Ngày mùng Chín tháng Sáu, Tề Thịnh đem người đi tuần sát phương Bắc.
Tôi vừa giúp Tề Thịnh đội mũ giáp, vừa phổ biến kiến thức chống sét: “Khi
hành quân dã ngoại, nếu gặp trời dông bão thì đừng có cưỡi ngựa cao to.
Chàng đã cao, cái mũ sắt trên đỉnh đầu cũng dài hơn người khác nửa
thước, thần sấm thích nhất là thu lượm những người như chàng đó...”.
Tề Thịnh đột nhiên nắm lấy tay tôi, nắm thật chặt, mãi lâu sau mới bình thản hỏi: “Nàng không thể nói mấy câu dễ nghe sao?”.
Muốn dễ nghe? Có chứ, tôi đây có rất nhiều ấy chứ, nhiều đến mức tôi không
cần nghĩ cũng nói được một tràng: “Vậy chúc Hoàng thượng thuận buồm xuôi gió, mã đáo thành công, vừa xuất quân đã chiến thắng giòn giã, vạn sự
như ý, của ăn của để đầy nhà...”.
“Đủ rồi!”, Tề Thịnh giận dữ ngắt lời, trừng mắt nhìn tôi.
Tôi không nói gì, chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Vẻ bực tức trên khuôn mặt của Tề Thịnh dần dần tan biến, ánh mắt cũng trở
nên an tĩnh, không lộ ra một tia cảm xúc nào. Cuối cùng, anh ta không
nói gì thêm, chỉ nhìn sâu vào mắt tôi một lúc, dứt khoát quay người rồi
sải bước rời đi.
Nhìn bóng Tề Thịnh xa dần, tôi cảm thấy sức lực
toàn thân như bị rút hết, chân mềm nhũn, suýt nữa thì khuỵu xuống đất.
Ông Phật tôn kính ấy cuối cùng cũng đi rồi!
Tôi không biết tâm trạng của mình lúc này là buồn hay vui, chỉ cảm thấy trống rỗng.
Lục Ly tiễn Triệu vương xong liền tiến cung thăm tôi. Tôi miêu tả cho cô
tâm trạng của mình, nhưng vừa nói vừa ra hiệu cả nửa ngày mà cô vẫn cứ
mơ mơ hồ hồ, mãi một lúc lâu sau mới đột nhiên vỗ đùi đánh đét một cái:
“Nương nương, thần thiếp rõ rồi, thần thiếp đã hiểu ý của người rồi”.
Tôi cảm thấy được an ủi, không ngờ rằng đến bản thân tôi còn không rõ, ấy
vậy là Lục Ly lại hiểu được, cô quả là tri kỉ của tôi. Tôi vừa vui mừng
vừa ngạc nhiên, hỏi: “Ngươi thật sự hiểu?”.
Lục Ly gật đầu, giọng điệu khẳng định: “ Hiểu ạ. Nói thẳng ra là, người vất vả làm nàng dâu
ba mươi năm, cuối cùng cũng được lên chức mẹ chồng rồi. Bây giờ Hoàng
thượng không ở đây, trong cung toàn bộ đều nghe theo người, người muốn
làm gì thì làm”.
Cái gì thế? Con dâu thì ta đến một đứa cũng chưa nhìn thấy, còn mẹ chồng trên đầu lại có hai người kia kìa.
Lục Ly thấy tôi không phản ứng gì, vừa mở miệng định đoán tiếp thì bị tôi
chặn lại, hỏi: “Trước khi đi Triệu vương có dặn gì không?”.
Cô
đáp: “Triệu vương bảo thần thiếp chuyển tới nương nương một câu là: Bất
luận thế nào thì người mà nương nương có thể dựa dẫm chỉ có Hoàng thượng thôi”.
Tôi suy nghĩ kỹ câu nói của Triệu vương, cảm thấy trong đó ẩn chứa một hàm ý khác.
Lục Ly ở bên cạnh im lặng một lúc rồi đột nhiên khẽ hỏi tôi: “Nương nương, bây giờ chúng ta chỉ có thể chờ đợi thôi sao?”.
Tôi hỏi lại: “Nếu không thì còn có thể làm gì? Bọn họ vừa rời kinh, ai biết được cuối cùng bên nào sẽ thắng. Chúng ta cũng nên để cho mình một
đường lui chứ”.
Cô nương à, bây giờ chúng ta không thể hành động
thiếu suy nghĩ được. Nhỡ Nhà xí huynh thất thủ, ta lại đã bộc lộ dã tâm
thăng chức thì khi Tề Thịnh trở về không thể không tính sổ với ta được.
Trước mắt cứ đợi xem thế nào đã, ta đã chịu đựng được mấy năm nay rồi,
bây giờ chỉ còn một năm rưỡi nữa thôi mà.
Cuối tháng Sáu, một
đoàn buôn hàng trăm người của Nam Hạ bị cướp và sát hại ở bên ngoài
thành Tĩnh Dương. Tin này đã truyền về nội thành đúng lúc Hoàng đế Tề
Thịnh tuần sát đến Tĩnh Dương, người nổi giận, lập tức lệnh cho hai
nghìn quân Tĩnh Dương tiến vào Bắc Mạc, lấy cớ tìm kiếm và giải cứu
những người thất lạc trong đoàn buôn, tiến hành trả đũa bằng cách chiếm
đất của Bắc Mạc.
Quân Bắc Mạc vội vàng tập hợp binh mã để ngăn
chặn, hai bên tranh chấp ác liệt cách phía bắc Tĩnh Dương bảy mươi dặm.
Do binh lực chênh lệch, quân Nam Hạ tổn thất nghiêm trọng, chỉ có hơn ba trăm người thoát khỏi vòng vây của quân Bắc Mạc, quay về Tĩnh Dương.
