Bất luận thế nào, chốn âm gian không phải là nơi thích hợp để ngao du, thăm thú. Thế nhưng,
trong cuộc sống không phải không có người từng nảy sinh mong ước được
một lần dạo chơi chốn âm gian u ám này.
Nếu tôi nhớ không lầm thì hình như cách đây một năm, một cậu bé con trai của bạn tôi đã có lần đề xuất ý tưởng độc đáo này với tôi. Cậu bé hồn nhiên nói lên suy nghĩ của mình: “Người nước ngoài có thể làm được du lịch vũ trụ, vậy thì tại sao chúng ta không thể làm về du lịch địa phủ nhỉ? Người nước ngoài từng
đem rao bán sao Hỏa, vậy tại sao chúng ta không thể mở rộng ngành bất
động sản ở dưới âm phủ?” Rõ ràng, tinh thần yêu nước dám so sánh, thậm
chí đối đầu với nước ngoài của cậu bé hồn nhiên kia không thể không làm
cho người khác động lòng trắc ẩn. Nhưng nếu như chịu khó suy nghĩ một
chút thì cậu bé khờ dại kia chắc hẳn sẽ tự đưa ra được câu trả lời trước những băn khoăn được cho là có sáng kiến của cậu. Bởi lẽ dẫn một đoàn
khách du lịch xuống thăm quan âm phủ, kinh phí đầu tư và kỹ thuật chắc
hẳn sẽ khó khăn hơn nhiều so với việc đưa con người bay vào vũ trụ.
Đương nhiên chốn âm phủ nói tới ở đây chỉ là chế tạo theo mô phỏng, với giá
vài đồng bạc một mẫu đất, mua một ngọn núi hoang, sau đó tạo phong cảnh ở dưới âm gian, để những nhà văn có tài viết vài câu quảng cáo, mùa xuân
là Đáo m sơn khán hoa khứ[1], mùa hạ là m sơn cảnh hậu hảo thừa
lương[2]. Nếu làm như vậy thì cũng chẳng mấy khó khăn, lại còn có thể
thêm vào một vài danh mục như “Dạ đài xuân mộng”, “Nai tân tàn chiếu”,
thì ngay cả việc mời hoàng đế Càn Long từ trong Đông Linh ra đề họa ngâm thơ cũng không phải là việc không làm được. Còn việc đem chuyện lữ
khách mà làm “Dạ thẩm Phan Hồng”[3], cảnh tượng ảm đạm, mê mê tỉnh tỉnh
giống như người bị say rượu, uống thuốc mê hoặc tiêm thuốc tê, dùng bút
tẩy gõ vào sọ não, sau đó cho vào máy quay xi măng, quay trên ba mươi
vòng, tiếp đến là đi trên “một chuyến xe xuyên qua khe núi”. Nếu có
thiếu chỗ nọ, hỏng chỗ kia thì lập tức sửa sang lại rồi liệt vào khu vực tham quan ngắm cảnh. Những việc như vậy hoàn toàn có thể làm được. Tôi
nói cái khó khăn về kỹ thuật trên đây không phải là nói những thứ này,
mà là không có cách nào để làm một cái nồi khổng lồ, cho ngọn núi m vào
đó để cả năm âm u, mù mịt không có ngày đêm, người vào đó sẽ cảm thấy
đầu óc mơ màng, thảm thương như chẳng có cách nào thoát khỏi. Vì theo
như người đã đến thế giới âm phủ nói lại thì ở đó toàn là bão cát: “Dài
như khi tháng Mười một, tháng Mười hai tuyết âm rơi”[4], hoặc là “sắc
trời ngưng lại, gió hoàng hôn thổi rào rào”[5], hay như “Hoàng sa rộng
mênh mông, không nhìn thấy nhật nguyệt”[6].
[1] Nghĩa là: đến núi m ngắm hoa.
[2] Nghĩa là: phong cánh phía sau núi m rất
[3] Nghĩa là: ban đêm điều tra Phan Hồng.
[4] Ghi trong Thông âm ký của Trần Thiệu, đời Đường.
[5] Trong Thanh tỏa cao nghị của Lưu Phủ, thời Bắc Tống.
[6] Trong Tử bất ngữ của Viên Mai.
Quỷ môn quan
Quỷ môn quan, hiểu trên mặt chữ có thể gọi đó là cửa khẩu đưa đến thế giới
âm phủ. Linh hồn của người ở bên ngoài cửa, trên danh nghĩa vẫn là hồn
sống, đi qua Quỷ môn quan thì mới chính thức nhập hộ khẩu và trở thành
người nơi âm phủ. Nhưng ở thời cổ, việc miêu tả về địa ngục hoặc thế
giới âm phủ hầu như không nhắc đến vấn đề này. Trên thực tế, việc phân
chia hai thế giới âm - dương cũng không thể xác định rõ ràng được, vì
vậy ba chữ “Quỷ môn quan” về cơ bản vẫn là mang ý nghĩa tượng trưng.
Cuốn Lưu chức y dược ngữ[7] của Hồng Mại thời Nam Tống, trong tập Di
kiên chi canh có viết, hồn ma bị lang băm trị bệnh mà chết nói: “Cả nhà
tôi có hơn mười người già trẻ, tất cả đều dựa vào tôi mà sống. Nay tôi
chỉ một lần uống nhầm thuốc mà chết, ngũ tạng của tôi giống như có dao
cắt, dạ dày thối rữa, làm thế nào để có thể sống lại đây? Nay phải đến
Quỷ môn quan ngồi chờ!” Ý nghĩa của câu nói này là ngồi ở quan phủ dưới
âm gian để chờ gặp, sau đó sẽ cùng toàn thể oan gia khởi kiện lên trên
để tính sổ với tên lang băm, chứ không phải đó là nơi ngồi đợi đến lượt
gia nhập vào cõi âm gian. Nơi ngồi chờ được nói tới trên đây chắc hẳn là có nha đầu và chó canh cửa, vì thế đó thực sự cũng không phải là địa
điểm lý tưởng để hẹn hò hoặc chờ đợi người khác.
[7] Nghĩa là: thầy thuốc họ Lưu lấy nhầm thuốc.
Nhưng sự xuất hiện của chữ “Quỷ môn quan” đã có từ trước thời Nam Tống. Bởi
lẽ, vào triều Đường người ta đã gọi những nơi nguy hiểm, dã man, hoang
tàn là “Quỷ môn quan” rồi. Trong Cựu đường thư, địa lý chí tứ có viết:
Ba trăm dặm về phía nam huyện Bắc Lưu có hai tảng đá đứng đối mặt vào
nhau, ở giữa rộng đến ba mươi bước chân, tục gọi là “Quỷ môn quan”.
Tướng quân Hán Phục Ba khi đánh giặc, đi đến đây là hết đường, liền lập
bài vị bằng đá, điều này có ghi trong trang tám tám, đoạn cuối. Phía nam đặc biệt nhiều bệnh chướng khí, người đi vào đó cơ hội sống sót vô cùng mong manh, ngạn ngữ có câu: “Quỷ môn quan, thập nhập cửu bất hoàn.”[8]
[8] Nghĩa là: Quỷ môn quan, mười người vào thì chín người không có đường quay trở lại.
Bắc Lưu nay thuộc Quảng Tây, nơi đây nổi tiếng nhất là Quỷ môn quan, nhiều
đời nay trong thơ ca đều có người nhắc đến địa danh này. Có cách gọi tên này là bởi vì địa hình nơi đây giống như một cửa ải của thiên nhiên, và điều quan trọng hơn nữa là vào Quỷ môn quan này “thập nhập cửu bất
hoàn”, chướng khí bốc lên gây bệnh hại người, người mặc giáp nam chinh,
triều thần bị giáng chức đưa đến nơi này đều khó mà quay về phương Bắc
được.
Ngoài ra, theo như Viên Tử Tài, Đam Nhĩ (nay là Hải Nam)
cũng có một nơi như thế, bốn bề núi non trùng điệp, ở giữa có một con
đường, trên vách viết ba chữ “Quỷ môn quan”, bên cạnh khắc thơ của Lý
Đức Dụ đời Đường, vì lúc ông ta bị giáng chức đến Nha Châu, đi qua nơi
đây liền nói: “Một khi đã đi thì đi tới hàng vạn dặm, mười người đến thì chín người không về. Quê hương ở nơi đâu, muốn sống thì phải vượt qua
Quỷ môn quan này.” Chữ viết rộng khoảng năm thước, nét bút khỏe khoắn.
Qua nơi đây thì mây độc cỏ ác, động vật kỳ quái, thời tiết nóng lạnh
thất thường, giống như đi đến thế giới của ma quỷ, chứ không phải nơi
của con người nữa.
Những nơi khác như Quỳ Châu - Tứ Xuyên, Bình
Lương - Cam Túc cũng đều có địa danh là Quỷ môn quan. Ở đây hàm ý của nó là chỉ nơi nguy hiểm, chứ không có nghĩa là một đi không trở về nữa.
Nhưng đến thời nhà Thanh, Quảng Tây đã phá “Vương hoa”, Bắc Lưu không
còn là “thập nhập cửu bất hoàn”, đồng thời vì được phát hiện là “nơi
chứa đầy bạc”, Bắc Lưu đã trở thành vùng đất béo bở, kiếm được nhiều
tiền, bởi thế lúc này có người cho rằng, về mặt chữ đã có sự nhầm lẫn,
cái gọi là “Quỷ môn quan” chính là để chỉ “Quế môn quan”. Quảng Tây được gọi tắt là Quế, cách nói này cũng có thể được xem là trường hợp ngoại
lệ.
Nhưng chắc hẳn dân gian phải có quan niệm về Quỷ môn quan ở
dưới âm phủ thì mới có sự so sánh với Quỷ môn quan ở trên dương thế. Mà
Quỷ môn quan ở dưới âm phủ cũng chỉ là một cách nói mang ý nghĩa tượng
trưng. Mãi đến sau thời Nguyên - Minh, trong kịch nói mới xuất hiện hình ảnh Quỷ môn quan và từ đó đã trở thành cách gọi tắt của dân gian đối
với âm phủ. Trong Tây du ký, hồi thứ mười đã làm rõ hơn một chút về khái niệm Quỷ môn quan, nhưng lại không giống như sự tưởng tượng của chúng
ta, đó là một quan ải lớn như Sơn Hải Quan, nhỏ như Nương Tử Quan, mà
lại là đại môn của ngôi Thành Từ.
Thái Tông Trúc và Thôi Phản
Quan, hai đồng tử đi bộ về phía trước, bỗng nhìn thấy một tòa thành,
trên cổng thành có treo một tấm biển lớn, bên trên đề rõ bảy chữ: “U
minh địa phủ Quỷ môn quan.”
Bởi vì là cổng thành nên sau khi vào
đó sẽ thấy người đi bộ trên đường, đi tiếp là đến trung tâm chính trị
Lâm La Bảo Điện của thế giới âm phủ. Nhưng đến hồi thứ mười một, khi Lưu Kim chui vào quả dưa lạ bỗng nhiên được đến thẳng Quỷ môn quan.
Quỷ sứ gác cổng hỏi: “Ngươi là ai? Sao dám đến nơi đây?” Lưu Kim đáp: “Tôi
phụng sự hoàng đế Đại Đường - Đường Thái Tông mang dâng tặng loại dưa
quý bao đời Diêm Vương rất thích dùng.” Quỷ sứ vui vẻ tiếp nhận. Lưu Kim đi đến Lâm La Bảo Điện, gặp được Diêm Vương.
Như vậy ta thấy,
Quỷ môn quan được miêu tả cũng chỉ giống như cổng lớn của cung phủ mà
thôi. Có thể thấy tác giả của Tây du ký đối với những tiểu tiết này quả
thực không dụng tâm sáng tạo cho lắm nên chỉ mượn hình ảnh Quỷ môn quan
để thể hiện ý đồ đã đi vào thế giới âm phủ mà thôi.
Từ Khánh Tân - gia nhân của Khang Hy biên soạn cuốn Tín chính lục, trong đó có lấy một bài Hồi dương ký của Hải Xương Trần Thục Văn, nói về việc sau khi vào
thế giới âm phủ, trước tiên phải uống canh của Thi bà bà, sau đó mới
được vào Quỷ môn quan. Nhưng cửa ải này lại giống như Nhạn môn quan của
“Tứ Lang thăm mẹ”, không thể tùy tiện ra vào. Cửa lúc nào cũng đóng kín, có hơn mười con ma mặt xanh, nanh vàng, lông lá đầy mình, chân đi đất,
tay cầm giáo đứng canh, phải có giấy thông hành mới được mở cửa cho vào. Nếu không có giấy thông hành thì “người có Đạo pháp thì gọi Thái Thượng Lão Quân, kẻ có Phật pháp thì gọi Tam Thế Như Lai, người hành thiện thì gọi Quan Âm cứu khổ”, chỉ cần là môn đồ của “hội đạo môn”[9] thì có thể tùy ý ra vào.
[9] Nghĩa là: tụ hội của các đạo.
Nếu như
theo ý thức của người bây giờ, “hảo tử bất như lại hoạt trước” (thà dựa
vào mà sống, còn hơn là chết đẹp), Quỷ môn quan không vào thì thôi. Thực tế không phải như vậy, bởi trước khi linh hồn đến Quỷ môn quan thì thể
xác cũng sắp hỏng rồi, đường quay về cũng đã bị ngắt đoạn, muốn trở về
không phải là điều đơn giản, vì thế, ngoài việc nhập hộ khẩu vào thế
giới u minh thì chẳng còn con đường nào khác có thể đi.
