Có những người tự nhận mình không có khiếu hài hước, nhưng cái sự hài hước, hóm hỉnh lại đều
tìm đến với họ như một định mệnh, ví dụ như: “quỷ bủn xỉn, giả đạo học,
chủ nghĩa Mã Ly lão thái thái… Những chiếc đầu lâu đáng thương ấy, tuy
họ rất an phận nhưng không may lại có mối liên hệ với sự hài hước của
con người.
Đầu lâu, cũng chính là hộp sọ của con người, ngay cả
khi các vị độc giả chưa hề nhìn qua trong thực tế thì cũng có thể suy
đoán được hình dạng đại khái của nó như thế nào. Tôi tin rằng chỉ cần
nghĩ đến đã có không ít người nảy sinh cảm xúc vui mừng đối với nó.
Nhưng điều đó không hề ảnh hưởng đến việc có một số người dùng nó để vẽ
lên cờ, làm huy hiệu, hay những thứ đại loại như vậy, thậm chí là làm
dấu hiệu cảnh báo trên những thứ bị cho là nguy hiểm. Mục đính chính là
làm cho con người cảm thấy sợ hãi, nhìn thấy hình ảnh đó thì sẽ lập tức
tránh xa. Trung Quốc thời cổ đại, việc dùng đầu lâu làm con người có cảm giác kinh hãi, sợ sệt đã có những hiệu quả tích cực. Đó là vào khoảng
thời gian sau khi diễn ra những cuộc đại chiến, người ta đem đầu lâu của kẻ địch hoặc của bách tính vô tội chất lên thành hàng nghìn đến hàng
vạn đống như những ngọn núi nhỏ, và gọi là “kinh quan”. Chỉ cần nhìn
thấy vô số những đống “kinh quan” đó cũng đủ khiến cho kẻ thù hồn bay
phách lạc, không có gan để tiếp tục chiến đấu nữa. Còn ở nước ngoài,
nghe nói họ dùng đầu lâu làm thành thiên đường và còn trở thành kỳ quan
nổi tiếng thế giới. Mục đích của việc làm ấy chính là dùng đầu lâu để
kêu gọi, thức tỉnh trái tim thương xót, đồng cảm của con người. Nhưng
dường như cũng không cần thiết phải dùng nhiều đầu lâu đến như vậy. Tóm
lại, đầu lâu luôn gắn liền với những ý nghĩ và việc làm hài hước, hóm
hỉnh của con người và khó có thể tách rời chúng ra được.
Bởi lẽ,
hài hước luôn tự tìm đến cửa. Lý Cao Tác, họa sĩ thời Nam Tống có bức
họa Đầu lâu hoan hí đồ, lấy một cái đầu lâu to đặt bên một cái đầu lâu
nhỏ làm thành con rối, đến làm trò trẻ con ở chốn nhân gian. Ngô Lai
Đình, người thời nhà Minh nói ông ta “chắc chắn sẽ có sự giác ngộ”.
Nhưng giác ngộ mà ông ta nói tới đây là giác ngộ cái gì? Phải chăng là
ngộ ra những con rối trên sân khấu chính trị và người điều khiển nó,
cũng chỉ là những đầu lâu làm trò cười mua vui cho thiên hạ? Hoặc giả
ngộ ra hành động người sống dùng đầu lâu làm trò chơi mà lại không nghĩ
rằng đầu lâu cũng đang coi đời người như một màn kịch? Điều này có lẽ
cần phải dẫn dắt bạn đọc đến với bức họa đầu lâu và để mỗi người xem
mình giác ngộ được đến đâu.
Có lẽ bức họa Đầu lâu hoan hí đồ được xem là bức họa sớm nhất ở Trung Quốc. Ý nghĩa châm biếm và khuyên răn
nhân thế phản ánh qua bức tranh là giá trị tuyệt đối không thể phủ nhận
được. Phong nguyệt bảo giám lập ý của Tào Tuyết Cần cũng hàm chứa những ý nghĩa tương tự như vậy. Sống và chết, vinh và nhục, xưa và nay, trí tuệ và đần độn, giữa những cái thị phi và những cái chuyển đổi, con người
đều đã gặp phải, đã trải qua[1]. Vậy nhưng tất cả những cái đó thực tế
lại không đủ súc khái quát thành bài học cảnh báo bằng việc dùng hình
tượng đầu lâu làm phát ngôn viên, nói lên tất cả mọi chuyện một cách
ngắn ngọn, hình tượng mà lại vô cùng hài hước.
[1] Viện bảo tàng
Cố cung có bức họa này, ngoài ra còn có Hoàng Công Vọng nói về bức họa
này: “Không có chút da với thịt, có một sầu và khổ, con rối vẫn rút
những sợi dây, làm một con rối giống như con thỏ đê mua vui cho người
khác”.