Hành động ấy chẳng khác gì chọc thủng tổ ong vò vè, Tề Thịnh sau khi phẫn nộ quở mắng hành động trơ tráo của Bắc Mạc liền lập tức tuyên bố sẽ thân
chinh xuất trận tiến đánh Bắc Mạc. Cửa khẩu Tĩnh Dương vừa mở, bốn mươi
vạn đại quân Nam hạ nhanh như chớp tấn công vào Bắc Mạc, mới vài ngày
ngắn ngủi đã chiếm được liền mấy thành của Bắc Mạc.
Bắc Mạc lúc
đó mới trợn tròn mắt lên. Tranh chấp quy mô nhỏ như thế này thỉnh thoảng vẫn xảy ra, tướng lĩnh hai nước cũng chỉ gọi là anh tát tôi một cái,
tôi đấm anh một cú cho hả, chẳng ai xem đó là chuyện nghiêm trọng, lần
này Nam Hạ làm sao thế? Tự nhiên lại đánh thốc tới như vậy?
Mà thôi, đừng nói nữa, mau tập trung binh mã chẩn bị đánh đi!
Công báo về đến Thịnh Đô đã là tháng Bảy, tôi xem câu chữ đanh thép trên
“Bài hịch đánh giặc”, trong lòng không khỏi khâm phục trình độ vô liêm
sỉ của Tề Thịnh.
Lục Ly rốt cuộc cũng chỉ là một cô gái, biết tin phía bắc, thực sự đánh nhau thì không khỏi lo lắng, hỏi tôi: “Nương
nương, chúng ta phải làm thế nào? Có cần liên lạc với nhà không?”.
Tề Thịnh không mang theo thượng thư Bộ binh Trương Phóng, mà để ông ta ở
lại Thịnh Đô với tôi. Nghĩ tích cực thì Tề Thịnh muốn tôi có người dùng
được ở bên, nhưng nghĩ tiêu cực thì có lẽ đây chính là ý đồ của anh ta,
cố ý dụ nhà họ Trương gây chuyện để nhân cơ hội thâu tóm quyền lực.
Không thể mắc lừa, tuyệt đối không thể mắc lừa.
Lục Ly vẫn còn đang đợi câu trả lời, tôi nghĩ đi nghĩ lại, lắc đầu nói:
“Trong nhà không cần chúng ta quan tâm, ngược lại nơi cần phải lo lắng
chính là ở trong cung đây này. Ta phải đến chỗ Thái hoàng thái hậu một
chuyến xem người có ý gì không”.
Thái hoàng thái hậu Lâm thị
thường ngày giống như vị Bồ Tát chẳng quản sự đời, nhưng người đã có hơn mấy chục năm làm hoàng hậu, thái hậu, thời điểm Tiên đế băng hà người
cũng thể hiện rõ sự nhanh nhạy, quyết đoán của mình. Nếu như chỉ coi
người là một lão bà mắt mờ tai điếc thì quả là ngu ngốc.
Thái
hoàng thái hậu lúc gặp tôi rất vui mừng, kéo tôi lại, vỗ nhẹ vào cánh
tay tôi, an ủi: “Hoàng hậu không cần phải bận tâm việc của Hoàng thượng, cứ yên tâm chăm sóc Hạo nhi để Hoàng thượng không phải lo lắng là tốt
rồi”.
Người đã nói vậy thì tôi càng kiên quyết không thèm quan
tâm gì nữa, hằng ngày ngoài việc dạy chữ cho Uy nhi ra, thời gian còn
lại là để ý xem nhũ mẫu trông nom Tề Hạo như thế nào.
Thời tiết
chuyển từ nắng nóng sang mát mẻ, tin tức từ phương bắc liên tiếp truyền
về, hôm nay là quân tiên phong của Hạ Bỉnh Tắc đánh phá được thị trấn
quan trọng của Bắc Mạc, ngày mai báo hành dinh của Tề Thịnh đang di
chuyển về phương bắc bao nhiêu dặm, tóm lại đều là những tin tức tốt
lành.
Tôi ăn ngon ngủ yên, Lục Ly thì lại tỏ ra rất bồn chồn, lén lút hỏi tôi: “Nương nương, Sở vương định ra tay thật sao?”.
Tôi nghĩ một lúc rồi nhẹ nhàng gật đầu.
Nhà xí huynh nếu như muốn thay đổi đại cục thì chỉ có thể nắm lấy cơ hội lần này mà thôi.
Vừa qua rằm tháng Tám chưa được mấy ngày, bánh trung thu trong cung còn
chưa ăn hết, Dương Nghiêm bị Tề Thịnh lưu đày đến Lĩnh Nam đột nhiên
nhân lúc đêm tối đã đột nhập vào cung.
Tôi đang ngủ thì bị lay
dậy, vừa mở mắt ra đã thấy ngay một bóng người đen sì đứng ở đầu giường. Câu đầu tiên mà người đó nói là: “Không tìm thấy cha thần đâu cả”.
Cũng may mà định lực của tôi tốt nên mới không hoảng sợ hét lên, chỉ ngẩn ra một lúc rồi đáp: “Chỗ ta không có... hay là, ngươi đi tìm ở chỗ khác
thử xem?”.
Dương Nghiêm nghiến răng kèn kẹt, giận dữ đẩy tôi vào, chui lên giường tôi ngồi xếp bằng, khẽ nói: “Vừa đến Lĩnh Nam không
được bao lâu thì cha thần đã bắt giam thần lại, khó khăn lắm mới thoát
được thì phát hiện ra ông ấy và đại ca, nhị ca, tam ca của thần đều
không thấy đâu. Hỏi người trong nhà thì chỉ nói là họ đã đi cùng nhau,
nhưng không biết đi đâu”.
Tôi nghe mà choáng váng, bốn cha con
cùng lúc bỏ đi, lẽ nào cùng nhau đi thăm họ hàng? Nhưng thế thì việc gì
phải giam đứa con trai út của mình lại?
