Năm 6000 trước Công nguyên, tại cửa khẩu Trường Giang ở Đan Đồ và Quảng Lăng, bao gồm cả Đông Lăng Đình đều là vùng biển mênh mông.
Bởi hàng năm, bùn và phù sa ở các con sông từ bốn phía đều đổ về biển, nên tốc độ chảy của dòng biển cũng bị giảm bớt. Thủy triều dâng lên, phù sa không ngừng lắng xuống, dần dần ở những chỗ nước cạn xuất hiện vùng đất bồi, tạo thành một cồn cát dài cả trăm dặm từ con sông Bắc Ngạn.
Qua hơn một nghìn năm, chỗ nước cạn ất biến thành một lục địa được nước bao quanh bốn phía.
Khi thời đại đồ đá mới bắt đầu, nhân mã bắt đầu sinh sôi nảy nở ở nơi này. Trước công nguyên hai nghìn năm, vùng đất bồi chỗ đất cạn hợp lại thành một thể, trong sử sách gọi là Dương Thái Sa Ngạn. Cùng lúc đó, dưới sức ép của gió và sóng biển phía bắc Trường Giang, cửa biển phía bắc cũng xuất hiện hiện tượng cồn cát. Chính bởi vì như vậy, mà hướng nam mới hình thành một bờ đê cát hình cung. Một nghìn năm trăm năm trước Công nguyên, bên ngoài bờ đê cát phía nam sông Hoàng Hà hợp lại cùng bãi cát sông Bắc Ngạn, tạo thành một cái hồ thật lớn ngăn cách với biển.
Cuối cùng, Hải Lăng được hình thành.
Cái tên Hải Lăng vốn xuất phát từ ý lăng của biển khơi.
Nơi này cũng chính là Thái Châu của tỉnh Giang Tô. Hiện nay ở Thái Châu vẫn còn một huyện tên là Hải Lăng.
Huyện Hải Lăng cũng là tòa thành thứ hai nằm ở phía đông huyện Quảng Lăng. Phía đông Đốc Bưu Tào Tượng có không quá ba huyện là Xạ Dương, Diêm Độc và Hải Lăng. Số nhân khẩu của ba huyện này cũng không nhiều lắm, trong đó Diêm Độc không có quá hai vạn người, Xạ Dương cũng chỉ xấp xỉ bốn vạn đầu người mà thôi.
So ra thì nhân khẩu của Hải Lăng còn ít hơn của Diêm Độc, chỉ có hơn một vạn ba nghìn người.
Diêm Độc khi xưa vốn là ruộng muối ở thời nhà Hán, hiện đã bị bỏ hoang. Hải Lăng hiện tại chỉ tận dụng khả năng trung chuyển của Diêm Độc, phụ trách kết nối vận chuyển muối giữa hai con sông nam và bắc. Nhưng cho đến ngày nay, nơi này cũng đã mất đi tác dụng vốn có, trở thành một nơi bị người quên lãng.
Năm Kiến An thứ ba tháng thứ ba, Tào Tháo cử binh đi Nam chinh, bao vây và tấn công Tiếp huyện.
Trương Tú trấn thủ thành vững vàng. Tào Tháo tấn công chín lần mà không được, nhất thời cuộc chiến càng thêm khốc liệt. Tới tháng năm, Lưu Biểu phái binh gấp rút tiếp viện Trươgn Tú, chuẩn bị chặt đứt đường lui của Tào quân. Cùng lúc đó, lại có tin tức truyền đến, Viên Thiệu và mưu sĩ Điền Phong hợp mưu, ý đồ thần phục Hứa đô chỉ là giả mạo, hiện đang xuất binh đánh lén.
Tình hình này buộc Tào Tháo phải vội vàng lui binh.
Có điều, trước mặt có Lưu Biểu cản đường, sau lại có Trương Tú dẫn binh truy đuổi, Tào Tháo bị bao vây hai mặt.