Đương nhiên, tổ tiên của đầu lâu hài hước ấy chính là
Trang Tử - Chí lạc biên, trong đó có dẫn ra một câu chuyện rất nổi
tiếng. Trang Tử trên đường đi đến nước Sở, tình cờ trông thấy một cái
đầu lâu ven đường, bỗng trào lên sự xúc động, xót thương nghẹn ngào,
muốn mời Mệnh sứ đại tư làm cho sống lại. Nhưng chiếc đầu lâu đó liền
vội vàng nói: “Ta đang ở trời Nam, cuộc sống vui vẻ vô lo, vô nghĩ, nếu
sống lại làm người ở chốn nhân gian, như vậy chẳng phải sẽ vất vả lắm
sao!” Lời từ chối của đầu lâu vô tình khiến cho việc thương xót, đồng
cảm của Trang Tử trở thành chuyện nực cười, hài hước. Sau này, Trương
Hoành thời Đông Hán lại bắt chước, tiếp tục làm theo phong cách đó, viết một bài Đầu lâu phú, ám chỉ chủ nhân của chiếc đầu lâu đó chính là
Trang Tử. Trang Tử mượn đầu lâu để nói lời của chính mình, Trương Bình
Tử phá vỡ điểm này, thậm chí có phần sáng tạo hơn. Trong Chí Lạc của Lỗ
Tấn đã cải biên cuốn kịch nói tiểu thuyết Khởi tử, đem huyền đàm trong
giấc mộng của Trang Tử để nói lên một phần thực tế trong đời sống của
con người, khơi gợi một nỗi đau đớn trong sự hài hước, ai ai cũng biết
chuyện này, vì vậy tôi sẽ không nhắc đến nó nữa. Nói tóm lại, đầu lâu
trong các tác phẩm văn học của Trung Quốc tưởng như chỉ đóng những vở
kịch thoải mái, nhẹ nhàng nhưng ngẫm lại, kỳ thực đó lại là một vai diễn vô cùng nặng nề và phức tạp. Nhưng đạo lý to lớn của Nam Tất chân nhân
gửi gắm qua những câu chuyện đó đọng lại sau cùng chính là một chữ
“huyền”, huyền hoặc, huyền hồ, huyền ảo… Sau khi đọc xong câu chuyện,
gấp trang sách lại nó vẫn còn ám ảnh, dẫn dắt con người ta đi theo một
hướng khác rồi rơi vào cái vòng quái quỷ của Hamlet. Không biết là có
bao nhiêu “tâm đắc” để có thể hiểu hết ý nghĩ của nó mà cắt nghĩa được ý nghĩ đơn giản của cuộc sống. Sống hay chết? Đó là cả một vấn đề. Vì thế chương truyện này sẽ bắt đàu từ các câu chuyện về một loại đầu lâu hóm
hỉnh mà thiền tục. Đã nhắc đến hai chữ thiền tục thì khó tránh khỏi
những đoạn nói đùa ác ý sẽ nhiều hơn một chút, nhưng cũng không hẳn là
không có lợi trong việc giáo dục nhân cách của con người. Trang Tử chẳng phải đã từng đưa ra mệnh đề “đạo và phân tiểu” hay sao? Vậy thì hãy nói chuyện về đầu lâu cà phân tiểu.
Tác phẩm sớm nhất nói tới vấn đề này là U minh lục của Lưu Tống, Lưu Nghĩa Khánh: Phổ đại tư, Mã Hoàn Ôn khi làm quan cai quản ở Giả Kỳ (nay thuộc tỉnh An Huy), dưới quyền có
tham quân họ Hà, buổi sáng sớm đi ra ngoài, trong lúc đang điều tra, tự
nhiên muốn đi vệ sinh gấp, mà gấp quá không còn thời gian để tìm vị trí
thích hợp, liền xà ngay tại chỗ, làm rơi vãi vào một cái đầu lâu. Đến
khi anh ta quay về chỗ ở, khi ngủ trưa liền nằm mộng, gặp một người phụ
nữ nghiêm nghị, chửi thẳng vào mặt anh ta: “Đồ khốn nạn! Tôi vốn là một
giai nhân, hà tất phải làm tôi chịu ô uế như vậy? Hãy đợi đến khi màn
đêm buông xuống, ngươi sẽ tự hiểu ra sự minh bạch lợi hại như thế nào?”
Lúc đó, ở khu vực này có rất nhiều mãnh hổ, ban ngày có ít người đi lại, đến ban đêm thì lại càng không có ai dám đi ra ngoài. Nhưng vị Hà tham
quân có cái tật là phàm là việc gì chứ việc khó nói ấy thì không thể
nhẫn nhịn được. Anh ta khoét một lỗ trên bức tường của khuôn viên, đêm
đến muốn đi tiểu tiện, liền ra chỗ đó biến nó thành chỗ đi vệ sinh.
Không may cho anh ta, đêm nay anh ta lại mắc tiểu, vội vã đi ra ngoài
“huyệt đạo”, đang “dở việc”, đúng lúc có con hổ đi đến nơi này. Không
biết đột nhiên có linh cảm từ đâu đó, con hổ quay đầu lại, hung dữ cắn
một phát vào chỗ kín của anh ta. Và thế là cái mạng của Hà tham quân đã
được “chu du” xuống nơi âm phủ. Đến âm phủ rồi, Hà tham quân mới thực sự hiểu được cái sự “minh bạch lợi hại” mà người phụ nữ trong giấc mộng
nhắc tới. Bởi lẽ, theo quan niệm con người khi chết có hình dáng như thế nào, thì đến khi đến làm ma dưới địa phủ vẫn giữ cái dáng vẻ ban đầu
đó. Điều đó cũng có nghĩa chỉ trong tích tắc Hà tham quân từ một người
đàn ông mạnh mẽ bỗng chốc trở thành “yêm quỷ”.
Điều kỳ lạ trong
câu chuyện này là làm sao cách một bức tường mà hổ vẫn có thể cắn được
(có thể bức tường ấy chỉ là một bức tường làm bằng bùn đất?). Những tình tiết cụ thể thì không cần phải tìm hiểu sâu nữa, chỉ nói đến việc chủ
nhân của chiếc đầu lâu đó có tâm địa tăm tối một chút. Hà tham quân chỉ
là gấp quá, không thể giữ thể diện nên đành phải làm bừa, vì không để ý
nên vô tình mà chuốc vạ vào thân. Nhưng cũng có thể cái đầu lâu vốn chôn một nửa dưới đất, một nửa lộ thiên, có như thế mới lĩnh đủ cái hành
động vô tâm của tên quan họ Hà. Hơn nữa, chiếc đầu lâu đó, chắc chắn nếu không phải chuyên gia thì rất khó phân biệt là nam hay nữ. Nói tóm lại, Hà tiên sinh tuyệt đối không phải cố ý phạm phải ba điều đại kỵ đó. Nếu như cộng thêm hình phạt nữa, thì cũng thôi thôi, không thể để linh hồn
nhập vào mãnh hổ rồi thiến đi của quý của người ta được! Người phụ nữ
này có thủ đoạn rất độc ác, hành động ấy thật sự làm cho thiếu nữ khuê
các cảm thấy ngại ngùng, xấu hổ. Vì vậy, mặc dù câu nói “trồng cây nào
ăn cây đấy” là không sai nhưng mà câu bình phẩm “bản thân là một giai
nhân, hà tất phải đi cắn “của quý” người khác” thì phải trả lại cho vị
nữ sĩ này.