Trong đầu chợt xẹt qua một ý nghĩ, tôi hỏi Dương Nghiêm: “Họ đi lúc nào?”.
Dương Nghiêm trả lời: “Nghe nói là đầu tháng Năm, đồ dùng tuỳ thân từ ngày
trong quân ngũ trước đây cũng mang theo rồi. Thần bị giam giữ gần ba
tháng, mấy ngày trước mới trốn ra được, đêm qua thần đến phủ Cửu ca hỏi
thì được biết mấy người họ không tìm Cửu ca”.
Giọng nói của Dương Nghiêm đầy vẻ hoang mang, lo lắng, nói xong thì lặng lẽ nhìn tôi.
Mấy cha con Dương Dự đột nhiên biến mất, nếu là lén lút bỏ trốn thì tuyệt
đối sẽ không mang theo đồ dùng trong quân đội để người khác chú ý, đã
mang đi rồi thì chứng tỏ không sợ bị nhìn thấy.
Tôi cũng thấy hơi rối, suy nghĩ rất lâu mà không tìm ra đầu mối nào, đành phải nói: “Bọn
họ đều là người lớn cả, sẽ không bị người khác lừa gạt đâu. Trước hết
ngươi cứ kiên nhẫn ở lại Thịnh Đô chờ vài ngày...”.
Dương Nghiêm tức giận cắt ngang lời tôi: “Người biết bọn họ đề phòng thần như vậy là nói lên điều gì không?”.
Tôi cũng nổi giận, cười nhạt: “Điều đó chứng tỏ họ không chỉ đề phòng
ngươi, mà còn đề phòng Cửu ca của ngươi nữa, chứng tỏ ngươi và Cửu ca
đều bị lão hồ ly cha ngươi vứt bỏ, chứng tỏ là họ đã sớm chạy về phía Tề Thịnh rồi...”.
Khuôn mặt Dương Nghiêm vừa sửng sốt vừa bực tức.
Tôi lạnh lùng nhìn anh ta, hỏi: “Thế thì sao? Đã đến nước này, ngươi còn có thể làm gì?”.
Dương Nghiêm đờ người ra một lúc, vai dần dần rũ xuống, miệng lẩm bẩm: “Vậy
thần nên làm thế nào? Không ngờ đến thần họ cũng lừa”.
Nhìn bộ
dạng đau khổ của anh ta, tôi không nén được tiếng thở dài, thò chân ra
đẩy đẩy anh ta: “Phủ Sở quận nhất định có người giám sát, ngươi đừng đến đó nữa. Trước tiên hãy đến chỗ Lục Ly, ta sẽ sai người dò la xem thế
nào, có thông tin gì sẽ báo ngay”.
Dương Nghiêm vẫn ngồi đờ ra thêm một lúc nữa rồi mới gật đầu, đứng dậy đi về.
Tôi cứ nằm mở mắt thao láo cho đến khi trời sáng, xâu chuỗi sự việc từ đầu
đến cuối, cho dù là bản thân không muốn chấp nhận phỏng đoán đó đến mấy, thì tất cả đầu mối đều chỉ ra rằng bây giờ Dương Dự có thể đang ở Giang Bắc, thậm chí còn có thể đã ra trận.
Nhưng tại sao Tề Thịnh lại
dám sử dụng Dương Dự - người có nửa huyết thống Bắc Mạc? Tại sao phía
Nhà xí huynh không thấy truyền về một chút thông tin nào?
Đang suy nghĩ miên man như vậy thì nghe thấy tiếng Phúc nhi khẽ gọi: “Nương nương tỉnh rồi ạ? Người đã muốn dậy chưa?”.
Tôi nghĩ một lúc, vén màn lên khẽ gọi Phúc nhi lại, căn dặn: “Hôm nay ngươi hãy bí mật ra khỏi cung, bảo Vương phi Sở quận mau vào cung một
chuyến”.
Cô bé Phúc nhi đã được tôi đào tạo cẩn thận hơn hai năm, suy nghĩ linh hoạt, ăn nói thận trọng, tay chân nhanh nhẹn, điều quan
trọng nhất là bất kể tôi sai làm gì cô đều chỉ “vâng” một tiếng, chẳng
bao giờ hỏi “tại sao”.
Nghe tôi nói muốn bí mật truyền tin đến
Trương Trà Trà, cô vẫn chỉ dứt khoát đáp một tiếng “vâng”, sau đó điềm
nhiên như không gọi cung nữ đang ở ngoài điện vào giúp tôi rửa mặt, chải đầu. Đợi đến khi tôi làm xong công tác vệ sinh thì đã chẳng thấy bóng
dáng Phúc nhi đâu nữa.
Chưa đến buổi trưa thì Trương Trà trà lấy cớ thăm đường tỷ để tiến cung.
Tôi không có sức mà kể chi tiết, chỉ bảo cô nhanh chóng đi tìm Trương
phóng, hỏi xem Tề Thịnh xuất quân đánh Bắc Mạc lần này có gì bất thường
không, chỉ huy các cánh quân có phải đều có danh tính rõ ràng không, có
cái tên nào chưa nghe thấy bao giờ không.
Trương Trà Trà thấy
tôi cho tìm cô gấp như thế để hỏi những chuyện này thì có vẻ hơi ngạc
nhiên, vừa từ tốn uống trà vừa hỏi tôi: “Đại tỷ tỷ, chuyện này rất quan
trọng sao?”.
Tôi lo đến líu cả lưỡi, chuyện này vô cùng quan trọng ấy chứ, liên quan tới việc ngươi goá chồng hay ta goá chồng!
“Quan trọng, chuyện này cực kì quan trọng, muội nhất định không được để người khác biết”.
Trương Trà Trà vừa nghe đến đây lập tức đặt cốc trà xuống, quay người định đi.
Tôi vội vàng kéo cô lại, hỏi: “Muội đi đâu?”.