Vì vậy, Tào Tháo sai người suốt đêm đào địa đạo, tìm đường bỏ chạy. Tới bình minh, Trương Tú và Lưu Biểu dốc toàn lực truy kích Tào quân đang lui chạy. Không ngờ Tào Tháo từ lâu đã sắp xếp phục binh, khi quân của Trương – Lưu đến thì phục binh đột ngột xuất hiện. Bộ binh, kỵ binh giáp công, đánh tan nhân mã của Trương Tú và Lưu Biểu, Tào Tháo an toàn rút lui. Sau khi tới Uyển thành, Tào Tháo biết nhất thời không thể phá được Trương Tú, đành tạm thời trì hoãn. Nhưng, để tránh bị Trương Tú và Lưu Biểu tấn công, Tào Tháo bèn lệnh cho Mãn Sủng làm thái thú Nam Dương, đóng quân ở Uyển thành.
Sau đó, Mãn Sủng tiến cử Ngụy Diên làm tư mã Nam Dương, đóng quân ở núi Trung Dương, ngăn cản quân Kinh Châu tập kích bất ngờ.
Ngụy Diên vốn là người Nam Dương.
Người này đã nương nhờ nơi Tào Tháo hơn một năm rưỡi, đã lập không ít chiến công.
Chính vì thế, Tào Tháo vui vẻ đồng ý, để Ngụy Diên làm tư mã quận Nam Dương, đồng thời đảm nhiệm chức hiệu úy phía đông Nam Dương…
Sắp xếp mọi chuyện xong, Tào Tháo trở về Hứa đô.
Tháng tư cùng năm đó, Tào Tháo mượn danh nghĩa thiên tử, sai phó xạ Bùi Mậu đi sứ Quan Trung.
Bùi Mậu theo lệnh đến thúc giục chúng tướng ở Quan Trung. Theo chiếu chỉ, kể cả tướng sĩ cao cấp cũng phải bái lạy hương hầu. Bởi một năm trước đây, Quách Ký đã bị thuộc cấp là Ngũ Tập giết chết, Trương Tể lại sớm đã chết trận đầu năm Kiến An. Sau khi Lý Thôi chết, dư đảng của Đổng Trác cũng bị tiêu diệt ở Bình Khẩu, Tào Tháo về lại Hứa đô, lệnh Chung Khuyết tiếp chưởng Trường An. Nhưng Trường An đã trải qua chiến loạn, sớm đã không còn là cái tên vang danh tám trăm dặm nữa. Chính vì thế, sau đó, Tào Tháo lại lấy danh nghĩa thiên tử hạ lệnh miễn thuế má cho Quan Trung, lại đặt thêm chức phủ di hộ quân, giám sát binh mã Quan Trung.
Tào Bằng từ Quảng Lăng đến, vốn cũng không hiểu rõ chức Huyện úy Hải Lăng này rốt cuộc có gì lý thú.
Phải biết rằng huyện úy Hải Lăng là quan viên hưởng lương ba trăm thạch gạo, xét từ phẩm cấp, chỉ thua Đặng Tắc nửa cấp mà thôi.
Nhưng quy mô của Hải Lăng dù sao cũng là của một huyện. Tính theo phẩm cấp của huyện, Hải Lăng hiển nhiên kém hơn Hải Tây một cấp. Chính vì thế, Đặng Tắc có thể làm huyện lệnh được hưởng sáu trăm thạch gạo. Còn Tào Bằng chỉ là một huyện úy của một huyện, phẩm cấp thấp hơn Đặng Tắc gần hai cấp.
Vốn dĩ, Tào Bằng định tìm Trần Đăng thỉnh giáo một chút.
Nhưng hắn thật không ngờ Trần Đăng đã trở về Hạ Giao.
Mà Từ Tuyên và Trần Kiểu cũng không có ở huyện Quảng Lăng. Chính vì thế, Tào Bằng nghỉ lại một đêm ở quan dịch tại Quảng Lăng. Sáng sớm hôm sau, hắn liền trở về Đông Lăng Đình.
Đông Lăng Đình nằm ở giữa Hải Lăng và Quảng Lăng.
Theo lý thuyết mà nói, nơi này thuộc quyền của huyện Quảng Lăng.
Nhưng bởi Đông Lăng Đình xa xôi, huyện Quảng Lăng vốn cũng không quan tâm đến nơi này.
Trước đây, Tào Bằng đã từng trú binh ở Đông Lăng Đình. Theo lý thì lẽ ra hắn phải dẫn binh đến huyện Hải Lăng mới đúng.