Nhưng bất luận thế nào, “tiểu tiện bừa bãi” lên đầu
lâu của người đã khuất là điều không đúng, cho dù đó là nơi hoang dã,
quy tắc là không được để nó biến thành thùng rác đựng những thứ bỏ đi,
mà phải coi đấy là di thể của người trưởng thành. Vẫn có người chưa được thực sự coi những thứ đó là đã thành “nhân”, mà lại cho rằng đó là kẻ
yếu đuối, tùy tiện bắt nạt và đương nhiên người này chắc chắn sẽ bị báo
thù. Quyển một, Đầu lâu báo thù trong Tử bất ngữ của Viên Mai có viết
một câu chuyện có nội dung tương tự với câu chuyện liên quan tới Hà tham quân, nhưng nhân vật chính lại là một kẻ ác, làm cho người ta có cảm
giác hoàn toàn không giống nhau.
Tôn Quân Thọ bản tính ngông
cuồng, ác bá, luôn vô lễ với thần thánh và ngược đãi ma quỷ. Một hôm,
hắn đi dạo trên núi cùng mọi người, bỗng đau bụng và muốn đi vệ sinh,
tìm chỗ kín đáo một chút, thấy một cái đầu lâu gần đó, hắn liền đến và
ngồi xổm lên, hắn lại dám đem miệng của người ta làm bồn cầu cho mình.
Sau khi giải quyết xong, vị hán tử này còn chưa hết đắc ý, liền nói đùa
với chiếc đầu lâu: “Nhà ngươi ăn có ngon không?” Không ngờ chiếc đầu mở
to miệng nói: “Ngon!” Bản lĩnh của người này thực sự cũng rất tầm
thường, lúc này hắn vội vàng kéo quần lên và bỏ chạy, còn chiếc đầu lâu
kia thì giống như quả bóng lăn theo hắn ta, mãi đến chỗ cây cầu, vì
chiếc đầu lâu này bị rơi xuống dưới nên đành phải quay về. Nhưng việc
hắn bị báo ứng thì mới chỉ là bắt đầu mà thôi. Hắn quay về nhà, mặt mũi
giống như người đã chết. Sau đó hắn mắc một loại bệnh kỳ quái, cứ đi đại tiểu tiện rồi bốc lên ăn, mà còn tự nói: “Nhà ngươi ăn có ngon không?”, đúng là ứng với câu “tự ăn hậu quả của mình”. Hắn cứ thế ăn ba ngày
liền, nhưng mà cái “ba ngày” không phải là giới hạn trừng phạt của hắn,
mà đó là ngày tận thế của hắn ta.
Làm người cũng nên có chút nhân tâm, bạn có thể không tin vào quỷ thần nhưng cũng không nhất định phải
đi sỉ nhục quỷ thần. Giống như vị ác nhân vừa rồi, hắn sỉ nhục quỷ thần
thực tế là phát sinh từ ngày bình thường quen áp bức người lương thiện,
giống như kẻ thống trị khai quật mộ của người khác, sỉ nhục tiền bối của người khác là cách mà chúng chuyên dùng để khống chế muôn dân trăm họ
vậy, đó không đơn giản là chuyện “không tin vào tà ma”. Vì vậy, nếu chỉ
là tự ăn phân của của mình thì cũng có thể tính là “trị bệnh cứu người”, nhưng người này làm điều ác quen rồi, chết cũng không có gì đáng tiếc.
Nhưng quay trở lại sự việc, ngay cả khi chúng ta “không tin vào tà ma” thì
cũng không cần phải thể hiện ra bằng cách dùng thái độ sỉ vả, làm nhục
quỷ thần. Người dũng sĩ đối với thi thể của kẻ thù còn tỏ thái độ tôn
trọng, những việc như đạp phá bài vị, đạp đổ tượng gỗ, khai quật mộ cổ,
ngay cả khi làm người có bản lĩnh thì cũng vẫn có những người dùng ý chí mạnh mẽ của mình để chèn ép người khác. (Về việc đẩy tượng gỗ ra khỏi
vị trí của nó là vì muốn dành chỗ ngồi cho bản thân mình, cái đó dường
như là chuyện khác, nhưng thực tế đó là kết quả của việc “có nước chảy
là thành mương”, làm việc ác nhiều lần liền trở thành quen tay, quen
tính.) Đạo lý rất đơn giản, bởi vì người bạn làm tổn thương không phải
là những người được bạn tôn trọng, bởi vốn dĩ bạn cho rằng thần quỷ là
hư vô, hành động đó chính là bạn đã làm tổn thương đến con tim của những tín đồ tin vào thần quỷ. Ngay đến đầu lâu, bạn vẫn có thể thấy rằng,
giữa trời đất này nó là vật bỏ đi, nhưng đối với con cháu của chiếc đầu
lâu kia thì quyết không cam tâm ngồi xem đâu. Đến xem tên lưu manh vô
đạo sống dưới gầm trời này cũng vậy, chắc chắn họ sẽ không lấy đầu lâu
của tổ tiên mình làm bình đựng nước tiểu, nhưng họ lại đem tổ tiên nhà
người khác ra làm trò chơi, lúc này họ cho rằng việc đó không vấn đề gì, thậm chí còn cảm thấy rất vui sướng. Nghĩ mình mà nhớ đến người, những
hành động như vậy quả thực vô cùng thất đức.
