Nói là kể chuyện ma,
nhưng lần này chỉ bàn đến linh hồn trong văn hoá u minh của Trung Quốc,
vì vậy, ngay khi đặt bút viết, tôi từng nghĩ đến việc đặt tên cho cuốn
sách này là Bàn chuyện linh hồn. Nhưng khi chia sẻ với bạn bè, ai cũng
phản đối, nói nếu đặt tên như thế, các hiệu sách nhất định sẽ xếp nó lên kệ dành cho các loại sách: Bàn về nhân sinh, Đàm đạo về tu dưỡng,… dễ
gây ra những hiểu lầm chồng chất cho lớp thanh niên có chí khí bây giờ.
Ban đầu tôi cũng không thừa nhận, nhưng sau một hồi tra từ điển, đầu óc
tôi đã được mở mang, không chỉ hiểu được sự khác biệt giữa hai từ “linh
hồn” và “hồn”, mà tôi cũng đã hiểu hai từ “hồn” và “linh hồn” không thể
nói bừa bãi.
Ở thời cổ đại, “linh hồn” và “hồn” được sử dụng như
nhau, nhưng trong tiếng Hán hiện đại, không thể tuỳ tiện sử dụng thay
nhau đươc. Mấy chục năm trước, chúng ta có những mẫu câu thông dụng như
“tư tưởng… là linh hồn…”, giờ vẫn được mọi người sử dụng, như “tư tưởng
của người quản lý là linh hồn của doanh nghiệp”, “tư tưởng của… trưởng
là linh hồn của phòng…”,… Câu “… của… trường”, có thể điền vào dấu ba
chấm những từ như xưởng, hiệu, đội… không bao giờ có thể nhầm được.
Nhưng nếu bạn thử thay hay từ “linh hồn” bằng từ “hồn”, sẽ khiến người
nghe phải nổi da gà, bởi họ dễ dàng liên tưởng tới câu: “Xưởng trưởng là hồn ma của công xưởng”, và tiếp theo sẽ suy ra xưởng trưởng đã mất rồi.
Vì vậy, từ “linh hồn” trong khẩu ngữ hằng ngày thường có hàm ý khác. Năm
mươi năm trước, tôi cũng ngờ nghệch không hiểu hàm ý này là gì, đáng
tiếc là không tìm từ điển để tra. Còn nhớ năm đó, trong giờ Chính trị,
cô giáo đã đọc đi đọc lại một câu: “Chính trị là thống soái, tư tưởng là linh hồn”, tôi nghĩ mãi về hai từ “linh hồn” đó, nhưng vẫn chỉ mơ hồ,
không biết nó là cái gì. Vì vậy, khi chỉ còn hai phút nữa là hết giờ
học, cô giáo đi xuống phía dưới lớp và hỏi: “Các em còn chỗ nào không
hiểu không?”, tôi đã giơ tay hỏi: “Thưa cô, linh hồn là gì ạ?” Sắc mặt
cô giáo đột nhiên trở nên lạnh lùng, thoáng ngập ngừng, sau đó hùng hồn
nói: “Linh hồn? Linh hồn chính là tư tưởng!... Ngồi xuống! Hết giờ!” Năm đó, bài thi môn Chính trị của tôi được sáu mươi điểm. Đấy là lần đầu
tiên tôi sẩy chân trong môn Chính trị, lần thứ hai khi đang học cấp ba,
sự sẩy chân đó trở nên nghiêm trọng hơn, nhưng không liên quan gì tới
linh hồn cả. Từ đó tôi đã hiểu, trong giờ học môn Chính trị tốt nhất
không nên đưa ra câu hỏi mà chỉ cần lắng nghe, học thuộc rồi đọc cho
người khác nghe hoặc viết ra cho người khác xem là được.
“Linh
hồn chính là tư tưởng!” Khi cô giáo dạy môn Chính trị thốt ra câu này,
mặc dù mang chút tâm trạng nhưng câu này không sai. Trong Hán ngữ đại từ điển có năm cách giải thích cho từ “linh hồn”, một cách giải thích đó
là “tinh thần, tư tưởng, tình cảm”. Nhưng sau này lại được một vài người tự cho mình là anh minh, giỏi giang diễn giải thành các câu cách ngôn
kiểu như: “Tư tưởng là một kiểu của linh hồn”, “Tư tưởng là liều thuốc
hay cho linh hồn”, khiến một vài người bắt đầu mất phương hướng. Rốt
cuộc là tư tưởng của ai và linh hồn của ai đây? Không thể nói tư tưởng
của mình chính là một kiểu khác và là vị thuốc tốt cho chính tư tưởng
của mình được.