Trương Trà Trà quay đầu lại trả lời tôi: “Muội đi tìm đại bá ạ”.
Tôi bất đắc dĩ thở dài một tiếng, nhét lại cốc trà vào tay cô: “Muội phải
ghi nhớ, bất kể là việc gấp như thế nào thì bản thân mình cũng phải bình tĩnh, nếu không nhất định sẽ để lộ sơ hở. Muội vừa đến đã vội vàng ra
về, sợ người khác không biết muội đến báo tin sao?”.
Trương Trà Trà chớp chớp đôi mắt to tròn, hỏi tôi: “Vậy phải làm thế nào ạ?”.
Tôi đáp: “Ăn trưa xong rồi hãy đi”.
Tôi sai Tả Ý bế Tề Hạo và Tề Uy vào, sau đó cùng hai đứa bé và Trương Trà Trà ăn cơm rồi mới để cô về.
Kết quả là chưa nhận được câu trả lời của Trương Phóng thì Giang Bắc đã gửi tin báo thắng trận trở về. Nguyên Bình Tây hầu Dương Dự dẫn mười vạn
đại quân men theo tuyến Cát Thành - Mậu Thành - Lương Châu tiến vào thảo nguyên Tây Xuyên - Tây Hồ, bí mật thâm nhập Bắc Mạc, sau đó lại vượt
qua hàng nghìn dặm trên sa mạc để tấn công sâu vào trung bộ Bắc Mạc,
nhân lúc Bắc Mạc chưa chuẩn bị liền chiếm luôn mấy thị trấn quan trọng,
đã tiến đến cách Thượng Kinh, kinh đô Bắc Mạc, chưa đầy một trăm về phía nam.
Nghe nói tuyến đường hành quân của Dương Dự chính là là
tuyến đường mà năm mươi năm trước Sát tướng Bắc Mạc, Thường Ngọc Thanh,
đã đi qua. Chỉ có điều ngày trước ông ta từ bắc xuống nam, ngày nay
Dương Dự lại từ nam lên bắc. Phương hướng mặc dù trái ngược nhưng hiệu
quả thì chẳng khác nhau là mấy.
Công báo truyền về, toàn bộ triều đình choáng váng.
Tôi cũng ngỡ ngàng, ngồi đờ đẫn cả nửa ngày trên bậc thềm bên ngoài điện, sau đó mới gọi Phúc nhi truyền lời đến Dương Nghiêm.
Đêm ấy, Dương Nghiêm lần mò vào cung. Anh ta có vẻ gầy đi nhiều, dáng người nhìn lại càng cao, toàn bộ con người giống như sợi dây đàn kéo căng,
bất cứ lúc nào cũng có thể đứt, ánh mắt sáng quắc nhìn tôi, hỏi: “Hoàng
hậu khẳng định cha thần thay Tề Thịnh đem quân đi đánh trận?”.
Trong điện không thắp nến, dựa vào ánh trăng bên ngoài cửa sổ, tôi nhìn đôi
mắt sáng như bóng đèn của anh ta, cười: “Dù sao thì trên công báo cũng
viết thế. Nghĩ lại thì, ban đầu cha ngươi dẹp loạn ở Vân Tây, là chủ
soái toàn quân, người bên cạnh không ít, ông ta làm sao có thể thoát
được tai mắt của Tề Thịnh để bí mật vượt hàng nghìn dặm về Thịnh Đô? Chủ soái vừa ra trận đã bỏ chạy, nếu không được Tề Thịnh ngầm ưng thuận thì sao có thể làm được! Bây giờ nghĩ lại thấy chúng ta lúc đó thật ngốc!
Trong mắt Tề Thịnh thì ngươi, ta, cả Cửu ca trông có vẻ thông minh của
ngươi nữa, đều chẳng khác gì mấy tên hề trong đoàn tạp kỹ”.
Một lúc lâu sau đôi môi mím chặt của Dương Nghiêm mới hơi thả lỏng, hỏi tôi: “Bây giờ phải làm thế nào?”.
Thực ra tôi đã sớm có chủ ý nhưng lại sợ anh ta không dễ dàng nghe theo, bèn giả bộ cúi đầu xuống nghĩ một lúc, rồi bất ngờ vươn tay ra, mạnh mẽ nắm lấy tay anh ta, gọi: “Dương Nghiêm!”.
Dương Nghiêm vui vẻ, vội lên tiếng: “Có cách rồi à?”.
Tôi nhìn anh ta với ánh mắt vô cùng chân thành, tha thiết nói: “Chúng ta... chạy trốn đi”.
Khoé miệng của Dương Nghiêm giật giật, một lúc lâu mới nhếch lên, cười gằn: “Giờ là lúc nào rồi mà người vẫn còn đùa được?”.
Tôi lắc đầu: “Không đùa đâu. Trước mắt Tề Thịnh vừa phải chỉ huy đánh trận
vừa phải đề phòng Lão cửu, chẳng còn tâm trạng mà để ý đến hai chúng ta
đâu. Chúng ta nhân cơ hội này bỏ trốn! Đem theo Tề Uy và Tề Hạo, như vậy không những ngươi có vợ mà đến cả con cái cũng có luôn, lợi thế còn
gì...”.
Dương Nghiêm lùi lại đằng sau một bước, đưa ngón tay chỉ
vào mình, giọng lạc hẳn đi, lắp bắp hỏi: “Người người người... muốn lấy
thần?”.
Tôi gật đầu: “Hai chúng ta đi chung đường, đương nhiên
phải giả làm vợ chồng để tránh gây chú ý. Ngươi yên tâm, ta có tiền, chỉ cần trốn đến một nơi an toàn thì sẽ không phải lo lắng gì về cái ăn cái mặc hằng ngày đâu. Hơn nữa, ta còn là hiền thê, ngay cả một hậu cung
lớn như thế này mà vẫn cai quản được, giúp ngươi quản lý khoảng mười tì
thiếp chỉ là chuyện nhỏ”.