Dọc đường đi, Tào Bằng luôn suy nghĩ về lệnh bổ nhiệm kỳ quái này.
Tuân Diễn muốn hắn quay về Hứa Đô, Tào Bằng có thể hiểu được. Quãng thời gian này, hắn và Tuân Diễn cùng chung sống rất tốt. Tuân Diễn suy nghĩ cũng rất bình thường.
Thế nhưng Trần Đăng không chỉ để hắn ở lại Quảng Lăng, mà còn để hắn làm huyện úy Hải Lăng, cai quản ba huyện ở phía đông Quảng Lăng…
Mệnh lệnh này thật ngoài dự đoán của mọi người.
Dù sao trước đây Tào Bằng cũng chỉ là một binh tào Hải Tây, sao có thể thoáng chốc trở thành đốc bưu nắm giữ kỷ cương của ba huyện được?
Đối với chức vụ Huyện úy Hải Lăng này, Tào Bằng thật ra không quá để ý. Một huyện chỉ có một vạn ba nghìn người, trên có huyện trưởng, đồng cấp có huyện thừa. Hắn là Huyện úy Hải Lăng, so ra cũng có vẻ không quá quan trọng…
Rất xa, Đông Lăng Đình đã hiện lên trong tầm mắt.
Gương mặt Tào Bằng ánh lên nét cười, hắn hét vang:
-Ta đã trở về!
Tiếng hét của hắn truyền đi xa, mãi không dứt.
Có điều ngoài dự đoán của Tào Bằng, sau khi hắn hét vang, nơi này không có chút động tĩnh nào cả.
Theo đạo lý mà nói, nơi Vương Mãi đóng quân cách đây không xa, chí ít cũng phải có người nghe thấy mới đúng.
Thật kỳ lạ!
Tào Bằng gãi gãi đầu, phóng ngựa tới bên phía bờ sông. Hắn có thể thấy được rõ ràng những ngôi nhà tranh trong rừng đào…
Khói bếp lượn lờ, chắc là có người đang nấu cơm. Tào Bằng hít sâu một hơi, thúc ngựa bước nhanh đến, rất nhanh đã đi qua khu rừng đào, đi tới phía bên ngoài bờ tường.
Trong tòa biệt viện đơn sơ có vẻ đang rất náo nhiệt.
Sát với cửa viện không biết tự bao giờ đã xây một cái chuồng gà, trước chuồng có khoảng hơn mười con gà.
-Công tử đã trở về!
Một người mặc áo vải, đầu cài một cây châm gỗ, bên hông vẫn còn đeo một chiếc tạp dề màu trắng. Bộ Loan đi từ nhà bếp ra, vừa thấy Tào Bằng đứng bên ngoài bờ tường, lập tức đã mừng rỡ gọi to. Lời còn chưa dứt, đã thấy từ cửa lớn, mọi người ào ào lao ra.
Người đi đầu chính là Vương Mãi và Hạ Hầu Lan.
Cam Ninh, Hác Chiêu, Bộ Chất và Hám Trạch đi phía sau.
Cuối cùng là hai thiếu nữ đi tới, một người là Hoàng Nguyệt Anh, người còn lại là Quách Hoàn.
Nhìn thái độ của Quách Hoàn và Bộ Loan thì dường như hai người đều rất tôn kính Hoàng Nguyệt Anh. Cả nhóm người chạy ra khỏi sảnh đường. Vương Mãi lao ra khỏi cổng rào, nắm lấy dây cương.
Tào Bằng xoay người, nhảy xuống ngựa, nghi hoặc hỏi:
-Sao mọi người đều ở chỗ này?
-Hắc hắc, Hoàng tiểu thư nói ngày hôm nay ngươi nhất định sẽ trở về, nên chúng ta mới chuẩn bị sẵn tiệc rượu, để tẩy trần cho ngươi.
Tào Bằng ngẩng đầu, ánh mắt nhìn lướt qua mọi người, rồi chạm mắt với Hoàng Nguyệt Anh.
Hoàng Nguyệt Anh nhìn hắn mỉm cười, trong mắt nàng ánh lên tia sáng tinh nghịch. Tào Bằng nhất thời cũng cười. Trở về rồi, bao nhiêu áp lực chỉ trong nháy mắt như đã không còn nữa.