Mà kết quả của những hành động thất đức là khó tránh khỏi việc đầu lâu của tổ tiên mình có
thể bị người khác hành xử tương tụ, thậm chí còn vô tình làm bỉnh đựng
nước tiểu của chính mình. Theo Kỳ Vân trong Việt vi thảo đường bút ký,
quyển bốn, Bạch sắc u mặc dẫn ra một câu chuyện: “Một tiểu tử đi tiểu
vào đầu lâu, cũng là một đầu lâu chết chìm, chiếc đầu lâu này tức giận
kêu to, nhảy lên cao lớn như người. Tên tiểu tử hỗn láo này sợ quá, liền chạy một mạch về nhà, nhưng không ngờ rằng chiếc đầu lâu lại dẫn theo
một đám cô hồn, dã quỷ đánh đến tận nhà. Hai bên cùng thỏa thuận để hòa
giải, mới biết chủ nhân của chiếc đầu lâu bị chết chìm chính là cao tổ
mẫu của tên tiểu tử hỗn láo này! Lão thái thái thương nhớ con cháu nên
không tính toán với hắn nữa. Nhưng chuyện đã đồn đi khắp làng trên xóm
dưới, chỉ cần nhắc đến gia đình này, mọi người đều nói: “Trương gia đi
tiểu vào miệng của bà tổ mẫu.” Nếu không bị đồn thổi như vậy thì đã
không bị Kỳ Hiểu Phong ghi vào dã thừa rồi.
Những thứ ô uế như
vậy, nói nhiều sẽ làm người khác không vui, vậy thì thêm thắt những thứ
khác vào chắc hẳn sẽ tạo cảm giác thú vị hơn nhiều. Mã Việt thời nhà
Minh có viết bài Mã thị nhật sao, trong đó có đoạn nhắc đến việc đem củ
tỏi to nhét vào miệng đầu lâu.
Đồ ngự phòng của Thái giám Lai
Định, sáng tinh mơ đã đi ra khỏi thành, đến buổi trưa đã đến Dương
Phòng, bọn họ ngồi dưới gốc cây liễu to, bỏ rượu thịt mang theo ra để
ăn. Lai Định dùng tỏi băm nhỏ ăn kèm với thịt hun, đang ăn rất ngon
lành, khi quay đầu lại, bỗng nhìn thấy có một chiếc đầu lâu ở bên cạnh
mình, liền lấy hai miếng thịt kẹp với tỏi rồi nhét vào miệng đầu lâu.
Nếu sự việc chỉ đến đây thôi thì cũng không cần phải nói thêm nữa, nhưng Lai Định lại nói đùa một câu, hỏi đầu lâu: “Cay không?” Không ngờ chiếc đầu lâu này liền đáp lời: “Cay!” Sau đó kêu liên tục không ngừng, ngay
cả khi miếng thịt trong miệng đầu lâu đã được lấy ra rồi, nó vẫn không
ngừng kêu. Lai Định không còn cách nào khác, liền đi nhanh đến Nam Hải
Tử, nhưng tiếng kêu cay kia lúc nào cũng văng vẳng bên tai, mãi đến khi
vào thành Bắc Kinh, lúc đó tiếng kêu mới dừng lại. Nhưng sự việc vẫn
chưa kết thúc, Lai Định về đến nhà liền mắc bệnh, vài ngày sau thì chết.
Không thể đùa giỡn với chiếc đầu lâu côn đồ này được, nó không thích đùa, chỉ một câu nói đùa mà đã trở thành kẻ thù. Con người bất luận giàu, nghèo, thiện, ác, một khi đã mạo phạm đến đầu lâu thì dù sự việc diễn ra có
khác nhau thế nào thì cũng sẽ chịu chung một hậu quả cuối cùng. Nhưng
thực tế không hẳn vậy, vì cũng có những đầu lâu vẫn còn tồn tại bản tính khi làm người. Đối với một chiếc đầu lâu không quen biết, cũng giống
như một người đi đến ngõ hẹp, gặp người hỏi chuyện, trước tiên phải quan sát một chút về đối phương, thân phận là gì, để tránh việc không cẩn
thận lại đập vỡ đồ gốm, mạo phạm người ta. Ngày thường vị thái giám này
có thói quen nói đùa với các vị “lão tiên sinh” trong triều đình, nhưng
không ngờ lại giẫm phải đầu lâu của một tên lưu manh.
Dương Phụng Huy, người cuối đời Thanh, trong Nam cao bút ký của mình cũng có những
câu chuyện tương tự như vậy. Ông dẫn ra hình ảnh đầu lâu của các dân tộc thiểu số gần ngôi chùa ở Cam Túc, so với đất ở ngoại thành Bắc Kinh thì dày hơn rất nhiều. Có một vị thương gia nhiều chuyện đã nhét vào miệng
đầu lâu một quả ớt, rồi tiện miệng nói: “Khắc cánh nhất khắc cánh?”
“Khắc cánh” trong tiếng dân tộc thiểu số có nghĩa là “cay”. Không ngờ
đầu lâu đáp lại: “Khắc cánh! Khắc cánh!” Sau đó chiếc đầu lâu đi theo
anh ta đến khắp nơi, và tiếng “Khắc cánh! Khắc cánh!” lúc nào cũng văng
vẳng bên tai vị thương gia này. Thương gia thấy phiền muộn bèn kêu cứu:
“Tôi chỉ là nói đùa vậy thôi, lão huynh đi theo tôi suốt như vậy đến bao giờ mới thôi đây?” Lúc này nghe thấy có tiếng người đáp lại: “Xương cốt của tôi bị lộ ra ngoài, linh hồn không thể quay trở về được, chịu cảnh
phong hàn nơi hoang dã, cỏ hoang núi không, nếu là người quân tử nhìn
thấy thì ít nhất cũng phải tỏ ý thương tiếc chứ, đằng này ông lại đem
tôi ra làm trò đùa! Tôi sẽ “Khắc cánh” vĩnh viễn bên cạnh ông.” Vị
thương gia này biết rõ ngọn nguồn, liền vội vàng quay lại nơi hoang dã
vừa nãy, tìm thấy chiếc đầu lâu đó, chôn cất tử tế, và quả nhiên từ đó
không còn nghe thấy tiếng “khắc cánh” nữa.