Ngoài ra, trong Tử bất ngữ của Viên Mai, cuốn hai mươi Quỷ môn quan cũng đưa ra
những kiến giải tương tự như thế này, nhưng nói rõ hơn một chút, Chu Tú
Tài của Thái Vương vì lâm trọng bệnh, không thể cứu chữa đã chấp nhận để Nhị Thanh Y dẫn vào thế giới âm phủ:
Đi hơn mười dặm, đến một
cửa thành, song môn cao to sừng sững, đóng kín, phía trên cổng thành
viết ba chữ “Quỷ môn quan”. Nhị Thanh Y gõ cửa mà không có người trả
lời, lại gõ tiếp, bên cạnh đột nhiên xuất hiện một con ma, diện mạo rất
hung ác, có vẻ như muốn gây gổ với Nhị Thanh Y. Nhìn từ xa thấy có hai
chiếc đèn màu đỏ, trong chiếc kiệu có một vị trưởng quan, ông ta được
truyền đến. Khi nhìn gần, trông giống như Hoàng Thần của Thái Dương Châu Thành, thần hỏi: “Ngươi tên họ là gì?” Ông ta đáp: “Ta là học trò của
Khoáng Thương Châu.” Thần lại nói: “Ngươi đến quá sớm, nơi đây không
được ở lại lâu.” Sau đó ông ta được chỉ dẫn con đường trở về.
Thì ra Chu Tú Tài chưa phải chết, còn Nhị Thanh Y có thể là tà ma gì đó, vì thế mà ma giữ cổng đã không cho vào bên trong. Và trưởng quan cũng lắc
đầu từ chối. Họ làm thế hoàn toàn không sai. Nhưng nếu như không gặp
Thành Hoàng của Thái Thương, hồn sống của Chu Tú Tài chỉ có thể đợi ở
trước cửa mà không có đường về, thậm chí tình hình có thể còn tồi tệ hơn nữa. Đương nhiên, hồn ma nhập Quỷ môn quan cần phải có giấy thông hành, xuất quan càng không thể hồ đồ được. Trong Tín chính lục của Từ Khánh
Tân, phần Thẩm Lục Phi phục sinh có viết, sau khi Thẩm Lục Phi xuống âm
phủ mới phát hiện là bị bắt nhầm, được quan ở âm phủ thả về. Ở đây chỉ
nói là quan, tuy không nói rõ là “Quỷ môn quan”, nhưng đối với việc phân biệt âm - dương thì có lẽ không có vấn đề gì.
Có sứ lĩnh ra, đến quan thứ nhất, hỏi: “Có văn thư không?” Ông ta đáp: “Không có!” Quan
giữ cổng nói: “Đã phải đến âm phủ rồi, nếu không có văn thư thì thể xác
sẽ bị hỏng. Ta cho người mang văn thư đến, ngươi lập tức phải điền vào.” Ông ta liền đặt bút chạm mực thành chữ kim.
Nhân đây xin nói
thêm một chút về Quỷ môn quan của Phong Đô Quỷ Thành tại Tứ Xuyên (nay
thuộc thành phố Trùng Khánh). Giáo sư Vệ Huệ Lâm có bài “Điều tra về tập tục tôn giáo ở Phong Đô”, trong bài viết có nói: “Trên núi ở huyện
Phong Đô có một Điện thái tử Diêm La, cổng sau của điện gọi là Quỷ môn
quan. Từ Quỷ môn quan đi xuống theo hướng tây nam là Vọng hương đài.”
Quỷ môn quan này vốn dĩ là cảnh quan nhân tạo, không biết chính xác được xây dựng từ khi nào, nhưng trong Tử bất ngữ của Viên Mai, cuốn thứ năm
Tẩy tử hà xa có đoạn ghi lại việc này, đồng thời cho rằng Quỷ môn quan
là có thật:
Huyện Phong Đô, Tứ Xuyên, sai dịch Đinh Khải đưa văn
thư về Quỳ Châu. Qua Quỷ môn quan, phía trước có tấm bia đá, trên thư
viết ba chữ “m dương giới”[10]. Ông ta đi xuống phía dưới tấm bia, say
sưa thăm thú hồi lâu mà không hề hay biết mình đã đi ra thế giới bên
ngoài.
[10] Nghĩa là: thế giới âm và dương
“Thế giới bên ngoài”, chỉ một bước chân mà đã đến được thế giới âm phủ, thế là gặp lại thê tử sau nhiều năm xa cách.
Ngoài ra, trong dân gian có “m Dương hà”[11], thương khách Trương Mậu Thâm
muốn đi đến huyện Phong Đô để tìm hiểu về phong tục của địa phương, tiểu nhị nói với ông ta: “Đi ra cửa quán, theo hướng nam sẽ gặp một con
đường lớn, rồi gặp một đèn thờ bằng đá, đó chính là “âm dương giới”. Ở
bên này giới thì cảnh làm ăn buôn bán rất náo nhiệt, đông vui, nhất
thiết không được đi qua phía bên kia của âm dương giới, nơi đó là đất
của ma.” Ở đây nói đến đền thờ “âm dương giới”, chính là Quỷ môn quan mà Viên Mai đã nói.
[11] Nghĩa là: sông m Dương
Nghe nói
hiện nay “Quỷ môn quan” ở Phong Đô vẫn còn, nhưng tôi chưa đến đó bao
giờ, theo dự đoán chắc hẳn sẽ không thật được như Sơn Hải Quan hoặc
Nương Tử Quan, và cũng sẽ không giả như “không thành kế” trong kịch nói. Mà vào Quỷ môn quan vẫn còn các điểm như “Đường đến hoàng tuyền”, “Vọng hương đài”… chỉ cần không thu vé vào thì có thể yên tâm mà đi qua.
Cầu sông Nại
Thực chất âm phủ là nhân bản của chốn nhân gian, vì thế cảnh núi, sông, cây, cối ở dương gian khi xuất hiện dưới âm phủ cũng là rất hợp lý. Duy chỉ
có sông Nại lại không giống như các con sông khác, nó là một dòng sông
bẩn, có máu. Nghiêm khắc mà nói, “sông Nại” là chỉ “địa ngục” (hay
Naraka) trong kinh Phật - một sự biến hóa của âm từ, do vậy “sông Nại”
chính là địa ngục! Nhưng địa ngục trong tiếng Trung Quốc dịch ra một
cách văn nhã lại biến thành “sông Nại”, vậy thì cũng có thể để nó trở
thành “hà lưu” rồi.
Ở đây, trước tiên chúng ta xem xét sự biến
đổi của sông Nại từ thời Đường trở đi, cùng với sự xuất hiện của “hà
lưu” nơi dương thế, lâu ngày sông Nại từ con rạch nhỏ biến thành dòng
sông lớn. Trong Tuyên thất chí của Trương Độc thời nhà Đường cho rằng đó là một con sông rộng đến mức “không đếm được bao nhiêu thước”.
Tổng quan xuất phát từ Dương Thành đi về phía tây. Họ đi qua nơi có rất
nhiều cỏ cây mọc dày san sát, trải rộng đến khôn cùng, nước có hai màu
đỏ và xanh ngọc bích, giống như một tấm thảm lớn. Đi hơn mười dặm thì
thấy một nguồn nước rộng không đếm được bao nhiêu thước, chảy về hướng
tây nam. Quan hỏi Linh Tập, Tập đáp: “Dân gian gọi đây là sông Nại, có
nguồn gốc từ địa phủ.” Quan liền nhìn xuống nước, thấy có cả máu đỏ, vô
cùng kinh hãi không dám lại gần. Lại nhìn thấy trên bờ có người đem đến
vài trăm bộ quần áo, Tập nói: “Đây là quần áo của người đã mất, họ sẽ đi vào âm phủ từ đây.”
Sông suối kiểu như thế này không cần phải có cầu, vong hồn đến đây phải cởi bỏ quần áo, để lại tất cả ở trên bờ, sau đó lội chân trần qua sông, thế là đã chính thức bước vào âm phủ rồi.
Con sông Nại này là ranh giới - giống như giới âm phủ thứ hai, gọi là
“âm dương giới”. Trong Đại Mục Càn Liên u gian cứu mẫu biến văn[12] cũng miêu tả với nội dung tương tự:
[12] Nghĩa là: sự biến đổi trong bài Mục Càn Liên đến âm phủ cứu mẹ mình.
Mục Liên nghe thấy thế, liền từ biệt đại vương ra đi, đi được vài bước đã
đến gần sông Nại, gặp vô số người cởi áo mắc lên cành cây, nhưng lại
không thể đi qua được, cứ đi đi lại lại, sau đó ôm đầu khóc thảm thiết.
Con sông Nại này chảy từ đông sang tây, nước chảy siết, không còn là con
suối nhỏ trong Tuyên thất chí miêu tả trước đó. Hai bên bờ sông đều có
cây cối, vong hồn mắc quần áo lên trên đó, sau đó phải lội qua sông,
trước khi vượt qua dòng nước cần điểm danh, “ngưu đầu đem theo gậy xích
đến bên bờ sông, giở sổ gọi tên, ai không muốn qua sông cũng không
được.”
Trong Tục mặc khách huy tê của Bành Thừa, thời Bắc Tống,
cuốn thứ năm, Hiến hương tạp kịch cũng nhắc đến sông Nại, theo sự hiểu
biết của con người, dòng nước đó chắc hẳn rất sâu.
Tăng nói: “Đi
đến địa ngục, gặp điện Diêm Vương, bên cạnh có một người áo đỏ đang ngồi câu cá, nhìn kỹ thì đoán rằng đó là người giám sát dòng nước, tay giơ
lên một vật, nhìn trái nhìn phải rồi nói: “Nước sông cạn thế này thì
hiến kế gì được, chắc chỉ còn cách khơi thông dòng nước mà thôi.” Để
mong nhận được ân thưởng từ triều đình, Thúc Hiến đã bóc lột sức dân
bằng mọi cách nhằm cải thiện công tác thủy lợi. Từ đó, bách dân trăm họ
rơi vào cảnh khốn cùng, đâu đâu cũng thấy vang lên tiếng khóc than thảm
thiết.
Trong tác phẩm Tam bảo thái giám tây dương ký ở phần Kế
Kim Bình Mai hồi thứ tám mươi bảy, có dẫn ra một câu chuyện, Đinh Thư
nói, tuy trên sông có ba chiếc cầu nhưng vong hồn có tội thì không thể
qua được, chỉ có thể lội qua dòng sông Nại này để đi vào thế giới âm
phủ.
Con sông Nại này là từ phương Bắc u minh đại hải chảy ra một dòng nước vô cùng kinh tởm, chạy vòng quanh phủ Đông Nhạc, phàm là
người thường thì đều phải qua nơi này. Nước đen mênh mông, chảy cuồn
cuộn, mùi thì tanh hôi, hoặc là lạnh như băng tuyết, hoặc là nóng như
lửa thiêu, tùy thuộc vào nghiệp chướng của từng người, sẽ có độ nông sâu khác nhau, cũng có người bị nước ngập đến đầu, có người thì đến eo, đến mu bàn chân, nơi đó có rắn độc, yêu quái thò đầu, há to miệng, tùy nó
thích gặm thịt hay thích hút máu, nơi đó đã đi thì đừng nghĩ chuyện quay lại.
Thì ra con sông Nại đối với những linh hồn có tội là một
hình phạt ghê gớm. Về việc nước nông, sâu, nóng, lạnh còn phụ thuộc vào
nghiệp tội các hồn ma mắc phải mà tự động biến hóa. Có thể thấy, từ thời nhà Đường đến thời nhà Thanh, cổ nhân đã tưởng tượng ra nhiều câu
chuyện có ý nghĩa to lớn trong việc điều chỉnh nhân cách và hành vi của
con người.
Thời nhà Thanh có biên soạn cuốn Ngọc lịch bảo sao,
trong đó cũng nhắc tới một dòng sông, nhưng nó không đưa đến âm phủ mà
lại là nơi giam phạt những người phạm tội đã chịu qua mười điện, uống
canh của Mạnh bà bà trước khi vào lục đạo luân hồi, cũng có nghĩa là
cách âm phủ không xa trước khi được luân hồi chuyển thế. Mặc dù vậy, ý
nghĩa của đoạn văn rất khó hiểu, người đọc khó có thể hiểu hết dụng ý
của tác giả giống như cũng được uống một thứ canh mê hồn vậy.
Các linh hồn buộc phải uống thứ canh mê hồn do một người đầy tớ bê ra. Ở
phía dưới có dòng nước chảy siết, màu đỏ máu, thịt người mắc cạn đầy khe suối. Nhìn theo hướng cây cầu, trên bờ bên kia có bốn hàng chữ lớn màu
đỏ, viết: “Vi nhân dung dịch tác nhân nan, tái cần vi nhân khổng canh
nan, dụ sinh phúc địa vô nan xứ, khẩu và tâm đồng tịnh bất nan.”[13] Khi các linh hồn đang chăm chú đọc, bất chợt ở bờ bên kia nhảy ra hai con
ma lớn, tách nhau ra nhảy bổ xuống mặt nước, hai bên đứng không vững,
rơi xuống dòng nước đỏ đang chảy xiết, tùy theo sự nông, sâu, yếu, mạnh
mà may mắn giữ được thân người lành lặn… Các linh hồn như tỉnh như mê,
chia nhay vào các phòng xá, âm dương biến đổi, không khí ảm đạm, mơ
màng, điên đảo, không thể tự do đặt chân lên Tử Hà Xa mà chạy thoát khỏi thai nương…
[13] Nghĩa là: Thành người thì dễ mà làm người thì
khó, muốn làm người mà để người khác phải nể sợ e rằng càng khó hơn, nơi đất có phúc thì không có hạn, nếu biết đồng tâm đồng chí thì không việc gì là khó khăn.