-Vừa rồi, ta đang cùng Tử Sơn bàn luận đến hai câu đối trong căn phòng của công tử. Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc linh, thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh (Núi nổi danh không phải tại cao, mà vì có tiên. Sông linh hiển không do nước sâu, mà vì có rồng). Viết hay lắm, viết rất tốt, tài học của công tử thật không tầm thường a.
Tào Bằng cười ha hả, được mọi người bao quanh đi vào tiểu viện.
Trong chuồng ngựa của tòa biệt viện, Chiếu Dạ Bạch hí dài, dường như chào đón chủ nhân trở về.
Tào Bằng bước tới, thân thiết với Chiếu Dạ Bạch trong chốc lát. Tuy chỉ rời Quảng lăng hai tháng, nhưng hắn cảm giác như đã nhiều năm trôi qua.
Đưa thêm nắm cỏ khô cho Chiếu Dạ Bạch,Tào Bằng mới cùng mọi người vào phòng chính.
Đi qua gian phòng chính, chỉ thấy phía sau hành lang đã dọn xong rượu và thức ăn. Có thể thấy được vì bữa tiệc tẩy trần này, Bộ Loan đã vất vả thế nào. Nguyên một bàn đầy rượu và thức ăn, không phải chỉ một chốc một lát là có thể làm được, đặc biệt là món vịt kia lại càng mất nhiều thời gian mổ và chế biến. Hai bên trái phải đặt mấy bình rượu, trên bình vẫn còn đọng nước, cùng một lớp băng mỏng.
-A Loan, muội ấy vì nghênh đón huynh trở về mà từ đêm qua tới giờ đã vất vả liên tục đấy. Tiểu Hoàn phải thường trực bên giếng nước để ngâm Mai Tử tửu cho huynh. Rượu này vừa lấy ra, vừa kịp lúc. A Phúc, mọi người đều chờ đợi huynh đấy.
Hoàng Nguyệt Anh nhẹ giọng trêu đùa.
Nhưng Bộ Loan mặt lại đỏ tới mang tai, Quách Hoàn lại cúi đầu ngượng nghịu.
Dáng điệu e thẹn của mấy nàng thiếu nữ khiến người phải điên đảo thần hồn.
Hám Trạch cười nói:
-Nay có thêm Nguyệt Anh là có cả tam mỹ đồng đường. Công tử, ngươi quả nhiên là tốt số. Phòng ốc tuy sơ sài, nhưng lại hơn hẳn bọn phàm phu tục tử chúng ta.
Gương mặt Tào Bằng thoáng đỏ ửng.
-Hám huynh chớ có đùa nữa, chớ có đùa nữa.
Vừa nói chuyện, mọi người cùng ngồi xuống phía sau hành lang.
Cô gái thứ ba – Hoàng Nguyệt Anh không ngồi vào vị trí, mà lặng lẽ rời đi.
-Công tử, nghe nói ở Giang Đông ngươi đã làm tốt lắm.
-A?
-Ta nghe Hạ Hầu Lan nói ngươi đã cứu được một cặp tân lang tân nương. Chỉ tiếc là nữ tử kia số khổ, lại bị kẻ gian hãm hại. Từ xưa hồng nhan bạc mệnh, cổ nhân nói quả không sai.
Bộ Chất muôn vàn cảm khái, khiến cả bàn đều thở ngắn than dài theo
-Tử Sơn huynh, đang yên lành sao lại nhắc tới chuyện phiền não này? Đáng phạt rượu, phạt ba chén rượu.
Hám Trạch vội vã nói, Cam Ninh rót rượu cho Bộ Chất.
Không khí hòa thuận vui vẻ khiến tâm trạng của Tào Bằng cũng tốt hơn nhiều. Hắn nhịn không được cười ha ha, chỉ vào Bộ Chất, nói:
-Tử Sơn tiên sinh hôm nay sợ là khó mà không say được.
Có thể thấy được Cam Ninh ở cùng với mọi người rất thoải mái, không có chút gì là không thích ứng cả.
