Ba con vật kia có thể phóng rắm thúi, con chạy con đuổi, con chạy sau cùng đột nhiên phóng một cái rắm thúi to, Thập Tam không kịp phanh, đầu húc thẳng vào. Nhưng Thập Tam rất thông minh, bị phóng trúng mấy lần thì không đuổi theo chúng nữa.
Tìm sơn động khá dễ, chỗ nào có núi cũng đều có sơn động, thường nằm ở chân núi phía nam.Bây giờ đang là mùa đông, khu vực núi Thần Nông đầy lá rụng, chỉ cần tìm những chỗ không bị lá cây che lấp là thấy. Đến giữa trưa ngày thứ hai, Tả Đăng Phong đã tìm được một cái.
Sơn động này rất nhỏ, Tả Đăng Phong vừa nhìn đã bỏ qua ngay, vì cửa sơn động quá nhỏ, Cự nhân không thể nào chui lọt. Đuổi con vật vừa giống lừa vừa giống lang trong động xong, Tả Đăng Phong phát hiện trong sơn động có khá nhiều hộp đá, do động này rất khô ráo, nên những chiếc hộp đá này đều trong tình trạng rất tốt.
Tả Đăng Phong có cảm giác hộp đá này rất quen mắt, nghĩ một hồi thì nhớ ra đã từng nhìn thấy nó trong thành cổ của nước Dung ở Hồ Nam, trên những hộp này cũng có lỗ thủng, rất rõ ràng, năm đó để phóng độc trùng.
Thời điểm đó nước Dung đang bị Cự nhân công phá, nước Dung để đồ chứa độc vật dụng cụ ở đây chỉ có thể có một giải thích, chính là cao thủ dụng độc của nước Dung cố gắng phóng độc, họ phóng độc là để khiêu khích trước khi chiến đấu hay trả thù sau cuộc chiến thì Tả Đăng Phong không biết, nhưng rõ ràng, họ không thành công, nếu không mấy món dụng cụ này sẽ không xuất hiện trong sơn động bên ngoài trận pháp.
Cửa ra vào sơn động tuy rất hẹp, nhưng bên trong tương đối rộng rãi, trong góc sơn động, Tả Đăng Phong phát hiện vài đồng tiền bằng vàng to cỡ đồng xu, đương nhiên Tả Đăng Phong lấy sạch, tiền trên người hắn sắp hết sạch, sau này ra ngoài, lại có tiền để xài.
Cất mấy đồng vàng xong, Tả Đăng Phong nhìn thấy trong một lỗ nhỏ trên vách sơn động vài món đồ nhỏ bằng ngọc tinh mỹ, một miếng ngọc bội to cỡ lòng bài tay, thường được dùng đeo trang trí bên hông, thứ hai là một chiếc nhẫn ngọc to thường được đeo trên ngón tay cái, cuối cùng là một chiếc ngọc trâm, ngọc trâm rất tinh mỹ, hình một con Phượng Hoàng đang giương cánh, đuôi Phượng Hoàng chính là đầu nhọn của cây trâm.
Ở Trung Quốc, đồ dùng bằng ngọc được sử dụng từ bảy ngàn năm trước, đến thời Thương Chu đã được dùng rất nhiều, người nước Dung đeo chúng cũng không có gì kỳ lạ quý hiếm, nhưng điều khiến Tả Đăng Phong không hiểu chính là ba món đồ ngọc này đều cực kỳ tinh mỹ, ngọc thạch làm ngọc bội và trâm gài tóc đều có màu trắng, cầm trên tay rất thoải mái, loại cảm giác thoải mái này rất khó tả bằng lời. Hồi trước Tả Đăng Phong nhìn thấy ngọc thạch ngoài phố màu rất đậm, trông rất tục, còn hai món ngọc khí này lại giống như tiểu thư khuê các, nhu hòa nồng nàn ẩn sâu, Tả Đăng Phong tuy không hiểu ngọc nhưng cũng biết đây là thứ tốt. Chiếc nhẫn do một khối ngọc thạch ba màu trắng, đen, vàng khoét rỗng mà thành, ranh giới giữa ba màu cực kỳ rõ ràng, cũng là thượng phẩm.