Các đoạn khác trong Ngọc lịch bảo sao không còn
thấy nhắc đến sông Nại, không biết con sông này có phải là nói sông Nại
hay không, hoặc cũng có thể là khúc sông Nại chảy vòng qua ngọn núi âm
nào đó.
Điều đặc biệt hơn, trong Liêu trai, sông Nại lại biến
thành cống nước thải trong thành, tất cả rác rưởi của cửu u thập bát
ngục đều quy tụ về nơi đây. Trong cuốn Vương thập cũng nhắc đến điều
này: “Nước sông vô cùng hỗn độn, mùi thối không thể ngửi”, trầm tích còn lại chỉ là “thịt nát xương tan”, mà trong Tửu cuồng lại cho thêm vào đó một vài tình tiết nhỏ khác: “Trong dòng nước có một vật rất sắc, đâm
thẳng vào bắp chân, cử động rất khó, đau đớn vô cùng, nước đen bẩn, hôi
thối, tự nhiên chảy vào trong cổ họng, thật khó có thể chịu đựng được.”
Đây chỉ là tùy ý chỉ ra vài điểm mà thôi, tất cả có trong tiểu thuyết
của Bồ Ông. Chỉ vài tiểu tiết ấy cũng đủ cho ta thấy, thành thị từ thời
xa xưa cũng đã có cảnh ô nhiễm như thế này, còn khoảng cách của nó đến
sông Nại xa gần ra sao có lẽ cũng không cần thiết phải kiểm tra độ chính xác.
Tiếp đến, chúng ta cùng tìm hiểu về cầu sông Nại, tức cây
cầu bắc qua sông Nại. Trong Dậu dương tạp trở của Đoàn Thành Thức người
đời Đường, đầu cuốn thứ hai Minh kinh Triệu Nghiệp có viết về Triệu
Nghiệp bị bệnh nặng phải đến âm phủ.
Lúc đầu tinh thần du tản,
không tập trung, đi đứng như trong mộng, có Chu Y Bình Trách dẫn đường
đến phía đông. Ra khỏi núi, đến nơi bị cắt đoạn, thấy có rất nhiều
người. Đứng đó quan sát hồi lâu, lại tiếp tục đi đến phía đông, thấy có
một cây cầu được sơn son thiếp vàng. Bước qua cây cầu là vào trong
thành, đến được Tào Tư, người dân sinh sống ở đây rất đông.
Con
sông này chính là sông Nại và dùng vàng bạc để trang trí thành cây cầu
bắc ngang. Cây cầu đó tuy không có tên gọi cụ thể nhưng người xưa vẫn
gọi nó là cầu sông Nại. Về sau, trong bút ký của người đời Tống, còn
được gọi là “cầu U Tư”[14]. Chỉ đến cuốn thứ ba Đàn nguyên đường tể
trong tập Di kiên chí bổ mới nói rõ hơn về “cầu sông Nại”. Đồ tể Đường
Phúc chỉ vì giết chết một con nhện mà bị dẫn đến sông Nại chịu tội,
Đường Phúc cầu xin: “Tôi tự ngẫm cả đời không giẫm đạp lên côn trùng,
chỉ nhớ là đã giết mười ba con trâu, hai mươi con lợn, nếu như được thả
ra, xin thề sẽ cải tạo” và:
[14] Theo Hồng Mại, cuốn thứ tư, Thái dương bộ Vương thị phụ, trong Di kiên chi mậu.
Viên lại nói: “Đây không thuộc thẩm quyền quyết định cùa ta, đi đến đầu cầu
sông Nại, đích thân nhà ngươi hãy nói với Phán quan về ý nguyện của
mình.” Và cả hai cùng đi tới đó. Khi đến bên bờ sông, ngước nhìn lên cây cầu cao bắc ngang qua sông, một vị quan áo mũ chỉnh tề đang đứng chờ ở
đó, trên tay còn cầm một cuốn sổ. Viên lại ghé vào tai người kia nói:
"Đó chính là Phán quan!” Hai con chó dữ sủa vang khắp một vùng, hung dữ
lao ra ngăn cản không cho ai qua. Thấy vậy, người đồ tể cung kính vái
chào. Vị quan áo đỏ đọc trong cuốn sổ cầm trên tay, nói: “Có lẽ đã có sự nhầm lẫn ở đây, kẻ giết Hi Tử là Bành Phú, không liên can đến ngươi,
tức là tuổi thọ của ngươi vẫn chưa hết, ngươi có thể quay về dương thế!”
Những tài liệu này không những xuất hiện trong các tác phẩm văn học, mà còn
là những tài liệu đầu tiên lý giải rõ ràng sông Nại chính là cánh cổng
dẫn vào thế giới âm phủ. Chỉ những hồn ma và những người đáng chết mới
phải vào bên trong còn những người không đáng chết ngay lập tức phải
quay về dương thế, ngay cả khi muốn nhìn mặt Diêm Vương cũng không được
(đây có thể là để khống chế những người dân xảo trá ở dương giới đến,
giống như kiểu Tịch Phương Bình đến kiện âm phủ), bởi ở đó luôn có hai
con ác cẩu sẵn sàng chặn lại, điều này trước và sau sẽ không nhắc lại
nữa. Nhưng hai con ác cẩu này không phải là không có lai lịch, nó có
nguồn gốc từ trong truyền thuyết cổ của Ấn Độ, nói về hai con khuyến bốn mắt Saladida của thần cai quản địa phủ Diêm Ma.
Trong Di kiên
bính chí, cuốn mười, Hoàng pháp sư tiếu[15] nói âm gian có một “con sông có màu xám”, giống như đời Đường có người nói về sông Nại, có thể có sự hiểu nhầm đó là sông Nại. “柰” (nại) “灰" (khôi), hai chữ gần giống nhau
về nét (địa ngục trong kinh Phật có “khôi hà ngục”[16], có thể do đó mà
hiểu nhầm, điều này cũng không thể khẳng định chắc chắn được). Trong tác phẩm ấy có nhắc đến cầu trên sông Nại, nhưng chỉ là để cho những người
vô tội đi qua sông, ở đó hoàn toàn không có Minh sứ hay chó dữ đứng
trông, còn về người bị trọng tội, thì vẫn giống như trước đây có ghi
lại, phải cởi áo lội qua sông, mà trên bờ có nhiều cây cối thì phải cởi
áo ra và mắc lên đó. Nhưng có cái không giống như trước đây, đó là những chiếc áo này khi mắc lên đều phải viết rõ tên của mỗi người, sau đó đặt lên xe, chuyển qua cầu, khi qua được sông thì người đó lại mặc vào.
Trên người không một mảnh vải đến gặp Diêm Vương thì cũng thật mất mặt,
có thể thấy quan dưới âm phủ cũng đang dần dần trở nên “nhân tính
hóa”.[17]
[15] Nghĩa là: lễ tế rượu của Hoàng pháp sư.
[16] Nghĩa là: ngục ở sông Khôi.
[17] Cây này trong Tuyên thất chí là móc dùng để cho vong hồn treo quần áo,
nhưng trong Thanh tỏa cao nghĩa Lưu Phủ thời Bắc Tống, tự nhiên cho nó
biến thành một cây cao trăm thước, thân gỗ khô rộng tới sáu mươi vòng.
Cây to như thế này không thể mắc quần áo, chỉ có thể làm nơi vong hồn
ngồi nghỉ dưới gốc cây. Chỉ là cái cây này cao trăm thước, thân gỗ rộng
tới sáu mươi vòng, đây là cây ở đâu, rõ ràng đó là những tảng đá to lớn
có hình dạng giống như cây mà thôi.
Tiểu thuyết và kịch nói của
hai đời nhà Minh và nhà Thanh nhiều lần có nhắc đến cây cầu bắc qua dòng sông Nại, nhưng mỗi người lại nói mỗi kiểu khác nhau. Rõ nhất là trong
Tây du ký, khi Đường Thái Tông vào âm phủ được đi qua cầu sông Nại. Trên sông để vào âm phủ có ba cây cầu, một là cầu vàng, hai là cầu bạc, ba
là cầu sông Nại. Dưới chốn âm gian cũng có sự phân biệt đối xử, cầu vàng chỉ để chuẩn bị cho các bậc hoàng đế, vương, tướng, những người trung
hiếu, hiền lương, công minh chính đại cũng chỉ được đi qua cầu bạc, còn
lại những hồn ma vô công, vô đức chỉ có thể đi qua cầu sông Nại mà thôi. Đó là cây cầu “gió mùa đông thổi liên tục, sóng bằng máu chảy cuồn cuộn và không ngừng vọng lại những tiếng khóc than.”
Cầu dài vài mét, rộng chỉ bằng ba cái mụn trên đầu mũi, cao những trăm thước. Bên trên
không có lan can để bám, bên dưới có kẻ cướp tác oai tác quái. Gông quấn quanh người. Ngươi hãy nhìn xem, thần tướng ở cây cầu đó rất hung ác,
ngang tàng, những hồn ma ác nghiệt dưới lòng sông lại vô cùng khốn đốn,
trên nhánh cây có treo những chiếc áo đủ màu xanh, đỏ, vàng, tím... phía đầu tường quay về bờ, người phụ nữ quỳ phục xuống chính là hạng dâm
đãng, khi còn sống luôn miệng mắng chửi bố mẹ chồng. Rắn đồng, khuyển
sắt tranh nhau xông lên cắn xé, ăn thịt, vĩnh viễn không có đường thoát
khỏi dòng sông Nại.
Cuốn Kế Kim Bình Mai của Đinh Xán Khang cũng
nói đến ba cây cầu, nhưng là vàng, bạc, đồng, nói chung đều gọi là cầu
sông Nại. Nhưng không nói đến tư cách của những hồn ma đi qua cầu, bọn
họ chỉ có thể bơi qua sông:
Con sông Nại này bắt nguồn từ phía
Bắc chốn u minh đại hải, chảy ra một dòng nước vô cùng bẩn thỉu, chạy
vòng quanh phủ Đông Nhạc, phàm là người thường thì đều phải qua nơi này. Có ba cây cầu, một là cầu vàng, là đạo Phật, đạo Thánh, đạo Tiên đi về
nơi đây, hai là cầu bạc, là thiện nhân, hiếu tử, trung thần, nghĩa sĩ,
tiết phụ, trinh phu đi đến nơi này, còn lại là một cây câu đồng, dành
cho những người bình dân tốt bụng, hoặc có quan thanh, hoặc có hương
bình, tích đức không rượu tiền, hoặc luân hồi không có trọng tội, hoặc
sinh ra trong gia đình giàu có, chuyển sinh quan tước, hoặc nữ hóa thành nam, có nhiều công lao... mới được đi cây cầu này. Tất cả đều có sự
phân biệt rõ ràng. Cây cầu thần xuất hiện thì sẽ không có ma, xứng đáng
đi cây cầu nào, đi đến bên bờ sông, cây cầu đó sẽ xuất hiện, liền sau đó sẽ có đồng tử dẫn đường, không xứng đáng đi thì cây cầu sẽ không xuất
hiện, chỉ có dòng nước đen ngòm mênh mông, chảy cuồn cuộn như sóng
biển...
Nhưng trong Tam bảo thái giám tây dương ký hồi thứ tám
mươi bảy, trên sông Nại lại có duy nhất một cây cầu, chỉ người tốt mới
được đi qua.
Chỉ nhìn thấy đằng trước có một con sông máu, đi
ngang qua, bên trên có duy nhất một cây cầu gỗ, rộng không quá một
thước, vừa tròn vừa trơn. Vương Minh đi đến bên cầu, chỉ nhìn thấy trên
cầu cũng có người đi, tràn phan bảo cái (cờ dài và cái lọng quý, còn gọi là tàn quý), tiền hô hậu ứng. Dưới cầu cũng có chỗ ngập máu, có những
người buộc phải đi qua đó, bên cạnh lại có nhất đẳng Kim Long Ngân - con bọ cạp, chó sắt, rắn đồng tập trung bên những người đó, người bị cắn,
kẻ bị thương. Vương Minh hỏi Phán Quan: “Tỉ phu, đây gọi là cầu gì mà
sao thấy nguy hiểm vậy? Có người thì đi được, nhưng lại có người không
đi được?” Phán Quan đáp: “Đây gọi là cầu sông Nại, làm ma thì đều phải
đi qua đây. Nếu như khi làm người trần, tâm thuật quang minh, hành động
chính đại, trong đời không có gì là không dám nói với người khác, không
có gì là không dám để trời biết, những người chính nhân quân tử chết
xuống âm phủ, Diêm quân đều rất khâm phục và kính trọng, không dám lạnh
nhạt, lập tức dặn dò kim đồng ngọc nữ, trường phan bảo cái, hướng dẫn
quân tử đi trước, người ủng hộ theo sau, đi qua cây cầu này giống như đi dưới đường bằng phẳng vậy. Còn nếu ở trần gian tâm thuật ngu muội, hành động quỷ quyệt, làm trái luân thường đạo lý, làm ngược với lẽ trời,
những hạng người này thuộc dạng âm tà tiểu nhân, chết xuống âm phủ, Diêm quân sẽ quát mắng người đi qua cây cầu này, có khi còn bị ngã xuống
dòng sông máu, thì sẽ có Kim Long Ngân - con bò cạp, chó sắt, rắn đồng
đến cắn và làm anh ta bị thương.”