Dương Nghiêm đột nhiên nổi giận, hất
tay tôi ra, nói: “Bậy bạ! Người là hoàng hậu, chỉ cần Tề Thịnh không
chết thì người làm sao mà có thể bỏ trốn được! Lại càng đừng nói người
còn mang theo một hoàng tử và một công chúa! Nếu thần chỉ mang theo mình người bỏ trốn thì Tề Thịnh có lẽ chỉ giết một mình thần, nhưng nếu thần mang theo cả ba mẹ con người thì Hoàng thượng sẽ giết cả gia tộc nhà
thần mất!”.
Nghe anh ta nói vậy, tôi lập tức cảm thấy nhẹ nhõm.
Tôi cứ sợ trong lúc nóng đầu anh ta sẽ đồng ý luôn, may mà anh ta chưa mất
trí, vẫn biết chuyện mang theo hoàng hậu bỏ trốn là viển vông.
Tôi giả vờ sửng sốt trước lời quát tháo của anh ta, thẫn thờ nhìn anh ta một lát rùi cụp mắt xuống.
Quả nhiên mấy năm sống với Tề Thịnh không vô ích, kỹ thuật diễn xuất rất
điêu luyện, một lúc sau Dương Nghiêm do dự đưa tay về phía tôi, đến giữa chừng thì lại rút về, một lúc sau mới khẽ nói: “Xin lỗi”.
“Ngươi không cần xin lỗi ta”, tôi khẽ đáp, vẻ tươi cười trên khuôn mặt tắt dần.
Kiểu người chỉ qua lớp đào tạo diễn xuất cấp tốc trong mấy ngày như Dương
Nghiêm đúng là không được. Anh ta nhìn thấy vẻ mặt tôi thì lại càng áy
náy, cứ như thể không mang tôi đi cùng chính là bỏ vợ bỏ con không bằng, vô cùng thận trọng hỏi: “Không còn cách nào khác sao?”.
Tôi hít
một hơi thật sâu, lấy lại tinh thần, hỏi Dương Nghiêm: “Ngươi có biết
Lão cửu định lúc nào thì ra tay với Tề Thịnh không? Dùng thủ đoạn gì?”.
Dương Nghiêm lắc đầu: “Cửu ca không nói với thần”.
“Cha ngươi cũng không biết sao?”
Dương Nghiêm do dự một lát: “Không biết, chỉ nói là đã sắp xếp cảm tử quân
rồi thôi. Thần vốn muốn đích thân giết Hoàng thượng nhưng Cửu ca không
đồng ý”.
“Vậy được rồi, bây giờ có hai cách. Cách một, ngươi lập
tức đến biên cương phía bắc ngăn không cho Cửu ca của ngươi ra tay, sau
đó hai người giả chết mà trốn đi, chạy xa bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu”.
Dương Nghiêm ngắt lời tôi, hỏi: “Thế còn người thì sao?”.
“Ta?”, tôi cười hỏi anh ta: “Ta cũng muốn bỏ trốn, nhưng ngươi chẳng nói là ta chạy không được đó sao?”.
Dương Nghiêm nhìn tôi, hồi lâu sau mới hỏi: “Cách thứ hai là gì?”.
Tôi vui vẻ đáp: “Cách thứ hai là đợi. Nếu Cửu ca của ngươi thắng thì chẳng
có gì phải nói. Nếu thất bại thì chúng ta sẽ đợi Tề Thịnh trở về Thịnh
Đô. Anh ta đại thắng trở về, lại tự cho là đã phá vỡ được âm mưu của
chúng ta, nhất định sẽ vô cùng đắc ý, mười phần thì chắc đến tám, chín
phần sẽ lại chỗ ta diễu võ dương oai, đến lúc đó ngươi giết anh ta là
được”.
Dương Nghiêm kinh ngạc: “Giết Tề Thịnh ở chỗ người?”.
Tôi hỏi vặn lại: “Tại sao lại không? Tề Thịnh lúc nào cũng tính toán, làm
việc gì cũng có kế hoạch rõ ràng, chẳng nhẽ chúng ta lại ngồi im ở đây
chờ chết sao?”.
Dương Nghiêm cúi đầu suy nghĩ một lát, nói: “Vậy thì cứ làm theo cách thứ hai đi”.
Vòng cả trăm dặm đường, diễn một màn kịch lâu như thế, tất cả chỉ để nghe
được câu này của anh ta, giờ đã nghe được rồi, tảng đá to tướng trong
lòng tôi cũng xem như biến mất.
Ngày hôm sau, tôi vừa nói với Lục Ly, cô đã nhảy dựng lên, thất thanh: “Nương nương hồ đồ rồi! Nếu đã
định làm thế thì phải để anh ta một mình đến Giang Bắc ra tay, như vậy
mới có thể khiến thần không biết quỷ không hay. Còn nếu ra tay trong
cung, lỡ việc không thành thì nương nương cũng chẳng còn đường sống”.
Sống trong cung mấy năm, tôi đã đạt được trình độ dù Thái Sơn có đổ sụp
trước mắt thì mặt cũng không biến sắc. Lục Ly xúc động như vậy, nhưng
tôi cũng chỉ lạnh lùng liếc cô, hỏi: “Ngươi cũng có thể nghĩ đến những
điều này, chẳng lẽ Tề Thịnh lại không nghĩ ra sao?”.
Lục Ly sững sờ một lát.
Chính vì mọi người đều cho rằng tốt nhất là giết Tề Thịnh ở Giang Bắc nên ta
mới muốn làm ngược lại, đợi Tề Thịnh trở về cung rồi mới ra tay.
Tôi cúi đầu tiếp tục bóc lựu ăn, nhẫn nại khuyên cô: “Bình tĩnh đi, đã đến
nước này thì tất cả những gì có thể làm được cũng chỉ là liều đến cùng
mà thôi. Ta cá là Tề Thịnh chưa giết ta ngay khi vừa về đâu, lúc đó vừa
vặn giúp chúng ta dễ ra tay hơn”.