Ngược lại, Hác Chiêu lại căng thẳng. Trong những người đang ngồi ở đây, ngoài Tào Bằng và Vương Mãi ra, Hác Chiêu là người nhỏ tuổi nhất. Nhưng nếu tính về thời gian tòng quân, gã lại là người lớn nhất. Chính vì thế, bản tính của gã cũng trầm mặc hơn. Chuyện này có lẽ cũng là lẽ thường. Tào Bằng tốt xấu gì cũng là con cháu quan lại, lão tử của Vương Mãi là Vương Mãnh hiện cũng là dũng sĩ, lang tướng, cũng coi như là con của bán tướng. Hạ Hầu Lan tuổi tác lại lớn hơn Hác Chiêu, theo Tào Bằng lâu nhất. Bộ Chất, Hám Trạch toàn người uyên bác. Cam Ninh lại càng thuộc về danh gia vọng tộc, hơn nữa lại được Hoàng Thừa Ngạn nhờ vả, là thân tín nhất bên cạnh Hoàng Nguyệt Anh. So ra thì Hác Chiêu chẳng khác nào bèo nước lững lờ trôi.
Cũng may có Vương Mãi và Hạ Hầu Lan lôi kéo, ép gã uống rượu, mới có thể phần nào giảm bớt sự câu nệ của Hác Chiêu.
Ánh nắng sáng rỡ, ngồi ngoài hành lang vừa có thể nhìn thấy Trường Giang, lại vừa có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ bờ. Hai bên rừng trúc xanh ngát, từng hàng đá cuội phủ mờ con đường mòn.
Gió từ sông thổi tới mang theo mùi hương say lòng người.
Bên bờ sông, vài bông hoa lựu đỏ rực, làm nổi bật mặt nước sông màu xanh, càng thêm phần tươi đẹp.
-A Phúc, cảnh đẹp như vậy, món ngon như vậy, sao không làm một bài thơ?
Hám Trạch hất hàm, nâng chén đòi thơ.
Bộ Chất liên tục gật đầu:
-Ta nghe Hạ Hầu Lan nói công tử khi ở Giang Nam từng làm hai bài thơ. Không nói đến Phiếm Chấn Trạch, cũng còn có Tây Châu Khúc, có thể nói là các tác phẩm xuất sắc. Hôm nay, sao công tử không làm một bài thơ, để chúng ta được rửa tai một phen? Các vị, lấy cảnh đẹp trước mắt để công tử làm thơ, thế nào?
-Rất tốt, rất tốt!
Văn nhã của cổ nhân rất thú vị.
Mặc dù không phải khắp nơi đều là văn nhân, nhưng mơ hồ làm thơ đã trở thành một nếp sống.
Cho dù sách vở hầu hết đều nằm trong tay con cháu thế gia, cho dù rất nhiều người thậm chí dốt đặc cán mai (ví như Vương Mãi, ví như Hác Chiêu), nhưng cũng không ảnh hưởng đến hứng thú thưởng thức vẻ đẹp của văn chương của bọn họ. Đề nghị của Bộ Chất lập tức được mọi người hưởng ứng. Thậm chí ngay cả tam nữ Hoàng Nguyệt Anh đang dùng cơm trong sương phòng cũng không khỏi đi ra cửa phòng, lẳng lặng đứng một bên, nhìn Tào Bằng, đợi hắn làm thơ.
Tào Bằng hung dữ trừng mắt nhìn Bộ Chất:
-Văn chương vốn là thứ tự nhiên, ngẫu hứng mới làm được. Ta lúc đó cũng chỉ là tức cảnh sinh tình, chẳng qua là xúc động, sao có thể bảo làm là làm ngay được?
-Văn chương vốn là thứ tự nhiên, ngẫu hứng mới làm được ư?
Bộ Chất và Hám Trạch nhìn nhau, cùng cười cười.
-Chỉ một câu này thôi, phải uống cạn một chén lớn rồi.
Hai người dứt lời, nâng chén uống một hơi cạn sạch.
Bọn Cam Ninh cũng liên tục tán thưởng, đều nâng chén.
-A Phúc, huynh thử làm một lần đi.
Hoàng Nguyệt Anh khẽ nói với Tào Bằng.
Người khác nói, Tào Bằng còn có thể cự tuyệt. Nhưng Hoàng Nguyệt Anh đã nói, hắn thật sự không biết làm sao để từ chối đây. Mà hai tiểu nha hoàn, Bộ Loan và Quách Hoàn lại càng ngước đôi mắt tròn to, vẻ mặt chờ đợi, khiến hắn thực sự không đành lòng cự tuyệt.