Chuyện càng nói càng xa, tóm lại một câu, từ “linh hồn” mà bây giờ mọi người hay nói không phải là “hồn” trong những câu
chuyện ma quỷ mà chúng ta thường được nghe. “Hồn” nếu nói văn vẻ một
chút, thì chính là “hồn linh”. Mà “linh hồn” có lẽ đã trở thành đề tài
to lớn trong kho từ vựng ngày nay rồi. Còn về “hồn”, chẳng qua chỉ là
“hồn” trong Tiêu dao luật mà Hán Hiến Đế xui xẻo đã hát thôi. Vì vậy,
cuốn sách này chính là muốn nói tới “hồn” đó, khẳng định lại mội lần
nữa, nội dung cuốn sách này đề cập đến “hồn” chứ không phải “linh hồn”.
Nhưng “hồn” này cũng không dễ bàn, theo cách nói của những người già thì con
người sống có hồn, mà chết cũng có hồn. Vậy chúng ta muốn bàn tới “hồn”
của người sống (tức sinh hồn) hay là hồn của người chết (tức quỷ hồn)
đây?
Thực ra, những người bình thường khi sống, đại đa số không
ai quan tâm tới “hồn” của mình vì mình còn có những vấn đề quan trọng
hơn như ăn uống, quan hệ nam nữ…
Bạn bè gặp nhau, thăm hỏi chủ
yếu là có khoẻ không, tinh thần thế nào, chu đáo hơn thì là mắt có bị mờ không, chân còn nhanh nhẹn không, chứ chẳng có ai hỏi: “Hồn của cậu có
khoẻ không?” cả. Chỉ có những nhà đạo đức học, nhà tôn giáo và các chính trị gia là có thể có ngoại lệ, nhưng thứ mà họ quan tâm là “hồn” của
người khác, còn về “hồn” của mình thì dường như chẳng để ý lắm. Vì vậy,
thường xuyên xảy ra chuyện thế này, thiện nam tín nữ bị người thuyết
giáo khuyên hoặc lừa lên thiên đường, nhưng bản thân người thuyết giáo
lại phải xuống địa ngục, điều này cũng có thể do bản thân người đó không cẩn thận sẩy chân, nhưng đại đa số là vì họ cảm thấy ở dưới đó tốt hơn.
Còn về việc con người sau khi chết thật sự, thì ngoài hồn ra chẳng có thứ
gì khác nữa, nói một cách chính xác hơn thì quỷ hồn và u linh, thực ra
đã là dị vật, tức là “hồn” rồi. Một hồn đang phải chịu án chờ Diêm Vương phán xét, không thể tự chủ nữa, lúc này có muốn quan tâm, muốn tịnh
hoá, muốn cải tạo,… nói gì cũng vô ích. Hồn này một khi đã “dị hoá”
thành quỷ, liền mang theo nghiệt duyên ở nhân thế, giống như một lớp da
vậy, không sao gọt hết, luật dưới âm phủ chỉ có trừng phạt, không có cải tạo, mà trừng phạt cũng không bao giờ rửa hết được tội nghiệt. Nếu
những hồn này còn chưa uống canh mê hồn thì họ sẽ luôn nghĩ đến việc giá như kiếp trước mình sống tử tế hơn thì đã không đến nỗi này rồi.
Nghĩ đi nghĩ lại, lúc hồn được người ta quan tâm nhất, có lẽ chính là thời
khắc giữa sự sống và cái chết, là người mà không phải người ấy, cũng
chính vì cho dù hồn có chạy, có trốn, hoặc bị trộm mất, bị lừa mất bị
bắt mất, nhưng vẫn chưa rơi vào quãng thời gian trước khi trở thành dị
vật.