Lục Ly đứng ngây ra một lát rồi thẫn thờ ngồi xuống, một lúc sau mới hỏi: “Bây giờ chúng ta chỉ có thể chờ đợi thôi sao?”.
Tôi gật đầu: “Ngươi bí mật liên lạc với nhà, bảo họ nắm chặt lấy Thủ vệ
quân ở kinh thành, đến lúc Tề Thịnh xảy ra chuyện thì việc ổn định được
cục diện ở Thịnh Đô hay không hoàn toàn dựa vào họ”.
Lục Ly lại hỏi tiếp: “Sau đó thì sao?”.
“Sau đó? Cứ đợi đã”, tôi đáp.
Chuyện đã đến nước này cũng chỉ có thể tiếp tục: “lấy bất biến ứng vạn biến” mà thôi.
Lục Ly lo lắng thấp thỏm đi qua đi lại trong điện một hồi vẫn không nghĩ ra cách gì, thở dài một tiếng, sau đó lại khoác lên bộ mặt vui vẻ rạng rỡ
như không có chuyện gì mà ra về.
Chiến trận ở phương bắc diễn ra ác liệt, trong triều cũng rất náo nhiệt, duy chỉ có hậu cung là vẫn im như tờ.
Tề Thịnh không ở đây, các phi tần muốn lấy lòng hoàng đế cũng chẳng được,
hậu cung vì thế vô cùng yên ổn, mọi người xưng hô chị chị em em, lúc
rảnh rỗi lại sang cung của nhau tán chuyện, ít ra bề ngoài thì có vẻ
thân thiết gần gũi hơn trước.
Tôi nghĩ, lỡ sau này mình rơi vào
tay Tề Thịnh, nếu không chết thì kết cục cũng là cả đời cơm lạnh canh
nguội ở chốn lãnh cung tăm tối, vì thế càng phải trân trọng khoảng thời
gian tốt đẹp trước mắt. Hằng ngày ngoài việc ăn uống, vui chơi, ngắm mỹ
nhân ra, thì thời gian còn lại đều dùng để trêu đùa với Tề Uy và Tề Hạo.
Cứ như vậy đến tháng Mười, hôm đó tôi đang đưa hai con đi dạo trong nhự
hoa viên thì cung nữ bên người Thái hoàng thái hậu đột nhiên đến tìm,
nói Thái hoàng thái hậu mời tôi nhanh chóng qua chỗ người.
Thái
hoàng thái hậu từ lâu đã không quản chuyện trong hậu cung, nếu có chuyện thì nhiều lắm là bảo cung nữ đến nói với tôi, nhưng hôm nay đột nhiên
lại gọi tôi gấp như vậy, hẳn là có chuyện lớn rồi.
Tôi cũng lờ mờ đoán được đó là chuyện gì nên cố gắng lấy lại tinh thần, sai cung nữ
bên cạnh đưa Tề Uy và Tề Hạo trở về cung Hưng Thánh trước rồi theo cung
nữ kia đến chỗ Thái hoàng thái hậu.
Cung nữ đưa tôi tới ngoài điện của Thái hoàng thái hậu rồi khẽ nói: “Thái hoàng thái hậu mời một mình người vào”.
Tôi vô cùng kinh ngạc, khẽ ho một tiếng rồi mới bước vào.
Trong nội điện, Thái hoàng thái hậu đang chống gậy đứng bên cửa sổ, sống lưng hiếm khi thấy thẳng như vậy, nghe thấy tiếng chân tôi bước tới mới chậm rãi quay người lại: “Hoàng hậu đến rồi đấy à?”.
Tuy giọng nói không to nhưng lộ rõ vẻ uy nghiêm khó tả, khác hẳn với thái độ hiền dịu, nhân từ trước đây.
Tôi rùng mình, vội kính cẩn đáp lại một tiếng, thận trọng hỏi người triệu tôi đến có việc gì.
Người chỉ vào án thư bên cạnh: “Đến từ phương bắc, Hoàng hậu tự mình xem đi”.
Tôi cầm mật tấu trên án thư lên xem kỹ, đọc xong nội dung thì hay rồi, mồ hôi sau lưng lập tức tuôn ra.
Mật tấu nói rất sơ lược, cuộc chinh phạt phương bắc ban đầu rất thuận lợi,
tin chiến thắng của các cánh quân báo về liên tiếp, nhưng từ sau khi Bắc Mạc qua phút bất ngờ, bắt đầu phản ứng lại, nhanh chóng điều động binh
lực toàn quốc để phản công thì chiến sự trở nên căng thẳng. Đúng lúc ấy
Tề Thịnh đột nhiên bị ám sát, mặc dù vết thương không sâu nhưng vũ khí
lại tẩm chất độc, độc tố rất mạnh, trong quân không có thuốc giải, hiện
giờ Tề Thịnh đang nằm tại chỗ.
Nếu như hoàng đế chết ở tiền tuyến thì không những trong quân sẽ loạn mà ngay cả triều đình e cũng không yên.
May mà Tề Thịnh tuy trúng độc nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, lập tức giấu
chuyện bị trúng độc. Một mặt ra lệnh cho đại quân dừng lại đóng quân ở
một thị trấn nhỏ của Bắc Mạc để nghỉ ngơi, mặt khác phái người thần tốc
mang vũ khí tẩm độc về Thịnh Đô, lệnh cho Thái y viện nghiên cứu điều
chế thuốc giải.
Tôi ngẩng đầu lên nhìn Lâm lão thái thái, run rẩy hỏi: “Thái y viện liệu có chế được thuốc giải không?”.