Trong tiểu thuyết Thanh lầu
mộng, hồi thứ ba mươi sáu có nói đến cầu sông Nại cao trăm trượng, rộng
chỉ có ba phân, giống như trên khe núi hẹp có kẹp một dây sắt, vong hồn
dù là thiện hay ác đều không dễ dàng đi qua nơi đây. Mà dưới chân cầu
lại là “ao máu bẩn”, ở đó có không biết bao nhiêu nam nữ bị chết chìm.
Đều là cầu sông Nại mà có đến bao nhiêu cách nói khác nhau, thật sự làm
cho người ta không biết phài tin vào đâu.
Nói đến nỗi băn khoăn,
đắn đo, chọn lựa, trong Hồi dương ký của Trần Thúc Văn có nói: “Vào
trong Quỷ môn quan liền nhìn thấy một cây cầu, nhưng trên cầu lại chia
làm ba con đường, trong số đó có một đường tên là “sông Nại”. Dòng sông
dưới cầu rộng khoảng hơn mười dặm, dòng sông ấy không được gọi với cái
tên “sông Nại”, mà lại định danh là “khổ hải”[18]. Rõ ràng kể chuyện về
ma luôn phải biết cách sáng tạo những điều mới lạ, có như vậy mới thu
hút được sự chú ý của người nghe. Nhưng nói về sáng tạo, mỗi người đều
tùy theo cảm hứng của mình mà viết thành chuyện, kết quả thường giống
như kéo của Vương Mã Tử, làm cho người đọc không biết phải theo ai, chỉ
cảm thấy tất cà những chiêu trò đó là lừa người mà thôi.
[18] Nghĩa là: biển khổ.
Ma ở thành Phong Đô canh giữ Trường Giang hầu như chưa bao giờ nghe nói về cảnh ở sông Nại. Sông Nại ở nhân gian phải đi đến chân ngọn núi Thái
Sơn để tìm kiếm, bởi vì thực tế thì muộn nhất là đến đời Nguyên - Minh,
con người đã quy ước sông Nại trở thành ký hiệu của âm phủ, còn tính vị
trí, cảnh quan dịch chuyển xuống chân núi rồi. Trong Tân biên liên tương sưu thần quảng ký - Hậu kỳ có đoạn viết:
Lý Cư vốn là người tài
ba vùng Vệ Châu. Ông là tướng quân triều Chu Thế Tông, có tài cưỡi ngựa, bắn cung, lập nhiều công lớn cho đất nước. Sau này ông mắc trọng bệnh,
nhiều người đến hỏi ông về bệnh tình, nhưng ông không nói, chỉ nói với
đám đông rằng: “Ta đã truyền lại cho tướng quân Nại Hà.” Nói xong, ông
ngừng thở. Hậu nhân lập đền thờ ông tại đây. Đến năm Khai Nguyên triều
vua Đường Huyền Tông, phong ông là Linh phái tướng quân, năm Đại Trung
Tường Phù triều vua Tống Chân Tông phong ông là Linh Hầu.
Cách
nói “Nại Hà tướng quân” là đời thứ năm cũng được, Tống Chân Tông phong
hầu cũng không có gì cần bàn cãi, tất cả những cái đó chỉ là do hậu thế
truyền miệng, nên tin tưởng hay không cũng cần xem xét kỹ lưỡng. Có thể
tin tưởng tuyệt đối có lẽ chỉ có người viết và biên tập Sưu thần quảng
ký là Tần Tự Phổ, người đời Nguyên mà thôi. Mà điều tra rõ hơn trong
cuốn chín, Đại sử cùa Chí Long, thực sự là có tìm thấy vị trí của sông
Nại:
“Miếu của Linh Phái Hầu nằm tại Châu Thành, phía đông con
sông Nại. Tên thần gọi tên cũ là Nại Hà tướng quân, đời sau thông Tuyền
Hầu.”
Sơn Đông khảo cổ lục của Cố Viêm Vũ cũng nhắc đến “Biện Nại hà”:
“Nhạc từ tây nam, có nước chảy từ trong cốc ra, thành kênh rạch phía tây, từ
đại dụ khẩu đến phía tây Châu Thành gọi là sông Nại, bên trái núi Cao
Lý, có cầu bắc qua, gọi là “cầu sông Nại”, truyền thuyết truyền từ đời
này sang đời khác nói về hồn ma người chết không được phép đi qua cầu
thì gọi là “Nại hà” (phải làm sao). Việc này cũng giống như Hán Cao Đế
nói “bá nhân giả, bách vu nhân dã” vậy.
Núi Cao Lý cũng chính là
Cao Lý Sơn, hiện tại núi Cao Lý nằm trong khu vực Thái An, giờ đã trở
thành công viên, từ bến tàu đi bộ theo hướng đông nam chỉ vài phút là
tới nơi. Bởi vì miếu Phong Đô đại đế ở đó đã bị thiêu hủy từ lâu, không
còn người đến đó để thăm quan, chiêm ngưỡng. Quả thực đến nay tôi cũng
chưa thực sự nhìn thấy cái gọi là ngọn núi phía bên trái sông Nại. Mà
Thái Sơn khai hợp vạn tượng, thư thái nghìn phương, ở đó cũng không cần
thiết phải dùng đến những thứ của ma giới để mời chào, có lẽ sông Nại và kênh Phong Đô, Vọng Hương Sầm dần dần rồi sẽ bị du khách lãng quên
thôi.
Nói về cầu ở sông Nại, trong cuốn Thiết địch hưởng tỏa ký, Lâm Thư - tác giả thời cận đại có viết:
Người Mãn (Phúc Kiến) cho rằng, muốn người chết được hưởng phúc dưới âm phủ
thì phải mời đạo sĩ đến làm lễ tưới rượu cầu phúc. Đến ngày thứ bảy
người ta lấy các tấm gỗ chống lên thành cây cầu, dưới cầu có đốt đèn hoa sen, bên trên gắn rất nhiều lọng mành, người ta gọi đó là cầu sông Nại. Người ta làm một hình nộm giấy tượng trưng cho xác người chết, sau đó
đặt hình nộm đó vào trong một chiếc xe giấy, con cháu dắt chiếc xe ấy
qua cầu, rồi đem hóa bên ngoài cổng. Sau đó, hỏi đạo sĩ làm như vậy
người chết sẽ được đi tới đâu, đạo sĩ đáp: “Cái đó thì ta chịu ”
Bác y đình
Lúc đầu xem mấy chữ “bác y đình” này lại cho rằng là để thuận tiện cho các
linh hồn cởi áo bên sông Nại mà lập ra một cái đình để che mưa che nắng. Nhưng một chữ “bác” lại làm cho người ta nghi hoặc, ví như cướp bóc,
bóc lột... hay đại loại như vậy, đều ám chỉ một bên mạnh ào đến chèn ép
một bên yếu. Vì thế nơi đây không đơn thuần là chỉ nơi hồn ma tự sửa
sang dung mạo của mình (hay chính là chỗ để hồn ma cởi bỏ trang phục),
mà nó giống như cách mà các đồ tể thường dùng để lột da. Mặc dù vậy, địa điểm của nó rất cụ thể và dễ bị phát hiện. Bác y đình này được khẳng
định cũng từ sông Nại mà ra.
Vong hồn trước khi đi vào âm phủ cần phải cởi bỏ trang phục, cách nói này đã từng được nói đến trong Tuyên
thất chí của Trương Độc, một học giả đời Đường. Và nguyên nhân của hành
động kỳ lạ đó thật không dễ dàng cắt nghĩa, có thể là cuộc đời một con
người, khi đến thì như con nhộng, còn khi đi thì lại không một mảnh vải
che thân, mà sau khi con người chết, xuống dưới âm phủ thì cũng chỉ là
linh hồn, con người có linh hồn nhưng quần áo thì không có hồn, vậy từ
lúc anh ta thoát khỏi cái vỏ đó thì linh hồn đã trở thành linh hồn không mảnh vải che thân. Nhưng bất luận thế nào thì đó cũng là cách nói của
dân gian về việc phải cởi bỏ trang phục trước khi qua sông Nại. Và cũng
chính từ cách nói này mà đến đời nhà Thanh lại biến thành cách diễn đạt
tinh tế hơn - “Bác y đình” dưới âm phủ. Cũng giống như việc những kẻ
phạm tội ở trần gian, khi vào tù cũng phải cởi bỏ quần áo của mình và
khoác lên quần áo phạm nhân. Điều này một cách vu vơ cũng có thể là
nguyên nhân để tạo nên “bác y đình” trong thời hiện đại. Trong Chỉ trung nhân ngôn của Thanh Trình Chỉ Tường, quyển hai, Ngô mưu có đoạn:
Quỷ tay sai dẫn Ngô Du thập điện, uy phong lẫm liệt, không cần phải đợi, mà cầu sông Nại, Bác y đình, Vọng hương đài đều đã được nhìn thấy.
Trong Bắc đông viên bút ký kế biên của Lương Cung Thần, quyển bốn, U du xác
ký[19] có ghi chép một câu chuyện kể lại sự việc tương tự như vậy một
cách cụ thể, tỉ mỉ hơn.
[19] Nghĩa là: ghi lại chuyến du lịch dưới âm phủ.
Nhìn thấy ngoài trung đường quần áo chất thành núi, người đứng bên cạnh nói
đây là Bác y đình, bất luận là có tội hay vô tội, quần áo mặc lúc lâm
chung đến nơi đây đều phải cởi bỏ hết.
Ở đây nói về Bác y đình đã có sự thay đổi, bất luận là có tội hay vô tội, chỉ cần là quần áo mặc
trên người thì đều phải cởi ra. Nhưng theo các trường hợp trước đây ở âm phủ, đó là nơi để bắt tù binh, không phải nơi tiếp đón của triều đình,
có lẽ là nơi chỉ để hỏi tội, hỏi phúc của hồn ma, bất luận họ là hoàng
thân quốc thích hay là bách dân trăm họ. Đương nhiên ý nghĩa của nó ở
đây là việc thay đổi phong tục tang lễ không để vượt cấp.
Thanh
lâu mộng, hồi thứ ba mươi tư lại đưa ra một cách nói hoàn toàn khác, ý
nghĩa của Bác y đình là để cho những linh hồn có tội mặc da cầm thú lên
người.
Đến đầu cầu Tiên, rộng đến mười phân, nhìn thấy ở giữa có
một ngôi đình, có rất nhiều người ở đó. Ấp Hương đến gần để xem, thấy
nhiều người đang vây quanh một người con gái đang giặt quần áo ở đằng
xa, trong khoảnh khác đã cởi sạch sẽ, trên người không mảnh vải che
thân. Ấp Hương nhìn thấy vậy, đột nhiên rất tức giận, nói: “Chốn âm phủ
thật là vô phép tắc, vì sao bắt một người con gái đoan trang lột bỏ hết
quần áo như vậy?” Quỷ tay sai đáp: “Nơi đây là Bác y đình, phàm những
phụ nữ ở trên dương thế không hiếu thuận với cha mẹ đều phải lột bỏ hết
quần áo, để cho họ thay phận đổi kiếp, đi làm súc vật.” Quỷ tay sai vừa
nói xong, thấy người con gái đó bò dưới đất, một tướng quỷ liền đem tấm
da dê đặt lên người cô gái đó, mặt người thân vật, kêu khóc thảm thiết.
Lại một tướng quỷ khác đem mặt của con dê ấn vào mặt của cô gái, rồi chỉ nghe thấy tiếng kêu của con dê, diện mạo xinh đẹp lúc trước đã không
còn.
Bất kể là người hay là ma, bị lột trần như nhộng đi qua công đường, chỉ cần nghĩ đến thôi cũng thấy bất nhã lắm rồi, cho nên phong
tục tang lễ ở một số nơi đã đưa thêm một điều khoản vào. Trung Hoa toàn
quốc phong tục chí, tập ba, Hồ châu vấn tục đàm cũng có đoạn ghi chép về Bác y đình như sau:
Tất cả mọi người sau khi chết đi đều phải đi qua đình này, nếu không sẽ bị ác quỷ lột bỏ. Về quần áo mặc lúc lâm
chung, người nhà khi tụng kinh niệm phật siêu độ cho người chết cũng có
câu: “Quần áo trên người của ngươi ở đâu mà có, quần áo trên người của
tôi ở nhà có, văn võ vá thái lâm, Quan Âm nương nương khai lĩnh làm vòng dây cài khuy áo, khi mặc đi rồi không quay trở lại.” Vừa mặc vừa niệm,
họ nghĩ rằng như vậy người chết sẽ không bị lột quần áo nữa.
Vẫn
còn một điển tích rất độc đáo không thể không nói tới ở đây, đó là trong tiểu thuyết chương hồi viết về hàng rào phòng vệ núi của Sơn Đại Vương, không hề có Bác y đình[20], không làm gì cũng bị “Ngưu tử” mổ lồng ngực moi tim. Việc làm này không biết có nhằm mục đích hòng đạt được linh
cảm từ dưới âm phủ hay không?
[20] Theo Thuyết nhạc toàn truyền của Tiền Thái, người đời Thanh, hồi ba mươi ba.
Vọng hương đài[21]
[21] Nghĩa là: đài cao nhìn về cố hương.