Những vật này đương nhiên người thường không thể nào sử dụng được, thời Thương Chu là thời chiếm hữu nô lệ, những vật này tuyệt đối là giai cấp thượng tầng thậm chí là giai cấp đứng đầu xã hội mới có thể sử dụng. Tả Đăng Phong đoán chủ nhân của những vật này chắc chắn là là một nữ nhân trẻ tuổi thuộc tầng lớp cao cấp của nước Dung, hơn nữa là một người sử dụng cung tiễn. Hắn đoán vậy là vì ngọc bội và ngọc trâm đều là đồ của nữ nhân, chiếc nhẫn kia thường được đeo trên ngón cái của người bắn tên, nữ nhân bình thường không mang. Chiếc nhẫn này chỉ đeo vừa ngón trỏ của Tả Đăng Phong, chứng tỏ ngón cái của người kia nhỏ hơn ngón cái của Tả Đăng Phong, mà ngón tay của Tả Đăng Phong không thô to, nên nếu nhỏ hơn chỉ có thể là phái nữ mà thôi.
Đến bây giờ, Tả Đăng Phong đi đến một kết luận là chủ nhân của những hộp đá và đồ dùng này là những người nước Dung may mắn sống sót sau khi nước Dung bị nước Lô công phá, do một nữ nhân quý tộc trẻ tuổi sử dụng cung tiễn dẫn đến đây để báo thù, nhưng cuối cùng không thành công, vì nước Lô đã được Khương Tử Nha lập trận pháp bảo vệ.
Chủ nhân ba món đồ ngọc này đương nhiên đã chết, nhưng đồ lại không nằm trên xác cô, nên dù có đem chúng đi tặng người khác cũng không mang theo điềm xấu. Tả Đăng Phong cất kỹ hết vào ngực, đáng tiếc Vu Tâm Ngữ đã chết rồi, nếu không hắn sẽ dành hết cho cô.
Vài ngày sau đó, Tả Đăng Phong vẫn không tìm được gì hữu dụng, thời gian càng dài, hắn càng bực bội, thậm chí có lúc còn thẹn quá hoá giận, cuối cùng lập một đại trận hỏa thiêu khổng lồ, chấn sập đồ bên trong trận pháp, nếu đã không mở được cửa, thì dứt khoát xốc tung phòng lên luôn.
Lại thêm nửa tháng, cuối cùng hắn cũng có thu hoạch, sau khi châm lửa xác định trận pháp ẩn hình ở phía nam đỉnh núi bên cạnh, hắn phát hiện có một sơn động cực lớn, lúc nhìn thấy nó hắn biết mình đã tìm đúng chỗ, vì cửa ra vào sơn động này đã bị người ta dùng đá lớn chặn lại.
"Thập Tam, mày thấy sao?" Tả Đăng Phong đến ngay ngoài cửa động, sơn động cao rộng đều chừng một trượng, tảng đá chắn cửa hơi nhỏ hơn cửa động một chút, hình tròn, nặng phải hơn ngàn cân.
Thập Tam đương nhiên không trả lời, đến nằm cạnh một khối đá xanh, hôm nay thời tiết rất tốt, bây giờ đang giữa trưa, nằm trên đá phơi nắng thật là ấm áp.
Tả Đăng Phong cũng biết Thập Tam sẽ không trả lời, hắn chỉ nói chuyện để gìn giữ khả năng nói của mình mà thôi, thường xuyên lẻ loi một mình, hắn lo mình sẽ quên cách nói.
Giữa tảng đá chặn và cửa động có một khe hở hẹp, Tả Đăng Phong nhảy lên tảng đá nhìn vào trong, thấy sơn động rất sâu, tăng thêm góc độ nhìn không đúng, nên nhìn không rõ tình huống bên trong, nhưng qua mạng nhện rậm rạp trong động cũng đủ thấy chưa hề bị con vật nào chui vào ở.
Tả Đăng Phong dồn khí cố gắng đẩy tảng đá ra, đi vào trong động. Đi được hơn mười thước, vài cây búa đá cực to đập vào mắt hắn. Khí hậu Hồ Bắc khô ráo hơn Hồ Nam, cộng với động này bị chặn cửa, nên búa đá vẫn còn gần như nguyên vẹn. Cán búa dài đến bốn thước, thô ráp, màu đỏ, chạm vào là vỡ.
Đi thêm hai mươi mấy mét, đến cuối sơn động, có một bộ xương cự nhân quái dị Cự nhân nằm trong góc. Bộ hài cốt này xuất hiện khiến Tả Đăng Phong đã kinh vừa vui, vui là đã tìm đúng chỗ, kinh hãi là bộ hài cốt này khác với những bộ hài cốt bình thường. Nó to hơn hài cốt thường rất nhiều, màu xương cũng khác, không phải màu trắng như bình thường, mà màu bạc chói mắt.