Chôn cất xương cốt là
việc làm của người nhân từ, nhưng cũng có lúc lại gây phiền phức cho
chính mình. Du Việt trong Hữu đài tiên quán bút ký, quyển năm có viết về một việc ở gần thị trấn Lâm Bình, Giang Tây: “Có một người nông dân
đang cắt cỏ dại, gặp một chiếc đầu lâu, người nông dân cảm thương vì
chiếc đầu lâu lộ ra bên ngoài, liền đào huyệt để chôn cất. Người nông
dân này nghĩ rằng anh ta đã làm một việc thiện, nhưng không ngờ khi anh
ta về đến nhà liền mắc bệnh sốt rét, có quỷ nhập vào người rồi nói rằng: “Tôi đang ở bên ngoài rất vui vẻ, hà cớ gì ông phải đem tôi chôn xuống
đất, tôi thực sự cảm thấy rất khó chịu, phải giết chết ông!” Cuối cùng,
gia đình người nông dân này phải cúng tế bằng rượu thịt, hóa vô số tiền
vàng mới có thể đuổi được tên khốn kiếp đó đi.
Có vẻ như chúng ta đã quá lan man lạc đề mất rồi. Bây giờ quay lại vấn đề cũ, đó là việc
tiểu tiện vung vãi khắp nơi như nói ở phần đầu. Cần phải biết rằng những câu chuyện như vậy xảy ra không chỉ ở một nơi mà khắp nơi, nhiều vùng
trên đất nước Trung Hoa rộng lớn, từ phương Bắc chốn kinh kỳ đến vùng
Giang Nam, từ nơi văn minh hưng thịnh đến những nơi xa xôi như Tây Chùy, không có khái niệm về khoảng cách gần xa, tất cả đều có thể là vạn lý
đồng phong rồi. Nhưng trong cái đại đồng nhất cũng có cái dị nhất, làm
cho người ta phải nhận ra sự khác biệt về tình cảm của con người và khám phá ra nhiều điều thú vị về ma (và đương nhiên những điều đó đều thuộc
về những người sáng tạo ra các câu chuyện), vì thế sau khi tìm kiếm được chắc hẳn cũng có đóng góp chút ít giá trị cho ngành nghiên cứu dân tộc
học. Xuất phát từ những tình cảm sâu sắc của mình đối với mảnh đất quê
cha đất tổ, không ít người, trong đó có cả tôi đã từng lật đi lật lại
từng trang sách để tìm ra những câu chuyện tương tự như vậy về quê hương mình. Song do việc đọc sách có giới hạn, kết quả là làm cho tôi vô cùng thất vọng, nhưng sự xấu hổ đó không bằng cảm giác lạc lõng của con
người. Những câu chuyện như thế này so với những câu chuyện cùng loại
được phát hiện ra, quả thực, một cách vô thức bản thân tôi cùng có chút
ngưỡng mộ. Nhưng hy vọng những câu chuyện “vô duyên” kể ra ở đây một lúc nào đó lại gặp được những độc giả có cùng sở thích.
Lục Trường
Xuân, người thời nhà Thanh, trong Hương ẩm lầu binh đàm, cuốn ba có kể
lại một sự việc xảy ra ở Quảng Châu, khu thương mại phát triển nhất đất
nước thời kỳ đó. Có một người tử quê lên, mang theo một chiếc ô vào
thành, trong lúc buồn đi vệ sinh gấp, nhìn thấy bên cạnh có một chiếc
đầu lâu, liền diễn lại kỹ thuật như trong câu chuyện của Hà tham quân,
lại còn diễn kịch và hỏi: “Mùi vị tốt chứ?” Chiếc đầu lâu đó há miệng ra đấp lại: “Tốt!” Người nhà quê vô cùng sợ hãi, cầm lấy cái ô và cắm đầu
cắm cổ mà chạy. Không ngờ ở đằng sau cũng như có người đuổi theo, vừa
chạy vừa kêu “Tốt! Tốt! Tốt!” Anh ta sợ quá liền chốn vào miếu Thành
Hoàng, ở đó ma quỷ không vào được. Rất lâu sau anh ta nghĩ rằng cái vị
nói “Tốt! Tốt! Tốt!” đó đã đi khỏi đây rồi, nhưng khi vừa bước ra khỏi
cửa miếu những tiếng “Tốt! Tốt!” lại tiếp tục đuổi theo anh ta. Người
nhà quê ở Quảng Châu đều là những thương gia tài giỏi trong tương lai,
và điều tự nhiên là họ rất thông minh, trong đầu bỗng nghĩ ra kế thoát
thân. Anh ta liền chạy đến một cửa hàng gần đó mua đồ. Thương lượng giá
cả xong, lại nói là quên không mang theo tiền, liền để lại chiếc ô làm
vật làm tin, nói là đợi tôi đi lấy tiền rồi sẽ quay lại. Anh ta ra khỏi
cửa liền chạy thật nhanh, quả nhiên không còn thấy tiếng kêu “Tốt! Tốt!” đuổi theo nữa. Chủ quán đợi đến khi trời tối mịt mà vẫn không thất
người nhà quê đó đâu, chỉ còn biết đóng cửa hàng, nhưng đêm hôm đó quỷ
bắt đầu làm loạn. Con quỷ “Tốt! Tốt!” đó không kêu “Tốt! Tốt!” nữa, mà
nhập vào người ta rồi lý luận: “Hắn dựa vào đâu mà dám đại tiện lung
tung vào miệng ta? Hắn đi rồi, nhưng lại để chiếc ô ở quán nhà ngươi, ta đến tìm ngươi tính sổ!” Chủ quán và ma lý luận đến nửa ngày, xem ra đây cũng là sự tinh ranh trong giới thương trường, đem vật đến để đặt làm
tin. Cuối cùng, chủ quán chỉ còn cách bày tiệc rượu, hóa tiền giấy, lại
còn mời thêm mấy vị hòa thượng tới tụng kinh mới tiễn được quỷ “Tốt!