Còn sống hay đã chết, đây là hai việc đối lập, nhưng liệu có tồn tại một cảnh giới không sống mà cũng chẳng chết không? Sống là
người, chết là ma, nhưng liệu có người nào ở trong trạng thái không phải người mà cũng chẳng phải ma không? Ổn định trường kỳ thì chắc chắn
không có, nhưng tạm thời hoặc một thời gian ngắn thì không nơi nào không có, những trường hợp này ví dụ như hôn mê, phát điên, xuất thần, mất
hồn,… Sau khi hồn rời khỏi xác, nằm lại đó là một thể xác không sống mà
cũng chưa chết, còn phiêu du bên ngoài là một du hồn không phải âm cũng
chẳng phải dương. Hình thần tương ly, nhưng cũng không hoàn toàn đoạn
tuyệt quan hệ, chỉ cần có điều kiện thích hợp, chúng vẫn hợp làm một.
Đấy chính là những “hồn” mà tôi muốn nói tới, bàn tới.
Ngoài ra
cũng có một lượng lớn những hồn ở trạng thái từ sáng vào tối, cũng chính là muốn nói con người sau khi chết, hồn của họ sẽ thoát khỏi thể xác,
bất luận đi một mình hay thành đôi thành cặp với những hồn khác dưới âm
phủ, thì cũng là trên đường đi “gặp Diêm Vương”. Nhưng chỉ cần họ chưa
vào Quỷ môn quan, hoặc vào Quỷ môn quan rồi nhưng chưa bị nhập hộ tịch
dưới âm phủ thì vẫn chưa được coi là hồn “hợp pháp”. Giống như cuối đời
Minh, một vị nào đó đã viết câu đối dán ở cửa điện Diêm Vương như sau:
“Nếu chưa thành quỷ án, chưa vào cửa thì vẫn có cơ hội hồi sinh”, bởi
nếu đột nhiên có công văn gửi xuống, nói là bắt nhầm hoặc tự người ấy
tìm được bạn bè thân thiết, gặp được người quen dưới đó thì hồn của họ
có thể được trả về dương gian nhân lúc thể xác còn chưa bị thối nát.
Trạng thái lúc này nếu nói là tử vong, thì nói là hình thần tương ly sẽ
hợp lý hơn, chết hay sống còn chưa chắc chắn, giống như những “nghi
phạm” trên nhân gian. Hồn ở trạng thái này, cũng được tính là một trong
những vấn đề sẽ được đề cập tới trong cuốn sách.
Phạm vi đề cập
đến thì nhiều, nhưng không phải nội dung nào trong phạm vi ấy cũng được
nói đến. Do sự nghiên cứu có hạn, cũng chỉ có thể nghĩ được đến đâu thì
viết đến đấy thôi. Nhưng cũng có những đề mục, ví dụ như Mộng hồn, tài
liệu về mộng hồn rất nhiều, chỉ sợ khi đề cập đến thì cuốn sách nhỏ này
không thể nói hết được, nên không đưa vào nội dung. Đương nhiên, cũng có những việc liên quan đến hồn mà ngay từ đầu không nằm trong dự định của tôi, nếu như cảm thấy thú vị, ví dụ như “Di hồn đại pháp” thay tim tẩy
não rồi mà vẫn còn ghê gớm, lợi hại chẳng hạn, cũng không phải không nói đến, có điều nó là ngoại lệ mà thôi.
Cũng có thể sẽ có độc giả
cho rằng, nói về hồn thì thà nói về ma còn thú vị hơn. Thực ra cũng chưa chắc, nếu chỉ nói ma mà không đề cập tới hồn thì nó giống hệt Hà điển
vậy. Có điều cuộc sống trên nhân gian thay đổi, chuyện ba cửa hàng
chuyển vào trong quỷ cốc, ngoài những người có sự ham thích đặc biệt
hoặc là chút khoái cảm nhất thời đối với khái niệm địa ngục thì có thể
nói còn kém thú vị hơn cả chuyện nhân thế. Mà một khi có thêm “hồn” vào, kết nối hai thế giới âm dương với nhau, ba nick QQ có thể diễn một vở
kịch rồi.
Đương nhiên, giống như tôi đã nói ở trên, hồn khiến
người ta để ý, chỉ bởi vì nó đã lìa khỏi xác. Nhưng nếu hồn không ở
trong xác, phiêu du vô định, thân không có hồn chủ, đối với con người mà nói, không nghi ngờ gì việc họ đang rơi vào một giai đoạn bất hạnh.