Vọng hương đài cũng là một trong những cảnh dưới âm phủ mà nhiều người biết
đến, tên gọi có ý nghĩa du nhập từ nhân gian vào. Vương Bột, người đời
Đường đã từng có lời thơ gợi nhắc: Cửu nguyệt cửu nhật Vọng hương đài,
với Đỗ Phủ thì đó là Cộng nghênh trung sứ Vọng hương đài, hay Giang
thông thần nữ quản, địa cách Vọng hương đài. Nói đến Vọng hương đài ở
Thành Đô, nơi Vương Dương Tú thời Tùy - Thục xây dựng nên, Ngô Dung, đời Đường có câu thơ: Thích liên hoang thú tần tần hỏa, thiên tuyệt khiên
vân vọng vọng lôi, tạc dã thu phong dĩ dao lạc, ná kham canh thượng Vọng hương đài, Trương Thuấn Dân, người đời Tống viết: Bạch cốt tự sa sa tự
tuyết, tướng quân hưu thượng Vọng hương đài. Nói đến Vọng hương đài ở
ngoài biên giới, truyền lại rằng xây dựng nơi đây là vì tướng quân nhà
Hán, Lý Lăng, cũng có nghĩa là lão võ leo lên một đài cao, vì leo lên
đài cao để hoài niệm về cố quốc, nên đặt tên là “Vọng hương đài”, nhưng
hoàn cảnh của ông ta như vậy là vì không có tiền để tự xây cho riêng
mình một vọng đài kiên cố.
Vọng hương đài này du nhập vào âm phủ
có thể là từ thời nhà Tống, nhưng cũng chưa chắc chắn lắm. Hồng Mại,
người thời Nam Tống khi viết cuốn Di kiên bính chí, quyển chín, Nhiếp
Bôn Viễn thi có ghi lại việc hồn ma của Nhiếp Bôn Viễn làm một bài thơ
thất luật, câu cuối cùng là: “Hồi thủ lâm xuyên quy bất đắc, u trung hư
khủng vương vọng đài.” (Nhiếp Bôn Viễn ở thời Bắc Tống những năm cuối
làm sứ giả đến nước Kim để cầu hòa bình, ông đã đem cả ngọn núi Tây Sơn
cắt cho Kim Lỗ, vì thế khi ông ta quay trở về, đi qua Giáng Châu, người ở Giáng Châu vô cùng tức giận, liền bắt ông ta kéo lên tường thành,
“quyết kỳ mục nhi phụ chi” rồi.) Nhưng “u trung hư khủng vương vọng
đài”, cần phải dùng cách đọc thơ để lý giải, cũng có thể nói là dùng câu chuyện Vọng hương đài của Lý Lăng, chưa hẳn lúc đó dưới âm phủ đã có
tục Vọng hương đài, nhưng dù thế nào đi nữa, thì ở đây đã có sự liên kết Vọng hương đài ở trần thế với âm phủ làm một.
Đến thời Nguyên,
Vọng hương đài đã chính thức có ở âm phủ, ngoài những vở Kinh kịch thời
Nguyên thường thấy nhắc đến ra, trong Thủy hử: “Răng cắn chặt, ba hồn
đến trong uổng (oan) tử thành, cuống họng khô rát, bảy hồn tập trung
trên Vọng hương đài”, nổi danh từ rất sớm cùng với uổng tử thành và trở
thành đại danh từ dưới âm phủ. Đến thời Minh Đại, Vọng hương đài thường
xuyên được gặp trong văn thơ, tiểu thuyết, và nổi tiếng nhất đương nhiên là Mẫu đan đình hoàn hồn ký, sau khi Đỗ Lệ Nương chết, linh hồn được
thần Hoa Lĩnh đưa đến Vọng hương đài, từ đó có thể nhìn thấy phụ mẫu ở
Dương Châu. Còn Tam bảo thái giám tây du ký, hồi tám mươi bảy, miêu tả
càng cụ thể, tỉ mỉ hơn:
Vương Minh đi theo Thôi phán quan, đi một hồi, chỉ nhìn thấy bên trái có một tòa đài rất cao, bốn phía xung quanh được xếp bởi đá, cao tầm mười trượng, hai bên trái phải là đường đi bộ, bên trái là đường lên, bên phải là đường xuống. Dưới đài có vô số
người, người đi lên, người đi xuống, người đi lên đều có tâm trạng ưu
phiền, người đi xuống thì nước mắt hai hàng. Vương Minh liền hỏi nhỏ:
“Tỉ phu, tòa đài kia có tên là gì? Vì sao có nhiều người ở đó khóc vậy?” Phán quan đáp: “Cậu cả, người có điều không biết, đa số người phàm trần khi chết, ngày đầu tiên đều tập trung ở miếu thổ địa nơi mình sinh
sống. Ngày thứ hai được giải đến miêu Đông Nhạc, gặp Thiên tề nhân thánh Đại Vương, đặt số trước. Ngày thứ ba mới đến chỗ chúng ta là Thành Đô
quỷ quốc. Khi đến đây, tâm của anh ta vẫn chưa chết. Diêm Quân vốn có
một hiệu lệnh, đồng ý cho anh ta lên trên đài này, hướng về phía quê
nhà, mọi người khóc một trận to, lúc đó tâm mới chết, vì thế tòa đài này có tên là Vọng hương đài.”
Lại có một Vọng hương đài khác do Địa Tạng Bồ Tát tạo ra, Bồ Tát vốn có tấm lòng nhân ái, đài này được dựng
lên cũng là vì thấy thương xót cho những hồn ma nhớ quê hương. Hồng lâu
phục mộng, hồi bảy mươi bảy có đoạn viết:
Chân phán quan chỉ đạo: “Nơi đây có tên thôn Cao Lý, Địa Tạng Phật từ bi tạo nên cao đài, chính là nơi mà gọi là Vọng hương đài. Những người phàm chết sau bảy ngày,
đến đài nhìn về phía quê nhà, cũng là kết thúc mọi việc của một đời, từ
đây sẽ biệt ly gia đình mãi mãi.
Chỗ này nói là Vọng hương đài ở
thôn Cao Sơn, đó là điều tự nhiên mà tác giả cuốn tiểu thuyết tùy ý cho
thêm vào. Nhưng rốt cuộc Vọng hương đài ở phương nào dưới âm phủ, ở mỗi
cuốn sách lại có cách nói khác nhau. Huyện Sơn Tây Bồ, miếu Đông Nhạc có Vọng hương đài, được đặt tại Bát điện đô thị Vương ở bên cạnh cầu sông
Nại. Đó chỉ là tính hình tượng hòng thu nhỏ cảnh quan lại, thu nhỏ một
cách tối đa có thể. Dự đoán đặt ở khu vực Bát điện (thập điện Diêm La ở
đó là nơi “tập hợp làm công chế”, năm vị ngồi vào một phòng rộng không
đủ ba mươi mét vuông, còn phải dành ra một chỗ để khảo vấn hồn ma), âm
phủ không thể không có Vọng hương đài, vì thế tìm một nơi đất trống đặt ở đó, thực tế cũng không nhất thiết phải đặt ở Bát điện.
Trong
Liêu trai chí dị có câu chuyện Canh thập bát, Vọng hương đài là nơi vào
cửa âm phủ, nhưng không yêu cầu tất cả hồn ma đều phải ở đó. Ở đây có
chút khác biệt so với người trần thế, nên có tên gọi là “tư hương địa”
thì cách nói này có vẻ hợp lý hơn:
Nhìn thấy có một đài cao,
người đến đó rất đông, kẻ lên người xuống, nghe người ta nói đây chính
là “Vọng hương đài”. Tập trung nhiều người ở đây, đứng lộn xộn chờ đến
lượt mình vào. Nếu có người chống lại thì hoặc bị đạp xuống, hoặc mất cơ hội lên đài. Chỉ khi nào đọc đến canh, thì mới được vào, số lượng mười
cấp, từ người đầu tiên cho đến người cuối cùng. Ngẩng đầu nhìn, cửa nhà, khuôn viên của gia đình đã ở ngay trước mặt. Nhưng bên trong nhà âm u,
giống như mây phủ, đau thương, buồn khổ đến khôn cùng.
Trong
Thuyết nhạc toàn truyền, hồi bảy mươi mốt cũng đề cập đến nội dung tương tự như ở Liêu trai, cả hai đều cho rằng: Vọng hương đài nằm trong Quỷ
môn quan, nếu nhảy xuống Vọng hương đài thì sẽ không thể quay lại trần
thế:
Hà Lập qua Quỷ môn quan, nhìn thấy một tòa đài cao, Hà Lập
hỏi: “Xin hỏi, đây là nơi đâu?” Người hầu nhanh nhảu đáp: “Đây chính là
Vọng hương đài.” Trong phút chốc đến trước đài, Hà Lập hỏi: “Ta lên trên nhìn một chút, không biết có được không?” Người hầu lại đáp: “Tôi đi
lên cùng ông.” Hai người lên trên đài, Hà Lập nhìn một chút, quả nhiên
là thành Lâm An ở ngay trước măt. Người hầu hỏi: “Ông nhìn thấy quê nhà
rồi, sao còn không đi về?” Có người chen lấn ở phía sau, Hà Lập chỉ kịp
kêu lên một tiếng rồi trượt chân ngã xuống đài, bỗng nhiên bừng tỉnh,
thì ra đó chỉ là giấc mộng, một cơn ác mộng!
Trong Ngọc lịch bảo
sao cũng có nhắc tới Vọng hương đài, nhưng việc sắp xếp Vọng hương đài
thật không hợp tình, hợp lý. Đã đem đài đặt ở Ngũ điện Diêm Vương, đồng
thời lại không phải tất cả các hồn ma đều được phép đi vào:
Ngũ
điện Diêm La Vương thiên tử nói, hôm nay đến bổn điện, quỷ phạm tội, tạo nghiệp chướng, chuyên làm việc ác, không cần phải nhiều lời. Ngưu đầu
mã diện, dẫn ra cao đài nhìn một chút là được. Thiết kế đài này có tên
gọi “Vọng hương đài”, mặt giống như cái lưng còng, nhìn về ba hướng
đông, tây, nam, độ cong tám mươi mốt dặm, đằng sau giống như dây cung.
Ngồi bắc kiếm thúc làm thành, đài cao bốn mươi chín trượng, xây sáu mươi ba bậc, người hiền lương không đi vào đài này, có công hai bình, nhưng
đã chết, chỉ có ác quỷ, đứng từ đó nhìn về cố hương rất gần, có thể nghe thấy giọng, nhìn thấy hành động của người thân, từ người già đến trẻ
nhỏ, từ nam đến nữ, thấy họ không thực hiện di chúc, không dạy dỗ được,
khổ vì tranh chấp tài sản, nam thì muốn lấy vợ mới, nữ thì muốn đi lấy
chồng khác, tài sản ruộng điền bị che giấu, phân chia bè phái...
Đằng sau vẫn còn rất nhiều, đại ý là gọi đám tội hồn xem tình cảnh gia đình
mình sau khi mình chết, nhà tan cửa nát, sau khi để họ phải chịu cực
hình trên cơ thể, trong lòng lại chịu thêm một lần giày vò nữa. Tâm lý
tác giả Ngọc lịch bảo sao có vẻ có chút biến thái, chuyên dùng cách
khủng bố nhân thế làm nhiệm vụ của mình, đối với việc cải tạo Vọng hương đài cũng vậy. Nhưng nhân gian cũng có biện pháp để đối phó. Trung Hoa
toàn quốc phong tục chí, trong phần Thọ xuân mê tín lục có nói: “Người
chết sau ba ngày lên Vọng hương đài cấm người nhà khóc lóc. Tục cho rằng người chết không biết vì sao mà chết, đi đến Vọng hương đài mới biết
mình đã làm quỷ, nếu khóc lóc sẽ làm cho người chết càng đau khổ hơn.”
Trên thực tế, người nhà khóc ròng ba ngày liền, nếu không thay đổi chút
không khí thì cũng không chịu nổi!
Ác cẩu thôn[22]
[22] Nghĩa là: thôn chó dữ.
Nói về chuyện ác cẩu dưới âm phủ, xuất hiện sớm nhất có lẽ là ở lời dẫn
trong tập Di kiên chí bổ, đem hai con ác khuyển đứng canh giữ bên cạnh
cầu sông Nại. Căn cứ vào nguồn gốc từ thần thoại Ấn Độ, Diêm Vương vốn
có bốn mắt khuyển, nhưng ở cổng âm phủ lại thường có ác cẩu canh cổng,
đó mới là điều quan trọng. Sau này, do trạm kiểm soát của cầu sông Nại
bị tháo dỡ, ác cẩu thất nghiệp, không có nơi nào để ở, liền được đem đến nuôi tại thôn ác cẩu, để nó tự tìm kế sinh nhai.
Thôn ác cẩu chỉ gặp trong tiểu thuyết thời nhà Thanh, nhưng trong các tác phẩm lại có
cách nói không thống nhất. Trong đó, câu chuyện được nhiều người biết
đến nhất là Thuyết nhạc toàn truyền của Tiền Thái, người sống ở đầu đời
Thanh, hồi thứ bảy mươi mốt có đoạn viết về việc làm thế nào để xuống âm phủ:
Gặp cảnh gió bão thê thảm, mây đen kéo đến ùn ùn, nghe nói
trong một làng kia có ác cẩu, hình dáng giống như sói, tính tình thì
hung dữ như hổ. Nếu thấy quỷ tay sai áp giải những người phạm tội đi
qua, chúng sẽ lao lên mà cắn, có người bị cắn mất tay, cũng có người bị
cắn mất bụng... Chứng kiến cảnh tượng ấy chẳng ai không run sợ mà bám
chặt lấy người đi cùng, vừa đi vừa cầu khấn cho qua nhanh thôn ác cẩu.