Đứng dậy, Tào Bằng đạp guốc gỗ, đi dọc theo con đường mòn rải đá cuội.
Đi khoảng chừng hơn mười bước, Tào Bằng cuối cùng cũng nghĩ ra một bài thơ. Số bài thơ hắn nhớ không nhiều lắm, lại phải tìm bài có thể khớp với cảnh sắc trước mặt nữa.
-Có!
Bộ Chất và Hám Trạch nhìn nhau, ngơ ngác.
Sử sách ghi Tào Thực bảy bước thành thơ nhưng năm ấy, lão đã gần sáu chục tuổi mới có thể làm được như thế. Khả năng sáng tạo của Tào Bằng thật…
Đây chính là cái người ta gọi là hữu tâm tài thụ thụ bất hoạt, vô tâm sáp liễu liễu thành ấm (cố tình trông hoa, hoa không nở, vô tình cắm liễu, liễu xanh um).
Tào Bằng vô tình không nhận ra, hắn hoàn toàn không có ý giả vờ.
Dĩ nhiên, hắn không biết được sự ngạc nhiên sững sờ trong lòng Bộ Chất và Hám Trạch. Thậm chí, hắn cũng không thấy được nét kinh hỉ trong mắt Hoàng Nguyệt Anh.
“Giang Nam hảo
Phong cảnh cựu tằng am”
(Giang Nam đẹp
Phong cảnh đã từng am)
Hám Trạch và Bộ Chất ngẩn ra, cảm giác câu thơ này dường như không có chỗ nào đặc biệt cả.
Nhưng thật ra Hoàng Nguyệt Anh lại có phản ứng, trước mắt nàng là một màn cảnh sắc rất quen thuộc.
Nhật xuất giang hoa hồng thắng hỏa
Xuân lai giang thủy lục như lam
Năng bất ức Giang Nam?
(Ánh nắng hoa sông hồng tựa lửa
Chiều xuân sông nước biếc như hàm
Há chẳng nhớ Giang Nam?)
Nhìn cảnh sắc trước mặt, Hám Trạch không tự chủ được lại nghĩ đến cảnh sắc ở quê nhà. Tuy nói Giang Nam, Giang Bắc phong cảnh không khác nhau lắm, nhưng không biết vì sao y lại nghĩ cảnh sắc trước mặt không đẹp bằng ở Giang Nam. Khóe mắt y đã hơi ươn ướt!
Nhưng y lại trầm trồ khen ngợi, vỗ tay tán thưởng.
Ngay đến Hạ Hầu Lan, Cam Ninh, thậm chí cả Bộ Chất cũng đều cảm thấy bài thơ này làm rất hợp lý.
Nhưng hai người Vương Mãi và Hác Chiêu từ nhỏ lớn lên tại phương Bắc, ít nhiều không hiểu được.
Bài thơ này của A Phúc thật ra rất hợp với hoàn cảnh.
Nhật xuất giang hoa hồng thắng hỏa
Xuân lai giang thủy lục như lam
Thế nhưng những người khác không khỏi có chút mơ hồ.
Bộ Loan cũng cho là được, nàng sinh trưởng ở phía nam. Quách Hoàn từ nhỏ đã lớn lên ở U Châu, có thể đến Quảng Lăng có lẽ đã là nơi xa nhất nàng đến kiếp này.
Không biết vì sao, nàng lại nhớ tới Giang Hạ, nhớ tới Phùng Thủy, nhớ tới lão quỷ tóc trắng xóa…
Cũng không biết lúc nào nàng mới có thể được chăm sóc phụ thân nữa đây?
Xú A Phúc, làm thơ thì làm thơ, tự nhiên lại làm ta nhớ nhà. Xú A Phúc, Xú A Phúc!
Hoàng Nguyệt Anh không nhịn được mắng thầm hắn. Nàng xoay người, lặng lẽ lau đi giọt lệ nơi khóe mắt, lấy lại nụ cười rạng rỡ.
Có lẽ A Phúc muốn nói cho nàng biết rằng hắn nhất định sẽ đưa nàng áo gấm vinh quy.
Tâm tư của tiểu nữ nhi thay đổi không ngừng.