Lão thái thái vẻ mặt cương nghị nhưng giọng nói vẫn không giấu được đau
buồn: “Đang nghiên cứu rồi, nhưng cho dù hôm nay có thể điều chế được
thuốc giải thì nhanh nhất cũng phải mất hơn mười ngày mới tới được chỗ
Hoàng thượng, không biết...”.
Người không nói tiếp được nữa,
nhưng tôi đã hiểu, ý là thuốc giải độc cho dù đến được chỗ Tề Thịnh thì
cũng chẳng biết anh ta còn mạng mà dùng nó không.
Cảm tử quân của Nhà xí huynh thực sự đã ra tay? Tề Thịnh sẽ chết sao?
Tôi cũng không biết cảm xúc trong lòng mình lúc này là căng thẳng hay kích
động, là vui mừng hay chấn động nữa, rõ ràng là có hàng nghìn hàng vạn
cảm xúc đang đồng loạt dâng lên nhưng trong lòng lại cảm thấy trống
rỗng, chỉ còn biết đứng ngây người ra.
Lão thái thái nhìn vẻ mặt tôi, mắt cũng đỏ hoe, khẽ nói: “Ngoan, con phải kiên trì mới được”.
Môi tôi run run, không sao nói nên lời. Lão thái thái, tôi bây giờ phải kiên trì cái gì, rõ ràng là cần phải vững vàng mới đúng!
Tề Thịnh bây giờ chỉ có hoàng tử duy nhất là Tề Hạo, mặc dù hiện tại vẫn
chưa được một tuổi rưỡi, nhưng vẫn là người thừa kế ngai vàng một cách
danh chính ngôn thuận, lại có sự hỗ trợ của Trương gia và Nhà xí huynh,
nếu như không có gì thay đổi thì ngôi vị hoàng đế này sẽ truyền lại cho
nó rồi.
Con trai một khi là Hoàng đế thì người làm mẹ như tôi
cũng sẽ lên chức thái hậu. Hơn nữa, còn là vị thái hậu có quyền thế kinh người.
Lưỡi gươm treo lơ lửng trên đầu cuối cùng cũng đã biến mất, tương lai sẽ không còn phải nhìn sắc mặt Tề Thịnh mà sống nữa.
Đây rõ ràng là chuyện vui, tại sao trong lòng tôi lại thấy buồn phiền khó chịu? Hay là tôi nhập vai quá đà rồi?
Vẻ mặt của Lão thái thái vô cùng đau buồn, người bước lên phía trước hai
bước, vịn vào tôi, giọng bi thương: “Bồng Bồng, con nhất định không được gục ngã, chỗ Hoàng đế còn cần con”.
Tôi sững người, mơ hồ nhìn Lão thái thái. Chỗ Tề Thịnh còn cần tôi ư?
Lão thái thái chăm chú nhìn tôi: “Thịnh nhi nói muốn con đến chỗ nó”.
Tôi sửng sốt, người ta khó khăn lắm mới ngoi lên được, vừa thoát ra khỏi
vai diễn chưa được bao lâu. Mẹ kiếp, không phải chứ? Cho dù Hoàng đế
muốn có người tuẫn táng thì cũng phải là các phi tần chứ? Chưa nghe
hoàng hậu cũng phải chôn cùng bao giờ.
“Bảo thần thiếp tới đó?”, tôi nghi ngờ hỏi lại.
Lão thái thái trịnh trọng gật đầu, mắt đỏ hoe, nước mắt chực tuôn rơi.
Người rút từ trong ngực ra một bức thư đưa cho tôi: “Đây là thư Thịnh
nhi gửi cho con”.
Mật tấu vừa nãy là thân tín của Tề Thịnh chấp
bút, được coi là công văn nội bộ. Còn bức thư trên tay lúc này chắc là
thư riêng rồi.
Cho dù là công văn hay thư riêng, nơi gửi đến đều
là chỗ Thái hoàng thái hậu, qua đó có thể thấy Tề Thịnh rất tin tưởng bà nội mình.
Trong thư chỉ viết có tám chữ: Ranh giới sống chết, chỉ mong gặp mặt.
Tôi đã có một thời gian sống ở cung Đại Minh, Tề Thịnh chê chữ tôi viết khó đọc, còn từng nắm tay dạy tôi viết, nét chữ của anh ta tôi rất quen
thuộc. Bút tích trên bức thư này mặc dù có vẻ hơi rối và thiếu sức sống, nhưng đúng là bút tích của Tề Thịnh.
Tôi xem thư, bất giác sững sờ.
Lại nghe thấy tiếng nói của Lão thái thái: “Theo lễ nghi thì hoàng hậu
không thể xuất cung vào lúc này, lại càng không được đến nơi đang xảy ra loạn lạc, nhưng đây là Thịnh nhi...”, Lão thái thái dừng lại, hít một
hơi sâu rồi mới tiếp tục nói: “Có lẽ đây là lần gặp mặt cuối cùng, nếu
Hoàng thượng đã có tâm nguyện như vậy thì Hoàng hậu đi đi”.
Tôi sực tỉnh, ngước mắt nhìn Lão thái thái.
Chưa đợi tôi mở miệng, Lão thái thái đã tiếp tục nói: “Hoàng hậu yên tâm, ta sẽ lo cho Uy nhi và Hạo nhi. Chỉ cần bà lão này còn sống ngày nào thì
Thịnh Đô sẽ không có ai dám tạo phản đâu”.
Đến giây phút mấu chốt này, nước mắt tôi cuối cùng cũng rơi xuống.
Chết tiệt! Tôi không tin là mình lại có ý nghĩa với Tề Thịnh đến như vậy, cứ làm như trước khi chết mà không gặp được tôi thì anh ta sẽ không nhắm
được mắt ấy.
Có rất nhiều điểm đáng ngờ ở đây.
Thứ nhất,
nếu Tề Thịnh sớm đã biết âm mưu của Nhà xí huynh qua Dương Dự, vậy thì
nhất định đã đề phòng rất nghiêm ngặt, tại sao bây giờ lại bị người ta
hành thích?