Trong cuốn Hồng lâu mộng, hồi mười bảy có đoạn viết: “Giả mẫu đi chơi ngắm
cảnh ở thôn ác cẩu, Phong tỷ tỷ hướng về phía Vọng hương đài mà ngắm
nghía với vẻ rất tò mò.” Trong chuyện có nhắc đến thôn ác cẩu nhưng có
vẻ như không có gì đáng sợ cả, ngược lại, còn tạo cho người đọc cái cảm
giác giống như đang đi du lịch trong vườn thú vậy.
Khi mọi người
đang xem rất vui vẻ, bỗng từ trong ngôi nhà tranh có một con chó chạy
ra. Con chó này từ trước đến giờ chưa gặp những người này bao giờ, nó
đứng từ đằng xa sủa lên, chó nhà này sủa sẽ làm cho chó của các nhà khác nghe thấy, cũng chạy ra ngoài đường mà sủa theo, chỉ một lát đã tụ họp
cả trăm con chó to, bao vây Giả mẫu đang đứng đợi ở cây cầu. Giả mẫu và
Phong tỷ tỷ đều cảm thấy vô cùng sợ hãi, Giả Châu liền gọi người đem
những chiếc bánh bao đã hấp sẵn tới, có khoảng hai trăm chiếc, ném ra
khắp tứ phía cho chó ăn. Những con chó đó lập tức đi tranh giành đồ ăn
và không còn sủa nữa. Giả mẫu hỏi: “Các ngươi chuẩn bị sẵn những chiếc
bánh bao hấp, thì ra biết ở đây có chó à?” Giả Châu đáp: “Nơi đây có tên là thôn ác cẩu, vốn là địa danh có tiếng, nếu muốn đi qua đây thì phải
chuẩn bị sẵn đồ ăn, nếu không thì cho dù có đánh, có quát nó cũng sẽ
không sợ, nếu đánh nó nhiều quá, nó sẽ xông lên cắn lại. Ở đây vốn là
nơi có phong cảnh đẹp nổi tiếng và có tên gọi là “ác cẩu thôn đạp
thanh”, một trong tám cảnh đẹp ở dưới chốn âm phủ này.”
Mang tâm
thái của người đang say sưa hòa mình vào những trò chơi dân gian thuở
xưa mà viết thành thơ, thành truyện nhưng bên trong lại phản ánh về một
đám tang truyền thống của đời Thanh, Trung Hoa toàn quốc phong tục chí
đã cho thấy sự sinh động, hấp dẫn khi đề cập đến một phong tục trong đám tang ở Nam Kinh và trong đó có nhắc đến một đặc sản độc đáo là “bánh
đánh chó”: “Tục truyền rằng người chết nhất định phải đi qua thôn ác
cẩu, nhất định phải đeo bảy tấm long nhãn vào cổ tay, mặt quay về phía
cầu là được. Làm theo phong tục này, sẽ tránh bị ác cẩu cắn.” Những
chiếc bánh đánh chó này ở nơi khác có thể là bánh bao, chính là những
thứ mà Giả Châu chuẩn bị khi đi qua nơi đây.
Có sách nói đến việc đi qua thôn ác cẩu, ngoài việc gặp ác cẩu còn có “Loạn quỷ trang”, tức
là có một đám quỷ đói lôi kéo đồng bọn đến đòi tiền, ở đây chúng tôi xin phép không nhắc đến vấn đề này, tránh việc độc giả liên tưởng, cho rằng đó chỉ là một vài chiêu trò để thu thêm tiền vé vào cửa khu du lịch.
Phá tiền sơn
Lang tích tam đàm của Lương Chương Cự, quyển bốn có viết về việc dưới âm phủ có “Phá tiền sơn”, nhưng câu chuyện mới chỉ dừng lại ở chỗ gợi nhắc ra
sự việc mà chưa dụng tâm trong việc giải thích cụ thể hơn:
Phục
dẫn linh nữ đi thăm địa phủ, người phàm có nghe đến dao sơn hàn lạnh,
kiếm gỗ giường sát, gặp một chiếc cối giã gạo, nước chảy đá ép đó là
những tầng địa ngục, lại như Quỷ môn quan, Vọng hương đài, Mạnh bà quán, Phá tiền sơn... không có nơi nào là không đi qua.
Dung Nột, văn
nhân thời nhà Thanh trong tác phẩm Chỉ văn lục, quyển năm, Tất phát có
giải thích về việc dùng Phá tiền sơn, đồng thời cũng nhắc đến một nơi
gọi là Lạn ngân sơn khác:
Dưới âm phủ dùng giấy làm tiền, cũng
giống như ở trần gian người ta dùng đồng đúc tiền vậy. Tiền ở trần thế
có to, có nhỏ, tiền dưới âm phủ cũng có đẹp, có xấu. Trần thế tạo ra
tiền, đồng bảy chì ba, và có thể cho vào lò tái chế, tiền dưới âm phủ là do người trần thế tạo ra, nếu như tiền bị rách, nát, đồng thời giấy
nhiều, thiếc ít, bạc thỏi, tuy có hóa nhiều tiền vàng xuống, nhưng dưới
âm phủ không dùng đến, tiền sẽ bị bỏ vào Phá tiền sơn, bạc thì được bỏ
vào Lạn ngân sơn. Mà vàng thỏi, bạc thỏi trong nhân gian, dưới âm phủ
cũng như vậy, nhưng màu sắc khác, thỏi bé tính làm ba phân, thỏi nhỡ
tính làm năm phân, thỏi to cũng chỉ là một đồng tiền mà thôi.
Thì ra những cảnh đó cũng chẳng khác nào đống rác có màu sắc chói lóa của
tiền vàng, chuyên dùng để tích lũy những đồng tiền, thỏi bạc mà trên
trần gian hóa xuống nhưng không hợp quy cách. Những thứ đó ở trên trần
thế hóa thành bụi, đến âm phủ đều biến thành bạc, đồng, nhưng do tình
trạng bị rách nát, hoặc do thành sắc không đủ, không thể lưu hành trên
thị trường thì đều trở thành phế phẩm, vì vậy cũng có thể coi những thứ
phế phẩm chất thành đống này là kho nguyên liệu. Dưới âm phủ có một bộ
phận chuyên đúc tiền cho các quan lớn trên trần thế, nguyên liệu có thể
được lấy từ Phá tiền sơn.
Trong Độc dị chí của Lý Nhũng có kể một câu chuyện như sau: Tể tướng Lô Hoài Thân không mắc bệnh mà chết, con
cái của ông vô cùng đau đớn, thương xót, khóc than thảm thiết. Phu nhân
của ông là bà Thôi thị, vì
không muốn thấy các con mình quá đau
khổ, liền nói: “Ta biết, số của lão gia nhà ta vẫn chưa tận, bởi ông là
một người thanh liêm chính trực, rất nhiều người hối lộ cho ông, mà ông
không hề tơ hào lấy một đồng. Còn có người tên Trương Thuyết cùng làm tể tướng như ông, hắn ta nhận hối lộ nhiều đến mức của cải có thể chất
thành núi, nhưng hiện tại vẫn sống khỏe mạnh. Trương Thuyết không chết
mà lại bắt lão gia nhà chúng ta chết trước, ông trời đúng là không có
mắt thật rồi!” Khi màn đêm buông xuống, Lô Hoài Thân quả nhiên sống lại, nói: “Phu nhân à, lý do không phải như vậy đâu, dưới âm phủ có đến ba
mươi cái lò lớn, không phân biệt ngày đêm, họ không ngừng không nghỉ đúc tiền bạc cho Trương Thuyết, bản thân tôi đến một cái cũng không có, làm sao có thể so bì với họ được chứ!” Nói rồi dặn dò phu nhân, ông liền
nhắm mắt và vĩnh viễn không bao giờ tỉnh lại nữa.
Nghe những câu
chuyện như vậy chắc hẳn sẽ khiến cho nhiều người hả hê, đắc ý. Nếu như
tiền bạc trong nhà tham quan có được là do dưới âm phủ tạo ra cho ông
ta, vậy thì lai lịch số “tài sản bất minh” kia cũng không cần phải truy
cứu làm gì nữa. Từ trần gian hóa vàng hối lộ âm phủ, dưới âm phủ lại đúc tiền cho quan tham trên trần gian làm âm phúc. Cách rửa tiền vô cùng
sạch sẽ, kiểu hai bên cùng có lợi, thật là một điều quá diệu kỳ.
Huyết ô trì[23]
[23] Nghĩa là: ao máu bẩn.
Huyết ô trì còn có tên huyết hà trì, bắt nguồn từ “huyết hà”[24] trong kinh
Phật. Trong Phật thuyết hóa thủ kinh, quyển bảy có ghi lại: “Người chết
hóa thành bốn ao máu lớn, bên trong đầy máu, và ao bên cạnh chảy bốn
dòng sông máu.” Việc này không liên quan đến địa ngục, vào cuối đời
Đường, trong Lăng nghiêm kinh, quyển tám cũng dẫn ra một câu chuyện:
“Câu chuyện có huyết hà, khôi hà, nhiệt sa, độc hải, dung đồng, quan
thiệt chí sự.” Trong đó huyết hà đã trở thành một cực hình dưới địa
ngục. Trong Chính pháp niệm xử kinh, quyển mười có nhắc đến một việc:
gọi to mười sáu xứ nhò dưới địa ngục, cái thứ sáu có tên “Huyết hà
phiêu”, đồng thời những người vào địa ngục là người tự làm hại bản thân
mình và tu hành ngoại đạo kiểu như “đi vào trong rừng, chân treo lên
cành cây, đầu dốc xuống dưới, dùng dao bổ mũi, hoặc tự đập vào trán
mình, tự làm chảy máu mình rồi dùng lửa đốt máu, hy vọng sẽ được thăng
thiên”. Những kiểu người tu theo đạo đối xử tàn nhẫn với chính mình,
nhưng cuối cùng vẫn không đắc đạo thành tiên mà ngược lại còn “bị nhốt
vào nơi dành cho kẻ ác, rồi đến huyết hà phiêu dưới địa ngục, chịu nhiều khổ cực”, đều thật là ngu muội.
[24] Nghĩa là: sông máu.
Nhưng không biết bắt đầu từ khi nào, chốn địa ngục này khi du nhập vào Trung
Quốc biến thành nơi dành riêng cho phụ nữ. Lương Cung Thần, người thời
nhà Thanh trong cuốn Bắc đông viên bút lục kế biên, quyển năm, Phật mẫu
háo đạo có viết: “Trước tiên sẽ gặp dòng sông máu mênh mông không thấy
bờ bến, có vài người phụ nữ hoặc ngâm mình trong nước, hoặc đang đầu tóc bồng bềnh, hoặc nằm nghiêng người để ngủ, máu chảy vây quanh thân
mình.” Những người phụ nữ này phạm tội gì mà bị rơi vào dòng sông máu,
điều này thật không dễ nói. Nhưng trong Tử bất ngữ của Viên Mai, quyển
hai mươi hai, Ngô sinh lưỡng nhập âm phủ có trích dẫn một đoạn, từ đó ta có thể lý giải phần nào nguyên nhân xảy ra sự việc này. Trong một thời
gian rất dài, con người cho rằng phụ nữ bị vào dòng sông máu bẩn là vì
người phụ nữ đó từng sinh con, trong câu chuyện này, Viên Mai mượn lời
nói của một cụ bà để phản bác:
Ngô hỏi: “Nương tử của tôi chưa hề sinh con, hà tất phải vào nơi đây?” Cụ bà đáp: “Trước đây ta đã nói rõ, ao này không phải để cho những người từng sinh con đến. Sinh con là
điều thường tình ở nhân gian, hà cớ gì phải chịu tội!”
Cách nhìn
sai lầm đã bị Viên Mai phản bác, trong Đàm chân dật sử cũng có một bản,
hồi sáu trong sách nói, người phụ nữ sinh con, bản thân đã có tội “huyết chủng tam quang”, còn nếu khó đẻ mà chết, thì tội cộng thêm tội: “Lúc
đó oan nghiệt theo người, linh hồn phải chịu tội, Diêm Vương lão tử rất
lợi hại, tra trong cuốn nghiệt bạc, gọi những tên quỷ đầu trâu mặt ngựa
dẫn vào ao máu bẩn, không được lộ đầu. Lại có chim ưng và rắn đến mổ, có ác khuyển đến cắn.” Cũng đều là máu trong cơ thể con người, nhưng máu
từ dưới cơ thể của người phụ nữ chảy ra là loại ô uế, thậm chí còn có
chút tà lực và đó chính là lý do vì sao mà mặt trời không được sáng chói như trước nữa cũng là kết quả của “huyết trung”. Cách nhìn sai lầm của
các thầy mo hầu như có liên quan đến tính thần mật của đạo học. Đạo học
lưu đến hạ tầng, thì thường sẽ sinh thành yêu nghiệt, trong mắt họ, phía dưới cơ thể của phụ nữ có một lực ô uế rất lớn, không những có thể làm ô nhiễm môi trường, làm tam quang mất màu, mà trên chiến trường vào thời
đó có thể làm vũ khí hồng dịch đại bác của đạn nguyên tử mà biến thành
câm. Đầu đời nhà Thanh, Đổng Hàn cũng nhắc đến điều này trong cuốn Tam
phong thức lược:
Trước tiên là cầm chân kẻ xâm lược ngoài thành,
trong thành được bảo vệ hết sức cẩn thận, dùng lực tấn công ba lần,
nhưng không thể khắc phục được. Kẻ địch yếu thế, tìm kiếm hàng trăm
người phụ nữ, để lộ bộ phận dưới thân, đặt lộn đầu lại, hướng về phía
cổng thành trêu ghẹo, rồi nói: “m môn trận ”, pháo trên thành đều không
thể nổ được. Trần Vĩnh Phúc tướng quân vội vàng tìm tăng nhân, thuật lại chuyện xảy ra, lệnh xích thân lập trận đối khâu, và nói "dương môn trận ”, pháo của kẻ địch đúng là phải lùi lại phía sau không dám bắn nữa.
