, nhưng vẫn còn chưa thắng vương phu của tân quân, muốn có một lời hứa của Thanh Khâu từ điện hạ Phượng Cửu, hình như là vẫn còn hơi sớm thì phải”.
Sau một khoảng yên lặng, phía dưới khán đài lại vang lên triếng rì rầm huyên náo. Bạch Chỉ Đế Quân đặt tay trên bàn trà, thượng thần Chiết Nhan vô cùng kinh ngạc, Phục Mịch tiên mẫu há hốc miệng, thượng thần Bạch Dịch suýt ngã nhào. Thượng thần Bạch Thiển hỏi Dạ Hoa trong vô thức: “Nó được gả rồi ư? Gả cho ai? Gả từ khi nào vậy?”. Dạ Hoa quân chu đáo nói: “Hàn Sơn Chân Nhân đã nói, chắc không sai”. Nói xong liền nghi hoặc nhìn sang phía Liên tam điện hạ ngồi ngay bên cạnh, Liên tam điện hạ giả bộ chính nhân quân tử, ừ hữ một tiếng: “Ta không phải là người hay đưa chuyện”.
Phượng Cửu nghển cổ nhìn về phía vị trí cao nhất trên lễ đài, chẳng thấy bóng dáng của vị thần quân áo tím tóc trắng đâu cả. Nhiếp Sơ Dần nhìn về phía Hàn Sơn Chân Nhân người vừa phá rối việc của mình, yên lặng trong giây lát, lạnh lùng cười, nói: “Nhiếp mỗ lại chưa từng nghe nói điện hạ Phượng Cửu còn có một vị vương phu, nếu đã có rồi, Nhiếp mỗ cũng chưa chắc đã không đánh thắng được ngài ấy, đó là vị nào, xin mời lên đài”. Phượng Cửu nhủ thầm, ta cảm thấy ngươi thật sự không thể đánh lại được chàng.
Chư vị thần tiên đồng loạt dán mắt nhìn vào không trung, chờ đợi vị vương phu của tân quân mà Hàn Sơn Chân Nhân nói từ trên trời rơi xuống, nhưng chính vào lúc đó, lại thấy một vị thần quân áo tím thong dong bước lên lễ đài từ phía bên phải, hờ hững chỉnh tay áo: “Có thể bắt đầu được rồi ư? Ta vừa ra ngoài mài kiếm”. Mái tóc dài màu trắng, dải đai trên trán màu lam tối, dung mạo tuấn mỹ đoan nghiêm, khi cầm kinh Phật thì mang vẻ đoan nghiêm tĩnh lặng vượt trên cõi hồng trần Tam Thanh, khi cầm kiếm lại sắc bén như một con gió xoáy mang sức hủy diệt to lớn. Đây chính là Đông Hoa Đế Quân người ngồi trên ngôi vị cao nhất trên khán đài ban nãy, người từng là bá chủ của trời đất.
Nhiếp Sơ Dần sững người lại, dưới khán đài trở nên vô cùng yên lặng, chỉ trong chốc lát chúng tiên đã nhất loạt quỳ xuống, chư vị chân hoàng thượng tiên có phẩm cấp cao ngồi trên khán đài đều nhất loạt đứng dậy, Đế Quân đang đứng, chư thần đâu dám ngồi. Phượng Cửu nhớ mang máng rằng ở trong Phạn Âm Cốc cũng từng có cảnh này, người này vừa xuất hiện trong lũng Thanh Mai, tất cả chư thần đều quỳ xuống. Phượng Cửu cuối cùng đã có phần hiểu ra tại sao Đế Quân không thích ra ngoài, đi đến đâu ở đó đều quỳ rạp, chỉ nhìn thôi cũng đã thấy mệt rồi.
Mao thiềm trường tảo tĩnh vô đài, hoa mộc thành huề thủ tự tài[1]. Đế Quân liếc nhìn các vị thần tiên đang quỳ nghiêm ngắn dưới lễ đài, có cảm giác như đang nhìn những cụm cây non mà chàng trồng ở Nhất Thập Tam Thiên, chàng khẽ đưa tay miễn lễ cho chư vị thần tiên, rồi quay sang an ủi Phượng Cửu ở bên cạnh: “Sớm đã biết rằng nàng sẽ thua, không cần phải cảm thấy mất mặt ta”, sau đó đưa cho nàng một chiếc khăn: “Chống đỡ được bao nhiêu chiêu?”.
[1] Hai câu thơ trích trong bài thơ Viết trên vách Hồ Dương tiên sinh của nhà thơ thời Tống Vương An Thạch, có nghĩa là: Sân vườn thường xuyên được quét dọn vô cùng sạch sẽ, đến một chút rêu cũng không có. Cây cối hoa cỏ sắp thành luống thành hàng, đều do chủ nhân tự tay vun trồng.
Phượng Cửu vừa cầm khăn lau mồ hôi vừa ngập ngừng nói: “Mười chiêu”.
Đông Hoa gật gật đầu: “Cũng tạm được”, lại nhìn về phía Nhiếp Sơ Dần, nói: “Ngươi cảm thấy có thể đỡ được bao nhiêu chiêu của bản quân?”.