Tốt!” này đi khỏi. (Câu chuyện cũng tương tự như trong Quyển tám, Quỷ
quai quai trong Tử bất ngữ của Viên Mai.)
Câu chuyện cuối cùng
càng không thể không nói ra, bởi vì câu chuyện này tuy nằm trong Nhĩ
thực lục của Lạc Quân rồi nhưng đây lại là chuyện đại danh nhân La Sính
vẽ quỷ kể lại, mà địa điểm xảy ra lại ở Dương Châu, nơi ở của một tay
ranh mãnh, khôi hài, chuyên ngấm ngầm giở trò mà mãnh, Vi Tiểu Bảo.
Ở những vùng đất hoang ngoại thành Dương Châu có rất nhiều đầu lâu, nếu
như có người khinh thường những cái đầu lâu đó, nặng thì bị ám, nhẹ thì
bị mắng. Bị mắng cũng chẳng phải việc gì to tát lắm, nhưng nếu bị một
chiếc đầu lâu mắng thì chắc hẳn phải cảm thấy rấy xúi quẩy rồi. Hôm đó,
có một người đàn ông ngông cuồng đi cùng vài người bạn ra khỏi thành.
Những người bạn cẩn thận dặn dò nhau những điều cấm kỵ, mọi người đều
không muốn gây rắc rối với những chiếc đầu lâu kia, nhưng người đàn ông
ngông cuồng này lại muốn trổ tài, liền đi về phía một chiếc đầu lâu, bắt đầu “tưới”, và còn luôn miệng nói: “Hay để ta mời ông uống rượu nhé!”
Không ngờ chiếc đầu lâu này lại là một ma men, nghe thấy có rượu uống
cũng không để ý những lời tục tĩu vừa rồi nữa, liền chạy theo đòi rượu
uống. Người đàn ông ngông cuồng biết là có trốn cũng không được, chỉ còn cách là cùng mấy người bạn quay về thành, vào một quán rượu. Chiếc đầu
lâu tuy không đi cùng nhưng linh hồn đã lên lầu từ rất sớm rồi. Mọi
người ngồi vào bàn, sắp xếp một chỗ ngồi trống, cũng bày bát đũa lên,
đấy là chỗ của chiếc đầu lâu ma men đó. Mọi người mỗi lần uống một chén
đều phải hướng về nơi hư không đó rót một chén, và cũng không biết là đã cho vị ma men đầu lâu đó uống bao nhiêu rượu rồi, rượu đó đã thấm qua
các tấm gỗ, chảy cả xuống tầng dưới. Khi tất cả mọi người đều cảm thấy
đủ rồi, liền hỏi: “Lão huynh say rồi sao?” Không ngờ, chiếc đầu lâu này
lại có khí phách của Phàn tướng quân, kiền đáp: “Chết cũng như cây gỗ
mục, rượu kia mới chỉ đến chân tôi thôi, làm sao đã được?” Chiếc đầu lâu này đã uống đến mức không còn biết trời đất là gì nữa, những người cùng uống đã không chịu nổi, đều tìm cách đi mất, còn tên ngông cuồng kia
thì khó mà thoát thân. Cuối cùng, hắn cũng lấy lý do đi vệ sinh, xuống
tầng dưới đặt ngân lượng lên quầy tính tiền rồi chạy mất. Tiểu nhị của
quán nghe trên tầng hai vẫn còn người kêu mang rượu lên, khi lên nhìn
không thấy có một bóng người, chỉ nghe trong hư không có tiếng người
nói: “Mang rượu lên đây”, trong phút chốc tiểu nhị bị giật mình đến suýt chết.
Lã Lương Phong thích đem những chuyện nhân tình thế thái
của nhân gian họa vào tranh vẽ. Câu chuyện trên đây thực tế là anh ta
mượn đầu lâu mắng ma men, trong các câu chuyện về đầu lâu cũng không có
chủ tâm gì khác.
Chỉ cần có rượu, chết cũng không có gì đáng sợ
cả, đổ lên một đống phân cũng không sao cả! Vào thời đó cũng có thể được gọi là anh hùng trong thế giới của tửu, nhưng nếu như bây giờ, e rằng
sẽ khiến mọi người phải dương mắt nhìn. Tất nhiên, cũng không tránh được “hậu sinh khả úy”.
Đầu lâu và ma thuật của thầy mo
Sự hài hước của đầu lâu ngẫm lại còn có sự cay đắng, xót xa vô cùng, nhưng
điều đó với họ vẫn chưa là gì, bởi trong cuộc sống đôi khi họ còn phải
chịu nhiều cái không may hơn thế. Bởi vì bản thân mỗi chiếc đầu lâu đều
có linh tính nên chúng thường xuyên bị quái nhân, quái vật lợi dụng, trở thành công cụ làm hại dân sinh, đó mới là điều đáng buồn nhất.
Cũng như việc con người cho rằng đầu chính là bộ phận quan trọng nhất trên
cơ thể, đầu lâu làm thi hài cũng là điều tự nhiên. Một khi xương cốt của người chết phân tán tứ phía thì vong hồn của họ cũng cần phải có chỗ để nhập vào, nhưng nhập vào bộ phận nào đây, bất kể là người hay ma nếu
lựa chọn, thì e rằng họ chỉ chọn đầu lâu, mà nếu đầu lâu cũng bị vỡ nát, phân tán khắp nơi, vậy thì bộ phận quan trọng nhất lúc này chính là
xương đỉnh đầu. Các câu chuyện ở trên đã nói về việc đầu lâu có thể
giống như trái bóng, càng nhảy càng cao, có thể giống như chiếc bánh xe
lăn đi lăn lại đuổi theo người, một điều rất rõ ràng là, chỉ có đầu lâu
mới có thể làm được như vậy, xương cốt của các bộ phận khác không làm
được việc này. Tuy có linh tính, nhung lại là chiếc xương khô không thể
tự chủ được, vì thế cho nên, vào thời cổ đại, đầu lâu và xương đỉnh đầu
mới được cả thầy mo và những người luyện yêu thuật rất coi trọng, bởi nó chính là nguyên liệu luyện yêu pháp của họ.