Cách đấu âm dương giữa quan và “phỉ” đều cùng một sư truyền. Đồng Hàn còn
nói: “Sau đó đám cướp còn dùng lại vài lần cách đánh này, và thường rất
linh nghiệm.” Qua đó có thể thấy, uy lực của các thầy mo trong nhân gian nhiều khi cũng khiến cho đại phu tin tưởng.
Nhưng còn kiểu người đần độn bỗng chốc quên mất chính bản thân mình thì bắt đầu từ đâu mà
có. Rõ ràng đó chỉ là số ít và những người như thế chỉ nói ra những lời
nói ngu muội, vậy là truyền thuyết về dòng sông máu bẩn chuyên dùng làm
nơi dành cho người phụ nữ đã sinh con cũng không còn hợp thời nữa. Từ
đây lại xuất hiện một cách nói khác, tất nhiên vẫn là nơi lập riêng cho
phụ nữ. Như trong Tề công toàn truyện, hồi một trăm năm mươi lại cho
rằng:
Những người phụ nữ này, có người không kính bố mẹ chồng, có người không tiếc ngũ cốc, có người không tín thần phật, có người không
tôn trọng chồng... sau khi chết đều phải vào ao bẩn uống máu.
Còn Viên Mai thì cho rằng, phải vào ao máu bẩn là những người phụ nữ có hành động độc ác, tàn nhẫn với tì thiếp:
Đi đến một nơi, gặp một vũng máu lớn, người phụ nữ ở bên trong đang khóc
than ai oán. Thường nói: “Đây là nơi Phật gia tạo ra có tên gọi “huyết ô trì”. Những người vào ao này là những người lúc sinh thời đã rất độc
tàn với tì thiếp, phàm là những tì thiếp già gặp máu không ngưng, thì
đều vào từ này.”
Theo như Kỳ Vân giải thích trong Việt vi thảo
đường bút ký, quyển chín: “Có người ra đi một cách bất thường, đến cõi
âm hỏi âm sứ, nhân gian niệm tụng “huyết bồn kinh sám”[25], có tác dụng
gì không? m sứ một mực phủ nhận, trong cõi âm không hề có ao máu bẩn,
cách nói về dòng sông máu hoàn toàn là lừa bịp, mục đích là để lừa tiền
của phụ nữ.”
[25] Nghĩa là: đọc kinh sám hối bồn máu.
Kẻ
nói điều này chủ yếu là nói với những người phụ nữ cả tin, mà phụ nữ thì không tránh khỏi việc sinh con đẻ cái, lại tưởng rằng như vậy là có
tội, mà có tội thì không thể không xám hối, và có bao nhiêu tiền tài đều ra sức làm công đức hết thảy.
Trong Ngọc lịch bảo sao lại có
nhiều cách lập luận rất hoang đường, trái với đạo lý, duy nhất có việc
này là có vẻ hợp tình hợp lý hơn cả, thậm chí cả đàn ông cũng nói vào ao máu, đương nhiên bên trong vẫn có không ít những lời nói ngu muội:
Lập ra cái ao bẩn này, bất luận là nam hay nữ, phàm khi ở trần thế không
chăm thần trước phật sau, không kiêng nhật thần, như là ngày Mười bốn,
Mười lăm tháng Năm, ngày mồng Ba, Mười ba tháng Tám, mồng Mười tháng
Mười, vào những ngày này nam nữ phạm điều giao cấu, thần sẽ giáng bệnh
nặng mà chết, sẽ phải chịu nỗi khổ dưới địa ngục, không ngóc đầu lên
được. Và nam phụ mà giết, máu chảy thần bếp, phật miếu đường kinh điển
là dùng giấy ấn dấu lên, tất cả để lên trên vật tế lễ, chịu qua những
khổ cực dưới âm phủ, được giải vào ao máu, vẫn không dễ dàng được xuất
đầu lộ diện.
Du Việt trong cuốn Hừu đài tiên quản bút kỷ, quyển
năm lại nhắc đến một cách nói mới. Du Quân là người ra đi bất thường
thuật lại: “Ao máu bẩn chuyên trị nam tử. Phàm là người đàn ông cưới một vợ, không phải vào ao này, lấy người thứ hai sẽ bị vào ao này một lần,
cưới ba lần, vào ao này hai lần. Nếu như là người có thiếp, xem số thê
thiếp mà biết số lần mình phải vào ao máu.” Để ao máu bẩn biến thành địa ngục của những kẻ lắm thê nhiều thiếp, vị Du Quân tiên sinh ra đi một
cách bất thường này có quan niệm về nữ quyền, rất giống như trong những
lời nói bóng gió của tác giả Du Lý Sơ trong Quý tị tồn cảo. Du Việt cho
rằng, cách nói của vị bổn gia là “những người háo sắc có thể cai và sẽ
không bị như vậy”. Quà nhiên không hổ thẹn là đệ tử của Tăng Quốc Phiên, đưa ý kiến của mình nói với âm phủ để sửa đổi, cải tiến cách dùng ao
máu bẩn, chuyên dùng để trừng trị những kẻ ngoại tình, và những kẻ cùng
nhau chạy trốn, những kiểu không có mai mối theo phong tục tập quán, bất kể là nam hay nữ, đều phải vào đó.
Có người nói dưới âm phủ
không có ao máu bẩn, thực tế là có, chuyên để trừng trị những đôi nam nữ không tuân theo lễ nghĩa, có quan hệ bất chính ngoài vợ chồng, tất cả
đều phải vào ao máu.
Ao máu bẩn lại trở thành một hình phạt dưới
âm phủ, vì thế nó ở gần điện Diêm Vương. Nhưng cách nói xuất hiện sớm
nhất lại không phải như vậy. Ở đoạn trước chúng ta có giới thiệu về sông Nại, có sách thì nói ao máu bẩn ở ngay dưới chân cầu sông Nại, chỉ cần
trượt chân ở trên cầu là rơi vào ao này, và không phân biệt nam - nữ,
thiện - ác. Nghe nói ao máu bẩn ở quỷ thành Phong Đô cũng như vậy, nhưng chỉ là nước nông hơn một chút, bẩn thì có thể, còn máu thì tuyệt đối
không có.
Mạnh bà quán
Mạnh bà quán là quán trà nơi chuyên cung cấp canh mê hồn. Tên quán như vậy là do tên của chủ quán là Mạnh
bà, còn tên trà cũng giống như “cẩu bất lý”[26] và lấy tên của người để
đặt cho tên đồ uống, gọi là “canh Mạnh bà”. Đây là quán mà hàng trăm năm nay chưa có bất cứ ai dám giả mạo tên hay ăn cắp thương hiệu cả.
[26] Nghĩa là: chó không đế ý tới.
Từ rất nhiều năm trước đây, trong các câu chuyện thần thoại Hy Lạp đã có
khái niệm “vong tuyền”, hoặc gọi là “vong xuyên”, nhưng canh Mạnh bà ở
Trung Quốc thì cho đến mãi sau này mới xuất hiện, chính xác là phải đến
thời đại nhà Minh, người ta mới bắt gặp có sách viết về vấn đề này và
điều này thật sự làm cho người ta cảm thấy xấu hổ. Nhưng trước khi xuất
hiện thứ canh mê hồn này thì đã có những cách nói khác nhau về trà dưới
âm phủ và trên trần thế. Vì sao lại có sự không đồng nhất trong cách nói như vậy? Bởi vì có người mặc dù đã xuống âm phủ rồi nhưng vẫn chưa được hoàn dương, cho nên không thể uống trà dưới âm phủ được. Bởi một khi đã uống vào rồi thì không bao giờ có thể quay trở về trần gian được nữa.
Trong tập Thái bình dị ký, cuốn ba trăm tám mươi lăm có tên gọi Huyền
quái dị viết: Thôi Thiệu sau khi đến âm phủ, được vị Vương phán quan đến gặp mặt. Khi có người mang trà tới, vị phán quan nói: "Đừng uống, đây
không phải là trà ở nhân gian đâu!” Cuốn thứ tư, Trương Văn Quy trong Di kiên ất chí cua Hồng Mại thời Nam Tống nói rõ ràng, cụ thể hơn về vấn
đề này như sau: “Có những thứ nước đặc biệt mà người mới đến nhất định
không được uống, uống vào rồi sẽ không thể trở về trần thế được.”
Dưới âm phủ, không những trà không được uống mà các loại thực phẩm khác cũng không thể ăn. Và lý do của nó có thể được giải thích một cách đơn giản
như sau, thức ăn dưới âm phủ là từ trần gian mà có, mà những thứ đồ cúng khi chôn cất nhất định sẽ bị biến chất, bị thối nát, thậm chí nó có thể biến thành một đống bùn nhão. Những thực phẩm thối nát này cũng giống
như áo quần bị rách vậy, nhìn theo một khía cạnh nào đó thì ở dưới âm
phủ nó lại rất tươi ngon. Linh hồn còn sống dưới âm phủ ăn những đồ nhìn thì còn rất tươi này, nhưng sau khi trở về trần gian, những thứ thối
nát mà ta mang theo trong bụng từ âm phủ trở về cũng sẽ “hoàn trần”, và
thế là dù không chết thì ta cũng sẽ mắc trọng bệnh. Đối với việc uống
trà mà nói, đáng ra không cần phải để ý đến những vấn đề này, nhưng cũng không thể để linh hồn còn sống uống được, sẽ bị cháo nóng làm bỏng môi, nhìn thấy đậu phụ thối thì cũng phải thổi qua đã chứ! Nhưng trên thực
tế, những cái gọi là ngoại lệ cũng không phải là ít, trong đó có truyền
thuyết kể về việc một hồn ma sống uống đồ uống. Cuốn Vương Quốc Lương
trong tập Kế huyền quái lục của Lý Bá Ngôn, người đời Đường viết, dưới
âm phủ có một loại nước, chuyên cung cấp cho những người chỉ tạm thời
đến âm phủ, nhưng vẫn phải quay về trần gian. Bởi vì sau khi uống, họ sẽ không quên những gì mắt thấy tai nghe ở âm gian, để sau này khi trở về
trần thế rồi, việc lớn việc bé ở âm gian đều không được lãng quên, đặc
biệt là sự tuyên truyền về việc bị quả báo dưới âm phủ, để khuyên răn
người ở trần gian. Thật là tuyệt vời, bởi dưới âm phủ có loại trà uống
vào có thể chống lại việc mất trí nhớ, và tất nhiên cũng có loại trà làm phai mờ ký ức, khi nào cần sử dụng thì có thể tạo ra được ngay.
Ngoài ra cũng có những ghi chép liên quan đến canh mê hồn, như cuốn thứ nhất
Ký tiền sinh[27] trong tập Hà thượng chử đàm có nói, có thể nói đây là
những ghi chép sớm nhất mà chúng ta có được.
[27] Nghĩa là: ghi nhớ lúc còn sống.
Có một kẻ tôi tớ khoảng mười hai, mười ba tuổi tự nói rằng kiếp trước là
con của Hoài m Dân, có tên là Tiểu Khuê Tử, chết năm lên chín tuổi, khi
chết thì mọi người đều ra một chỗ, nam nữ tụ họp, tất cả đều uống canh,
chỉ có một mình cô là trẻ con, nên không có đồ để uống. Sau đó, do cố
với một cái đồ sành, cô bị ngã xuống dưới đất, phải đi ra ngoài và không được uống nữa. Chính vì vậy mà sau khi được đầu thai trở lại nhân gian, cô mới nhớ được mình là con của gia đình Hoài m Dân. Năm ba tuổi, phụ
thân bế cô đi đến một cây cầu mua bánh thì cô gặp lại phụ thân từ kiếp
trước của mình, liền chìa tay ra và nói: “Con là Khuê Tử”, nhưng phụ
thân không thể nhận ra cô. Cô vẫn luôn cầu mong được quay về nhà để gặp
mẫu thân, và sau khi kết nối các sự việc từ kiếp trước thì ra hai gia
đình lại có chung một con.
Loại canh mà mọi người uống đó chính
là canh mê hồn, chỉ là không nói tên của món canh đó mà thôi. Không có
việc bắt buộc phải uống canh, nhưng hầu hết các hồn ma đều muốn uống, vì thế chỉ có những kẻ cố chen vào mới có thể uống được, mà canh mê hồn là khi chuẩn bị đầu thai chuyển thế mới uống, cũng rất hợp tình hợp lý,
không giống như những truyền thuyết trong dân gian, họ cho rằng con
người sau khi chết đi, xuống đến âm phủ thì phải uống canh mê hồn trước, thế nên sau khi uống canh này xong, ngay cả bản thân mình là ai cũng
không biết chính xác, thì làm sao còn có thể đi đến thập Vương điện, qua từ đường được đây? Cái cách nghĩ khi xuống dưới âm phủ là phải uống
canh đó chỉ có thể gặp ở tiểu thuyết, điển hình nhất là Tam sinh trong
Liêu trai chí dị.