Huyền chi Ma quân Nhiếp Sơ Dần là một người có ước mơ, từ sau khi Ma tôn Thiếu Quân tan thành tro bụi, Ma tộc được chia thành bảy phần, do bảy Ma quân cùng cai trị, Nhiếp Sơ Dần từ khi lên ngôi Huyền chi Ma quân, luôn một lòng muốn thống nhất Ma tộc, đứng trên các Ma quân khác rồi sau đó được xưng tụng thành Ma tôn. Muốn thực hiện được giấc mơ của mình, có một cách hay là liên hôn với Thần tộc, nhưng đáng hận là những thượng thần có thể làm lay chuyển cục diện của thiên hạ trong Thần tộc đều là nam tử, mà hắn lại là cô nhi, không có một muội muội ruột thịt giống như Hú Dương quân. Hắn từng lùi lại một bước để suy nghĩ, nếu trong số các thượng thần này có vị nào tình cờ là đoạn tụ, vì bá nghiệp hắn chịu thiệt một chút tự dâng hiến bản thân mình cũng có gì là không được chứ, kết quả vẫn không được. Hắn lại lùi lại một bước suy nghĩ, nếu đã không kết giao được với bọn họ, vậy tốt nhất cũng không nên đắc tội, nếu nhất định phải đắc tội, vậy nhất định phải kiếm chác được một món lợi lớn từ bọn họ.
Hôm nay hắn tới đây, thực ra đã suy tính rất kỹ lưỡng, hắn biết rõ hành động này chắc chắn sẽ đắc tội với nhà họ Bạch ở Thanh Khâu, nhưng chẳng phải là sẽ có một lới hứa từ bọn họ hay sao, cách đắc tội này, cũng được coi là đắc tội một cách rất xứng đáng. Nhưng hắn chưa từng muốn đắc tội với Đông Hoa Đế Quân. Nhưng việc tới nước này, cũng đành phải đắc tội rồi, nếu đã đắc tội với nhà họ Bạch lại đắc tội với Đế Quân, thì càng phải có được lời hứa đó của nhà họ Bạch.
Hắn chắc chắn không phải là đối thủ của Đế Quân, không thể giao chiến với Đế Quân được.
Nhiếp Sơ Dần nở một nụ cười, nụ cười này lại hết sức miễn cưỡng: “Đế Quân quá xem trọng Nhiếp mỗ rồi, vòng đấu kiếm này vốn dĩ chỉ là cuộc học hỏi cọ xát giữa những người cùng trang lứa, Nhiếp mỗ và điện hạ Phượng Cửu còn có thể coi là người cùng lứa, nhưng so với Đế Quân thì còn cách cả một thời hồng hoang, Nhiếp mỗ đâu thể là đối thủ của Đế Quân được. Vòng này mặc dù nói rằng thách đấu với Phượng Cửu điện hạ chính là thách đấu với Đế Quân, nhưng Đế Quân đức cao vọng trọng, dù gì cũng không cùng trang lứa với ta, nếu tỷ kiếm với Nhiếp mỗ, e rằng sẽ vi phạm quy tắc trong lễ sách”.
Thượng thần Bạch Thiển đã không còn vẻ kinh ngạc ban nãy, cau mày nói với Dạ Hoa và Liên Tống: “Tại sao hắn nên so kiếm với Phượng Cửu, là lý lẽ của hắn, tại sao Đông Hoa không nên so kiếm với hắn, cũng là lý lẽ của hắn, con người này miệng lưỡi quả thật lợi hại, lý lẽ đã bị hắn nắm gọn rồi. Lần này nếu Đông Hoa tùy tiện ra tay, quả thật có vẻ ức hiếp vãn bối”. Nói xong thở dài thườn thượt, thoáng có chút lo lắng.
Liên Tống quân gõ gõ cây quạt trong tay, uể oải cười nói: “Ta lại cảm thấy Nhiếp Sơ Dần đã đánh giá cao da mặt của Đông Hoa rồi”.
Mặc dù dưới lễ đài có nhiều lời bàn luận, trên lễ đài lúc này, Đế Quân lại rất ung dung, rất điềm tĩnh, trong vẻ ung dung điềm tĩnh đó lại toát lên vài phần khó hiểu, trầm ngâm tiếp lời Nhiếp Sơ Dần: “Ngươi nói… bản quân và ngươi không cùng trang lứa,” cau mày nói: “Tại sao bản quân và ngươi lại không cùng trang lứa?”.
Nhiếp Sơ Dần sững người lại. Chư vị thần tiên phía dưới cũng ngây người.
Đế Quân nhìn Nhiếp Sơ Dần một cái, lại nhìn Phượng Cửu đang đứng bên cạnh mình, chậm rãi nói: “Nàng là Đế Hậu của bản quân, đương nhiên là người cùng trang lứa với bản quân, ban nãy ngươi nói ngươi và nàng là người cùng trang lứa, vậy ngươi và bản quân đương nhiên là người cùng trang lứa rồi, bản quân đấu kiếm với ngươi, có thể thấy đó quả thực là cuộc học hỏi cọ xát giữa những người cùng trang lứa, việc này vi phạm vào quy tắc nào trong lễ sách Thanh Khâu chứ?”.
Thần sắc của Nhiếp Sơ Dần trở nên gượng gạo: “Việc này…”.
Đế Quân thong thả nhấc nhấc thanh kiếm trong tay nói: “Nghe nói ngươi say mê kiếm thuật, vừa hay bản quân cũng say mê kiếm thuật, có thể thấy chúng ta có duyên, bắt đầu đi”.
Chư vị thần tiên đều ngớ người, thượng thần Bạch Thiển phì cả ngụm trà xuống đất, Liên Tống quân vịn tay vào thành ghế ngồi cho vững một chút, chìa tay về phía Bạch Thiển, nói: “Thấy chưa, vừa rồi ta đã nói gì nhỉ, thứ lý lẽ vớ vẩn đó của Nhiếp Sơ Dần hoàn toàn không dùng được với Đông Hoa đâu, đối với Đế Quân, da mặt luôn là vật ngoài thân”.