Tào Bằng hiển nhiên không ngờ được để hợp được với hoàn cảnh, hắn đi ăn trộm bài từ mà lại có thể khiến rất nhiều người xúc động.
-Bêu xấu, bêu xấu rồi!
Hắn quay lại hành lang, lòng thầm đắc ý.
Ngồi xuống, hắn nhìn vẻ mặt của mọi người, cười khiêm tốn.
-Công tử muốn ngựa đạp đất Giang Đông e rằng cũng không phải chuyện dễ.
Hám Trạch chợt nói:
-Giang Đông có sông Trường Giang ngăn trở, núi cao trùng điệp, sông ngòi chi chít. Hôm nay, Biệt Bá Phù hùng bá bốn quận, theo ta Đan Dương, Lư Giang sớm muộn gì cũng bị đoạt mất thôi. Tào Công có thể hùng tài đại lược thật, tiếc là hiện nay căn cơ không ổn định. Bắc có Viên Thiệu, đông có Lữ Bố, nam có Lưu Biểu – Trương Tú, Lưu Chương chiếm cứ Ba Thục, Trương Lỗ nắm giữ Hán Trung. Tây Lương có người ngựa của Hàn Toại, Mạc Bắc dân tộc Tiên Bi luôn theo dõi.
Muốn thủ Giang Đông cũng không thể làm trong chốc lát được…
Khoan đã, khoan đã, ta nói ta muốn dẫn ngựa đạp lên Giang Đông khi nào?
Tào Bằng không khỏi ngạc nhiên, chỉ thấy Hám Trạch và Bộ Chất đều đã có vẻ hứng khởi.
Các người hiểu sai rồi!
Tào Bằng không khỏi thầm kêu khổ: Ta làm gì có tâm tư tranh giành với thiên hạ. Nếu lão Tào biết được, mạng ta chẳng còn được bao lâu nữa đâu.
Thế nhưng, bốn người Vương Mãi, Hác Chiêu, Cam Ninh, Hạ Hầu Lan đều có vẻ hưng phấn.
Ngựa đạp Giang Đông sao?
Nghe đã đủ để người phải kính sợ!
Hóa ra bài thơ của A Phúc ẩn chứa ý này?
Tào Bằng không khỏi cười rộ lên.
Rượu qua ba tuần, thức ăn cũng đã hết năm món.
Nhật mộ Tây Sơn, thiên biên vãn hà, nhiễm hồng liễu giang diện.
Hác Chiêu và Vương Mãi đã say, ngã lên hành lang, băt đầu cảm thấy khàn giọng.
Hạ Hầu Lan và Cam Ninh lờ đờ say. Một người ôm một bình rượu, tựa người vào hành lang, uống một ngụm rượu. Một người đưa chén, không hề chịu thua.
So với những người kia thì Hám Trạch, Bộ Chất và Tào Bằng có vẻ tỉnh hơn.
Ba người đi xuống cửa hiên, thả đôi guốc gỗ, đi dọc theo đường mòn, khoan thai bước tới ven sông.
Nhìn cảnh nước sông như bị thiêu đốt, Hám Trạch và Bộ Chất lặng lẽ không nói gì. Tào Bằng đứng trên bờ đê, ngây người, cũng không nói gì.
-Công tử, Tuân Diễn tiên sinh đưa ngài đến Quảng Lăng là có ý định gì?
-Ừ, ý của Tuân Diễn tiên sinh là muốn ta trở về Hứa đô. Nhưng Trần Thái thú không đồng ý, bổ nhiệm ta làm chức Huyện úy Hải Lăng.
-Huyện úy Hải Lăng?
Bộ Chất ngẩn ra:
-Công tử, Trần thái thú lệnh cho ngài làm Huyện úy Hải Lăng sao?
Trong ngữ điệu của y, đầy vẻ kinh ngạc.
Tào Bằng sửng sốt một chút:
-Đúng vậy, nhậm chức Huyện úy Hải Lăng và việc của chủ phường đốc bưu tào.
Bộ Chất nhất thời mừng rỡ, chắp tay nói:
-Như vậy, ta chúc mừng công tử, chúc mừng công tử. Cứ thử đến Quảng Lăng này biết đâu có ngày được xuất đầu lộ diện.