"Thập Tam, đừng tới gần." Tả Đăng Phong vội cản Thập Tam đang tiến lên ngửi ngửi, màu thi cốt này quỷ dị, Tả Đăng Phong sợ nó bị trúng độc mất mạng.
Tả Đăng Phong phóng linh khí chạm vào thi cốt. Vừa chạm vào, Tả Đăng Phong liền phát hiện xương này nặng hơn xương thường rất nhiều, nắm lấy hai khối xương đập vào nhau, vang lên tiếng kim loại va chạm.
Đã quá nhiều năm, dù có độc cũng có thể tiêu tán hầu như không còn, huống chi nếu trúng độc thì thi cốt phải có màu đen nhánh chứ không phải màu bạc, nghĩ vậy, Tả Đăng Phong cầm lấy cẳng tay thi cốt, cảm giác cầm vào tay càng thêm quái dị, xương cốt này khá nặng, chỉ nhẹ hơn kim loại thuần túy một ít, nhưng căn cứ hoa văn trên xương cốt thì đây thật sự là thi cốt.
Có lẽ thi cốt Cự nhân chính là như vậy, Tả Đăng Phong ngẫm nghĩ rồi bỏ khối xương xuống, cầm lên vài miếng thạch bài dài mảnh trong góc. Thạch bài dài khoảng một gang tay, rộng mười cm, màu đỏ, hai mặt đều không có chữ.
Tuy nó không có chữ, nhưng Tả Đăng Phong có thể để xác định nó chính là trận phù để đi vào trận pháp, thạch bài màu đỏ, đỏ là hỏa, hỏa khắc kim, sẽ không sai.
Cất thạch bài xong, Tả Đăng Phong không đi ngay, mà cẩn thận quan sát bộ xương. Cự nhân này khi còn sống hẳn phải cao cả ba thước, xương đầu khác với xương đầu cự nhân Tả Đăng Phong từng thấy ở nước Dung. Rõ ràng là phía trước dài hơn, phần môi chìa ra, răng nanh lộ cả ra ngoài, hốc mắt nhỏ hơn. Những biến hóa này cũng chứng tỏ Cự nhân này không phải chạy ra đây từ ba ngàn năm trước, mà rất có khả năng là sau đó rời khỏi trận pháp, những biến hóa này đều là do hoàn cảnh sống khép kín tạo thành. Ngoài ra trong sơn động có nhiều thân búa đá, thạch bài vào trận có năm miếng, chứng tỏ năm đó có ít nhất năm người rời khỏi trận pháp chí ít có năm người, hơn nữa những người này đi rồi đều không định trở về, nếu không đã không ném thạch phù tùm lum trong góc sơn động.
Chiếm được thạch phù, Tả Đăng Phong không thấy vui, vì thế này không phải là phá trận, mà là mưu lợi, đối với mười hai Cô Hư Trận Pháp hắn vẫn hoàn toàn không biết gì cả.
Đổi lại người thường, chiếm được thạch phù tất nhiên sẽ liền vào trận, nhưng Tả Đăng Phong không làm như vậy, hắn khiêng Thập Tam rời núi.
Hắn làm như vậy có ba nguyên nhân. Một là, hắn sợ khi vào trong trận bị vây khốn, lương thực của hắn đã hết, cần phải bổ sung. Thứ hai, căn cứ vẻ hoảng sợ của Thập Tam lúc trước, có lẽ có một ít Cự nhân biến dị ở ngay gần biên giới trận pháp, nếu vào sẽ phải đánh nhau, hắn cần chuẩn bị một ít trang bị. Điều thứ ba cũng là điều quan trọng nhất, Tả Đăng Phong muốn thấy người, thấy ai cũng không sao, miễn là người là được, con người là động vật ở chung, lúc nào cũng có nhu cầu kết bạn, nói chuyện trao đổi, gần hai tháng nay không nghe thấy tiếng người, Tả Đăng Phong thấy vô cùng cô độc, hắn cảm giác như mình thoát ly khỏi xã hội nhân loại, tuy người ngoài chẳng liên quan gì tới hắn, nhưng hắn vẫn muốn thấy người, trường kỳ một mình khiến tâm tình của hắn trở nên nặng nề và đè nén, hắn lo lắng nếu cứ như vậy, chưa tìm được sáu con vật âm thì đã phát điên vì áp lực tâm lý, đôi lúc hắn còn thấy hối hận vì đã đuổi Đằng Khi Anh Tử đi, giữ lại cô tốt xấu cũng còn có người nói chuyện.
Ai cũng có bạn, chỉ mỗi hắn là không!