Trong tiểu thuyết
chí quái thời Minh - Thanh thường nhắc đến yêu quái hồ ly “bái nguyệt
luyện hình”, trên đầu phải có một chiếc xương đỉnh đầu hoặc đầu lâu của
con người, đó là điều mà độc giả đã biết rõ rồi. Nói về xuất xứ thì cũng rất sớm, như trong Dậu dương tạp trở của Đoàn Thành Thức người đời
Đường có nhắc đến hồ ly hoang dã đầu đeo đầu lâu bái Bắc Đẩu, chỉ cần
đầu lâu rơi xuống thì lập tức có thể hóa thành hình người. Điều này
trong Tập dị ký của Tiết Dung Nhược được viết lại cụ thể, rõ ràng hơn:
Đột nhiên có yêu quái lảo đảo đi tới, với lấy đầu lâu và đặt lên đầu, lắc
đi lắc lại, nó rơi xuống đất, yêu quái không để ý đến nữa, bởi vì còn có sự lựa chọn khác. Không bốn thì năm, chọn được một cái, khâu thành hình ngọn núi cao vút. Vén lên và ngắt lá cây, hoa có thể che lấp hình thể,
phải để ý nhìn trước ngó sau rồi tạo thành cái áo. Trong chốc lát đã hóa thành một người phụ nữ, yểu điệu bước đi.
Không chỉ có hồ ly,
tất cả những yêu quái quấy phá, làm hại đều phải mượn đầu lâu làm phép.
Quyển hai mươi, Hoàng Tư Thâm trong Di kiên đinh chí của Hồng Mại dẫn ra một đoạn: “Có một con chó mẹ đeo lên chiếc đầu lâu thì có thể hóa thành người phụ nữ, hấp dẫn những kẻ háo sắc.” Không chỉ có vậy, đáng sợ nhất là ma không đầu cũng muốn mượn đầu lâu để làm trò quậy phá, tình tiết
kinh khủng đó còn ghê tởm hơn việc ác quỷ họa bì trong Liêu trai. Ví như quyển chín trong Mộng am tạp trước của Du Giao người đời Thanh có viết
về một câu chuyện, nói về một thư sinh yêu mê hồn một mỹ nữ, nhưng đó
lại là một con ma không đầu, đoạn sau của câu chuyện như sau:
Vào một đêm trăng sáng, bỗng nhiên cây liễu lung lay, một người trèo từ
trên cây xuống, thân chưa đầy thước, nhìn thấy hai chân mà không nhìn
thấy đầu. Một lát sau, hình hài đó móc dưới dòng nước lên chín cái đầu
lâu liên kết lại với nhau làm thành chiếc mũ đội lên đầu, sau đó biến
thành người con gái xinh đẹp. Người con gái đó dùng hai tay vén mái tóc
dài chấm đất, nhẹ nhàng đi lại dụ dỗ người qua đường.
Một chiếc
đầu lâu còn có linh khí như vậy, giả dụ đem một trăm linh tám cái luồn
vào với nhau, rồi đội lên trên đỉnh đầu, có khi sẽ trở thành Minh Vương
Bồ Tát mất. Vì vậy linh khí của đầu lâu tất nhiên sẽ được các thầy mo
trong dân gian chú ý và biến nó trở thành một nhân tố quan trọng trong
tà thuật. Trong Thiên đài bồ tát giới sơ từng nhắc đến việc “người
phương Tây đánh vào xương đầu của người khác, đó là nguyên nhân chính để gây cái chết”. Thủ thuật dùng đầu lâu để gieo quẻ, ở các nước phương
Tây có và người Trung Quốc cũng có, ở đây, phương thức ấy được gọi là
“thần đầu lâu”. Vị thần đầu lâu này cũng giống như thần Chương Liễu
(thần cây long não), nhưng cơ sở ban đầu của nó không phải là dùng đầu
gỗ có linh khí, mà là dùng đầu lâu của người rồi cho nhập hồn vào đó.
Cuốn Hồ hải tân văn Di kiên kế chí của Kim Thiết Danh có một đoạn ghi lại sự việc xảy ra vào năm Lý Tông Gia Hy, thời Nam Tống. Câu chuyện liên quan đến quá trình “chế tạo” thần đầu lâu. Công đoạn này vô cùng tàn nhẫn,
đến nỗi làm cho người ta ghê tởm.
Hằng ngày đều rót giấm từ trên
đỉnh đầu xuống gót chân, xương khớp, tĩnh mạch đều bị đóng đinh, vô cùng tàn khốc. Đợi đến khi chết đi sẽ thu những xương khô này lại, bốc lấy
hồn ma và gọi là thần đầu lâu.
Trong cuốn sách này có đoạn viết:
“Hôm nay người ta nói tới điều lành, dữ, bắt cóc con trai nhà người về
làm pháp thuật.” Nhưng đây cũng chỉ là một cách nhìn nhận về việc yêu
quái lừa gạt, làm hại trẻ con được lưu truyền trong dân gian. Thực tế
thì phần lớn cũng chỉ là truyền thuyết mà thôi, không chắc chắn chuyện
này là có thật hoặc sự việc nghiêm trọng đến như vậy. Vì thế, có một
cách lý giải khác về thần đầu lâu, tuy vẫn gắn liền với hình ảnh những
thầy mo nhưng có vẻ đáng tin hơn một chút. Trong Đông Pha tiên sinh vật
loại tương cảm chí của Thích Tán Ninh, người đời Tống, quyển sau có
trích dẫn:
Những chiếc đầu lâu được dùng cỏ bồng xuyên qua để kết lại với nhau, ban đêm có thể cùng nhau chuyện trò, trước khi ra trận
không được đến hỏi, lần đầu dùng thì dùng nước thơm để rửa, vẫn dùng cây cỏ xuyên vào, làm cho khó chịu, sau đó hỏi: hoặc là chôn vùi xuống đất, trồng cây đậu, đêm đến hỏi việc cát hung (bản này có thể có chữ sai,
nhưng đại ý thì không sai).