Lưu Hiếu Liêm có thể nhớ được những việc ở kiếp trước của mình. Ông ta nói rằng một đời làm quan, đã làm nhiều việc
thất đức, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của mình, chết vào năm sáu mươi hai tuổi. Lần đầu tiên gặp Diêm Vương, ông ta được đối xử giống như lễ của
Hương tiên sinh, cho phép được ngồi và được uống trà. Nhìn màu sắc trong cốc của Diêm Vương có sự thay đổi khác thường, ám chỉ đó là canh mê hồn không nên uống, Dư U Vương tương kế tựu kế cầm chén quay vào một góc
nào đó rồi đổ đi.
Cuốn Hồi dương ký cùa Trần Thục Văn cũng có đoạn viết:
Khi trời bắt đầu tối, quỷ sẽ chui ra từ nóc, nhưng lại đi về phía âm phủ,
cái này rõ ràng là quả báo. Bỗng nhiên thấy bốn thần thổ địa dẫn Dư đi
và dặn rằng: “Lần này đi có ba con đường, nhà ngươi cần phải đi đường ở
giữa, hai con đường còn lại không phải nơi thích hợp để ngươi đi, trên
đường đi có canh không được uống, có cầu không được qua, nếu ngươi phạm
phải ba lỗi trên, ngươi sẽ không được sống trở lại nữa.” Dư đáp: “Vâng.” Trên đường đi quả nhiên có một bà lão đang bố thí canh, mùi thơm của
canh vô cùng hấp dẫn, có rất nhiều người dừng ở đó uống canh. Dư đi đến
nơi quả nhiên cũng được mời uống canh, Dư liền hất xuống đất. Quỷ liền
đến đánh, bà bà nói: “Đây là của tam thế ban tặng, không được đánh.” Và
thế là Dư may mắn thoát nạn.
Bà lão bố thí canh ở đây họ Mạnh, mà uống canh trước khi vào Quỷ môn quan là điều không hợp tình hợp lý.
Hồi thứ năm trong Kế Kim Bình Mai, tên của món canh mê hồn này bắt đầu có
và còn xuất hiện Mạnh bà: “Thì ra cơm rượu cùa Mạnh bà là canh mê hồn,
ăn xong thì lập tức hôn mê, kể cả người thân của mình cũng không nhận ra được.” Tác giả Đinh Xán Khang là người cuối đời Minh, đầu đời Thanh, vì thế nếu không nhầm thì chúng tôi đều cho rằng cách nói về canh mê hồn
này bắt đầu xuất hiện từ cuối thời Minh.
Trước đây có hai cách
nói về Mạnh bà bà, đó là Mạnh bà bà chính là thần tại Phong thần và
Thuyền thần, ơ đây, Mạnh bà bà không phải là kiêm cả Phong thần, Thuyền
thần, mà là do “Minh”, “Mạnh” hai chữ có âm đọc gần giống nhau, Mạnh bà
cũng chính là Minh bà. Người thời Thanh có biên tập cuốn Ngọc lệ bảo
tiền và trong đó có xuất hiện lý lịch của Minh thần:
Thần Mạnh bà sống ở thời Tiền Hán, lúc còn nhỏ học sách Nho giáo, hiểu biết tinh
thông về kinh Phật, phàm là những việc quá khứ thì không nhớ đến, những
việc của tương lai thì không cần phải nghĩ, ở đời chỉ làm một việc duy
nhất là khuyên con người ăn chay, đừng sát sinh. Năm tám mươi mốt tuổi,
tóc trắng như lông hạc, mặt hồng hào như mặt trẻ con, suốt đời là trinh
nữ, chỉ biết mình họ Mạnh, người đời gọi là Mạnh bà bà, rồi vào núi tu
hành. Đến thời hậu Hán, thế nhân có người biết chuyện về kiếp trước,
liền nhận là người nhà, tiết lộ âm cơ. Là do thượng thiên sắc lệnh cho
Mạnh thị nữ xuống làm thần tại âm phủ, xây dựng một vọng đài, cho phép
được sai khiến quỷ sứ, đem mười điện dự định phân phát đi các nơi để làm hồn ma của người, dùng giống như thuốc theo tục của trần thế, hợp thành loại canh giống rượu mà không phải là rượu, chia thành các vị đắng,
cay, ngọt, bùi làm ngũ vị, các hồn ma chuyển thế, sẽ sắp xếp cho uống
loại canh này, sẽ làm cho quên tất cả các việc ở kiếp trước. Dẫn đi về
phía dương gian, hoặc nghĩ chảy nước miếng, hoặc cười ra mồ hôi, hoặc
chảy nước mũi, hoặc tức giận, hoặc sợ nước miếng... phân thành một, hai, ba loại bệnh thường gặp. Người làm việc thiện sẽ làm cho mắt, tai, mũi, lưỡi, tứ chi dần nhớ về việc xưa kia, càng nghĩ càng thấy sáng suốt,
tinh thông, ngày càng khỏe mạnh. Những người làm việc ác sẽ bị làm cho
hao mòn trí tuệ, thần sắc, ngày càng mệt mỏi mà chết, có báo trước để
cho con người hối hận mà hướng thiện.
Ở đài Cự thập điện Diêm
Vương, ngoài điện có sáu cây cầu cao to, bốn phía hành lang có một trăm
linh tám phòng, hướng phía đông có một đường đi, chỉ rộng một thước tư,
phàm gặp hồn ma dù là nam hay nữ, đường đi trong hành lang thiết kế đều
có đồ để mời uống loại canh này, bất luận là ăn nhiều uống ít. Nếu như
có hồn ma không chịu nuốt loại canh này, dưới chân sẽ xuất hiện dao móc
giữ lại, bên trên sẽ có ống đồng làm đau cổ họng, bị đau mà nuốt vào.
Nơi Mạnh bà bà quản lý có tên là “Vọng đài”, vì thế canh mê hồn cũng gọi là “vọng đài” hoặc “trà Mạnh bà”. Nhưng tác dụng của trà không chỉ làm cho người ta quên đi kiếp trước mà nó còn là một loại canh thần bí, nhìn
thì giống như cùng một loại nhưng mỗi người uống canh này sẽ có kết quả
không giống nhau. Nhưng quả báo ở kiếp sau chẳng phải đã được Diêm Vương định sẵn rồi sao, hà tất phải để Mạnh bà bà làm việc này? Thật sự là
không hiểu được! Ngoài ra, Ngọc lịch bảo sao đã viết tất cà những nơi
dưới âm phủ thành lao ngục, người từ bi như Mạnh bà bà mà bên cạnh mình
lúc nào cũng đeo theo một bộ ống dao móc, hình phạt trở nên hiện đại hơn rất nhiều.
Ở một vài tiểu thuyết hoặc câu chuyện dân gian thì
lại không phải như vậy, nơi Mạnh bà bà quản lý có tên gọi là thôn Mạnh
bà hoặc quán trà Mạnh bà, cái tên cũng cho ta thấy nó có chút tình người hơn. Nhưng vẫn còn một cách nói vô cùng cực đoan, biến canh mê hồn trở
thành một loại cực hình ép cung của thế hệ sau này. Đời Thanh có người
tên là Phục Thư viết một cuốn tiểu thuyết tên là Thố hồ lô, hồi thứ mười sáu có trích dẫn:
Thì ra dưới âm phủ, nếu ai ai cũng phải dùng
pháp hình để lấy cung, thì một ngày làm Diêm Vương cũng sẽ rất khó. Điều may mắn, kỳ diệu nhất ở đây chính là bát canh Mạnh bà. Theo cách nói
trong dân gian “canh Mạnh bà giống như rượu lễ, giống như tương, người
tốt ăn vào say ngất ngưởng, kẻ ác ăn vào sẽ phát điên”. Thảo nào Đỗ thị
lúc đang khát uống bát canh này vào, cũng không cần phải dùng hình phạt
kẹp ngón tay đã kể lại hết mọi chuyện. Mạnh bà bà sau khi ghi lại mọi
chuyện, làm một tờ khai cung cáo trạng xong, đặt đến chỗ người khám
nghiệm tử thi, rồi đem xuống dưới điện thứ mười.
Ở đây, nụ cười
của Mạnh bà bà lại trông giống như ngưu đầu a bang, nhưng cái này chỉ
gặp ở tiểu thuyết Nhất gia chi ngôn và chưa từng được người khác tin
tưởng vào âm tào địa phủ.
Theo lý mà nói, không cần biết là có
hay không có canh Mạnh bà bà, con người cũng sẽ không nhớ được kiếp
trước của mình. Trước thời đại nhà Minh cả ngàn năm đều như thế cả, và
dường như cũng không xảy ra đại loạn nào, vậy thì hà tất phải làm thêm
việc này, đột nhiên thích uống bát canh này ư? Đương nhiên đó là một
luận cứ, và cách nói về việc luân hồi chuyển kiếp thì rất hay. Nhưng
dường như không phải chỉ cần có một lý do này thôi.
Trong các câu chuyện về ma, hồn ma ở dưới âm phủ có thể ghi nhớ những việc ở kiếp
trước, bởi thế họ mới có thể có sự qua lại trong giấc mộng đối với người thân ở trần gian, có những cuộc hẹn lưu luyến bịn rịn như lúc sinh
thời, giống hệt như cuộc sống ở dương thế đang được kéo dài vậy. Đến khi hồn ma đầu thai chuyển thế làm người thì lúc đó mới chính thức vĩnh
biệt, và hồn ma chuẩn bị đầu thai làm người kia sẽ quên tất cả những gì
thuộc về kiếp trước, ngay cả lúc đến nhân thế rồi, gặp mặt nhau mà như
không hề quen biết, còn đi đâu tìm mối nhân duyên tái thế? Pháp uyên
châu lâm, quyển bảy mươi năm dẫn một câu chuyện trong Chí quái truyền kể lại rằng: “Khi đã thành người ở trần thế, dung mạo sẽ không giống ở
kiếp trước nữa”, cái “đạo lý” này làm cho người và ma đều cảm thấy bị
tổn thương. Đây cũng chính là sự xung đột giữa thuyết luân hồi của đạo
Phật với tình cảm con người của người Trung Quốc, nhưng canh Mạnh bà đã
đem đến cho con người chút hy vọng, hồn ma chuyển sinh uống canh Mạnh bà sẽ quên hết tiền duyên kiếp trước, nhưng nếu không uống, khi tái thế sẽ có một cơ hội về mối nhân duyên từ kiếp trước. Đương nhiên, cơ hội này
vô cùng mong manh, vì vậy có nhiều hơn cũng chỉ là gửi gắm tình cảm của
hồn ma vào người đang sống mà thôi.
Nhưng không cần biết như thế
nào, tang lễ trong dân gian đã đem việc trốn tránh uống canh Mạnh bà trở thành một nghi lễ không thể thiếu. Trung Hoa dân quốc phong tục chí nói về phong tục của Hồ Châu, Chiết Giang:
Tục truyền rằng sau khi
chết, con người cần phải ăn canh Mạnh bà để tâm hồn bị mê hoặc. Lúc lâm
chung, ngoài việc trong miệng ngậm thỏi bạc ra thì còn phải dùng lá cam
lộ làm thành một lăng (củ ấu) mang theo, trong tay lại đặt một túi lá
chè, cho rằng người chết có hai thứ này trong tay, thì không cần phải
uống canh Mạnh bà.
Mà ở Thọ Xuân, An Huy còn đơn giản hơn rất
nhiều, là “lúc khâm liệm cần một túi lá chè, kèm thêm một ít đất đặt vào lòng bàn tay của người đã mất”. Có vài nơi làm các thủ tục mới hơn như
Bắc Kinh, Ai Tân Giác Mộng... Doanh Sinh tiên sinh khi nói chuyện đến
phong tục “đập chậu” lúc phát tang: “m phủ có một vị “Vương ma ma”, ép
người chết phải uống canh mê hồn, làm cho thần trí bị mê hoặc và không
được đầu thai, vì thế nhà có tang phải chuẩn bị một chậu sứ có lỗ, lúc
phát tang sẽ do “hiếu tử” đập mạnh xuống đất, nếu đập vỡ, cái chậu đó sẽ theo người chết xuống âm phủ, canh mê hồn của Vương ma ma sẽ bị rơi hết ra ngoài.
Tuy là như vậy, nhưng chủ trương của tôi là sẽ thật
thà mà uống hết bát canh mê hồn đó. Linh hồn của người chết khi qua Diêm La Đại vương, “nhiệt đường” của những quỷ đầu trâu mặt ngựa, ma canh
ngục, không cần phải nói đến cửu âm thập bát địa ngục, mà ngay cả khi
tùy ý làm những tiểu tiết như cắt giải, dầu phanh, chậu bọ cạp đất, rắn
dùi lỗ, cắt lưỡi, móc mắt để cho họ nhận biết được một hai loại, chỉ cần đứng xem bên cạnh cũng đủ làm cho thần kinh của con người tan vỡ, sụp
đổ, nếu còn nhớ được những điều đó khi vào bụng mẹ, e rằng đến khi chào
đời thì đã bị thần kinh phân liệt rồi.