Nhưng nếu giống những vở bi kịch trên sân khấu, hiện thực bất hạnh được
nghệ thuật hoá một cách lãng mạn, cho dù tác giả không hề có ý “vui mừng trong hoạn nạn” thì kết quả lại khiến người xem có cảm giác như đang
thưởng thức. Vì vậy, trong một vài câu chuyện dân gian và tác phẩm văn
học, có những tình tiết kỳ diệu trong cuộc sống bất hạnh ấy.
Không chỉ dừng lại ở đây, trong những câu chuyện về thế giới u minh được lưu
truyền trên nhân gian, luôn có một chủ đề mang “tính nhân dân”. Cho đến
tận đầu đời thanh thì Bồ Lưu Tiên đã đưa ra một quan điểm rõ ràng, đó
là: “Sống bị ràng buộc, chết không cấm kỵ!” (Con gái Lỗ Công) hoàn toàn
tương phản với các loại thể chế chuyên chế của hệ thống minh phủ. Trong
văn hoá u minh của người dân, quỷ hồn được tự do hơn sinh hồn, dường như con người khi đã chết thì hồn sẽ thoát khỏi “lưới hồng trần”, được giải thoát, những thứ như môn đệ, lễ giáo, pháp chế… không còn ràng buộc
được họ nữa. Thế là họ có thể thoải mái yêu đương, kết hôn, thậm chí còn có thể vô duyên vô cớ báo thù lũ tham quan vô lại trên trần gian… Có
thể nói, trong một bộ phận những câu chuyện ma, chúng ta thỉnh thoảng
còn đọc được “nhân tính” thật sự, rất hiếm gặp trong những “câu chuyện
về con người”! Nhưng cùng với việc âm phủ được xây dựng và dần hoàn
thiện, nó chiếm lĩnh không gian sống của con người trên dương thế thì sự tự do của quỷ hồn ngày một hẹp lại. Kiểu vừa có thể thoát được lễ giáo
phiền hà trên nhân gian, lại chưa phải hồn nằm trong pháp chế dưới địa
phủ ấy, chỉ có thể thường gặp trong trạng thái “ly hồn”.
Trong
những câu chuyện về âm phủ của Liêu trai chí dị, đề tài “ly hồn” rất cảm động. Hồn của những cặp đôi nam nữ đa tình nhưng phải sinh ly tử biệt
khiến người ta phải xót xa, rồi những chuyện như tráng sĩ trên nhân gian xuất hồn đi xuống âm gian, báo thù những kẻ hống hách khiến người ta
phải ngẩn ngơ.
Tôi nói tới những điểm tốt của hồn, không phải vì
muốn quảng cáo cho cuốn sách này. Chữ nghĩa thì cũng bày cả ra đây rồi,
một đề tài hấp dẫn như thế, những độc giả muốn đọc truyện ma, hoặc muốn
đọc những câu chuyện ma khủng bố, cũng vẫn cảm thấy rất vô vị. Mặc dù
nội dung có nhiều tình tiết hơn cuốn sách trước, thiếu phần nghị luận và dẫn văn, nhưng ngòi bút thiên tài hết thuốc chữa này vẫn chưa được cải
thiện là bao, mặc dù kể chuyện không phải là nội dung chính của cuốn
sách này, nhưng cũng là một phần cần thiết. Vì vậy, đối với những độc
giả hiểu lầm đây là một cuốn truyện ma mà phải mất tiền oan, tôi cũng
chỉ biết nói lời xin lỗi thêm lần nữa. Mặc dù khi bày tỏ tình cảm tôi
thường ngượng ngùng không dám mở miệng, cảm thấy giống trò hề của những
diễn viên trên sân khấu báo đáp lại tiếng vỗ tay của khán giả ở phía
dưới, nhưng cuối cùng vẫn phải lấy hết dũng khí, nói lời cảm ơn với
những nhà phê bình và những độc giả, bạn bè đã quan tâm tới cuốn sách
trước của cuốn này. Đó hoàn toàn không phải vì sự khen ngợi quá mức của
họ, mà nhờ những bình luận của họ khiến tôi có cảm giác vui mừng như tâm linh tương thông. Điều này đương nhiên cũng chính là nguyên nhân chủ
yếu cổ vũ tôi viết tiếp đề tài này.