Lấy một cái đầu lâu, dùng nắm cỏ kích thích vào những lỗ hổng như mắt, thậm chí có người còn đem đầu lâu này
làm chậu hoa, trồng cây lên, làm cho rễ cây ở bên trong mọc lung tung,
do việc này có thể ép đầu lâu phải dự báo cát hung, chủ ý này quả thực
rất tàn nhẫn. Bởi vì theo truyền thuyết dân gian Trung Quốc, xương khô
trong những ngôi mộ sợ nhất là bị giày vò. Trong Thuật dị ký của Hoàn
Trung Chi có nói đến một hồn ma báo mộng cho người, nói là trong mắt
mình có vật gì đó đâm vào, làm ơn hãy rút nó ra. Người này tìm được thi
thể của hồn ma, quả nhiên là ở đầu lâu có mọc lên cây cỏ. Trong Quảng dị ký của Đới Phú viết về việc thi thể của hồn ma bị rễ của cây mang làm
hỏng, hồn ma thấy vô cùng đau đớn. Lại có một câu chuyện khác cũng kể về việc hồn ma kêu khổ: “Thân xác tôi bị rễ cây mọc qua, vô cùng đau đớn,
không thể chịu đựng được nữa rồi!” Vì vậy, việc dùng cỏ đâm vào đầu lâu
để hỏi cát hung cũng chẳng khác nào việc dùng cực hình để ép cung trong
các nhà tù thuở xa xưa.
Kiểu thầy mo dùng pháp thuật tà ma như
vậy chưa phải đã hoàn toàn thất truyền, thậm chí còn phát triển hơn nữa. Giống như tiểu thuyết Hải du ký đời Thanh có viết về việc luyện thần
Chương Liễu, dùng xương đỉnh đầu của nam, nữ chia ra làm bốn mươi chín
mảnh, có thể biến hóa thành một cái gì đó, ít ra thì cũng để thần Đầu
Lâu và thần Chương Liễu hợp lại làm một. Từ thời Nam Tống, trong dân
gian đã có những hồn ma không có xương đỉnh đầu, không có xương đỉnh đầu nên không thể chuyển kiếp được (xem Di kiên giáp chí, quyển mười bảy,
Giải tam nương). Xương đầu là bộ phận quan trọng nhất của đầu lâu, đối
với người chết khi chôn cất, tuyệt đối không được quên xương đỉnh đầu,
cách nói này tuy là dựa vào tính quan trọng của đầu lâu, nhưng cũng
không có ai thử đem vứt ra nơi hoang dã để người khác khinh thường hoặc
bị đối xử tàn ác.
Nhưng cái đáng sợ nhất của các thủ thuật này
không phải là tà thuật của thầy mo, mà chính là thuật dùng “ngự nhân”
của các bậc Đế vương ngày trước. Đối với đầu lâu thì chính là cách dùng
linh hồn người chết để trừng trị người sống. Đương nhiên đó phải là
những đầu lâu tinh anh, được Đế vương đội ở trên đầu, thậm chí còn làm
quầng sáng, nhưng hoàn cảnh của họ so với bị người vô lại ngồi lên còn
khó coi hơn rất nhiều lần. Bởi đã là những tinh anh, thì họ sẽ coi trọng tính độc lập hơn cả tính mạng của mình, lúc sinh thời họ có thể từ chối bất cứ những gì cố cho thêm vào như giấy hồ, hoặc là mũ quan giấy,
nhưng một khi đầu lâu trở thành đồ trang trí của Đế vương sẽ bị mấy đi
quyền được nói chuyện, chỉ là để họ tự bày biện, tùy hứng đánh phấn lên, nếu như đầu lâu linh thiêng, sâu thẳm trong con tim sẽ vô cùng đau đớn.
Tần vương Doanh Chính đọc thư Côi phẫn, Ngũ đố của Hàn Phi, liền nói: “Nếu
quả nhân được gặp người này và cùng viễn du, thì chết cũng không hối
hận!” Đấy là do lầm tưởng Hàn Phi là cổ nhân đã chết, vì thế bỏ đi sự
tôn trọng của bậc đế vương để làm học sinh. Nhưng một khi Hàn Phi còn
sống đi đến trước mặt thì lại là một chuyện khác. Hàn Phi viết một bài
Thuyết nan, nói: “Rồng có vẩy cá ngược, nếu bị xúc phạm thì nhất định sẽ giết người. Người có vẩy cá ngược nói có thể là chủ nhân của vảy cá
ngược!”, đã biết là khó, vậy có thể “không” nói không? Hàn Phi không thể không nói, bởi vì ông ta không phải là đầu lâu, mà ông ta bị mắc bệnh
nói lắp, lại không biết hát lời nịnh nọt, bởi ông không đồng ý làm trò
hề, làm những bài văn nịnh bợ. Vậy kết quả của “thuyết” thì mọi người
đều biết, đó là bị giam trong ngục tù, và chết thảm ở đó.
Thái sử công viết Hàn Phi truyện, có đến bảy mươi phần trăm các bài thi có dẫn
cứ nguyên văn từ Thuyết nan, cuối cùng ông than rằng: “Dư độc bi thương
Hàn Tử vì Thuyết nan mà không thể tự mình thoát khỏi tai ương.” Đây là
thương xót cho Hàn Phi hay thương xót cho chính bản thân mình? Là “dư
thừa tâm sức có thể trừng phạt” hay là “chết xuống cửu tuyền cũng không
hối hận”? Vì vậy, trong lịch sử tuy không ghi chép về nguyên nhân cái
chết của ông nhưng có vài nhà sử học cho rằng, cuối cùng ông chết dưới
tay Hán Vũ Đế, và điều này có thể được coi là điều tất yếu sẽ xảy ra.