Thứ hai, cứ xem như Nhà xí huynh may mắn thành công,
nhưng Tề Thịnh đâu đã chết ngay, sao còn không định tội Nhà xí huynh?
Trên mật tấu thậm chí còn không nhắc đến tên Nhà xí huynh một lần nào?
Trong chuyện này có quá nhiều chỗ không hợp lý.
Đầu tôi không ngừng suy nghĩ, bề ngoài thì giả vờ kiên cường, quệt nước
mắt, gật đầu không một chút do dự: “Thần thiếp đi, thần thiếp sẽ lập tức đến Bắc Mạc”.
Lão thái thái nhìn tôi, gật đầu, vẻ mặt có vẻ nhẹ nhõm hơn.
Vừa về đến cung Hưng Thánh thì tin tức từ chỗ Tống thái hậu cũng truyền đến, Tề Thịnh đúng là đã bị hành thích, đang trúng độc.
Tận lúc này tôi mới thật sự tin Tề Thịnh bị hành thích. Tiếp đó, tôi bắt
đầu suy nghĩ tại sao Thái hoàng thái hậu và Tề Thịnh lại muốn tôi đến
Giang Bắc.
Suy nghĩ theo chiều hướng tích cực thì là Tề Thịnh
muốn gặp tôi để bàn một số chuyện. Nhưng vượt qua một đoạn đường xa xôi
hàng nghìn dặm chỉ để nói vài câu, chuyện này quá sến, cũng không phù
hợp với tính cách của Tề Thịnh.
Suy nghĩ theo chiều hướng tiêu
cực thì là họ sợ sau này vua còn nhỏ, mẫu hậu nhiếp chính sẽ để ngoại
thích lộng quyền, muốn nhân cơ hội này trừ khử Hoàng hậu là tôi.
Càng nghĩ càng thấy “giết mẹ giữ con” mới là mục đích thực sự của họ.
Vì điều này mà Tề Thịnh còn giả vờ viết ra tám chữ lừa tình đó, rõ ràng là muốn làm xáo trộn tâm trí tôi. Nếu tôi không nhận ra dã tâm đằng sau đó thì chẳng biết hai bà cháu nhà này còn muốn gài bẫy tôi như thế nào
nữa!
Vậy, rốt cuộc là nên đi hay không đây?
Đi, rất có khả năng là tìm đường chết. Nhưng nếu cứ quyết tâm nhất quyết không đi thì
đồng nghĩa với việc tự vạch mặt mình. Chưa nói đến việc lỡ Tề Thịnh
không chết thì tôi đương nhiên chẳng còn đường lui, mà hiện tại, phía
Thái hoàng thái hậu tôi cũng không dám chắc có thể chống đỡ được, e rằng tôi nhất định phải đi gặp Tề Thịnh rồi.
Lão thái thái này đúng là sắp thành tinh rồi.
Tôi nằm trên giường suy nghĩ cả buổi tối, ngày hôm sau thức dậy, thấy người trong gương vô cùng tiều tuỵ, nét mặt ủ rũ còn hơn cả hoa cúc vàng.
Tả Ý thấy thế thì vô cùng kinh ngạc hoảng sợ hỏi: “Nương nương, người làm sao vậy?”.
Tôi chẳng có tâm trí đâu mà giải thích với cô, chỉ bảo cô đến chỗ Thái hoàng thái hậu hỏi xem thuốc giải đã điều chế ra chưa.
Tả Ý vừa rời khỏi, tôi liền bảo Phúc nhi đến phủ Triệu vương truyền tin cho Lục Ly.
Hai ngày sau, Hoàng hậu đột nhiên bị cảm cúm nằm liệt giường. Sau khi chẩn
đoán thái y thông báo bệnh của Hoàng hậu không có gì nghiêm trọng nhưng
cần phải tĩnh dưỡng, Hoàng đế vắng mặt, Hoàng hậu lại đột nhiên ngã
bệnh, trong cung không khỏi hoang mang lo sợ.
Thời điểm quan trọng, vẫn là đồng chí lão làng đứng lên.
Thái hoàng thái hậu
không những tiếp quản toàn bộ sự vụ trong cung mà còn đưa hoàng tử Tề
Hạo và công chúa Tề Uy sang chỗ mình để dạy dỗ. Có Lão phật gia tôn kính cai quản, trong cung lập tức ổn định lại. Hoàng hậu nghe lời thái y,
ngoan ngoãn nằm trên giường tĩnh dưỡng, cung Hưng Thánh cũng vì thế mà
đóng cửa không tiếp khách.
Cùng lúc đó, Trương Bồng Bồng tôi đã
cải nam trang, đem theo Tả Ý cùng hơn hai mươi cao thủ, giữa đêm tối rời Thịnh Đô tiến về phương bắc.
Một đường vung roi thúc ngựa, tốc
độ rất nhanh, vài ngày sau đã đến sông Uyển Giang. Ở đó có thuyền chờ
sẵn, đợi đoàn chúng tôi xuống là lập tức giương buồm tiến thẳng đến bến
Giang Bắc.
Qua được sông Uyển Giang, chúng tôi tiếp tục ngày đêm
không nghỉ, men theo tuyến đường Thái Hưng, Dự Châu, Tiểu Trạm tiến về
phương bắc, dự tính sẽ qua cửa khẩu Tịnh Dương đến thẳng chỗ đóng quân
của Tề Thịnh ở thành Bình Ninh của Bắc Mạc.
Khi đi qua cửa khẩu
Tịnh Dương đã là ngày Mười bảy tháng Mười, tính từ ngày rời khỏi Thịnh
Đô, tôi đã ở trên lưng ngựa tám ngày, đừng nói hai bên đùi bị cọ sát đến trầy thịt chảy máu mà ngay cả tính mạng e cũng đã mất một nửa.
Buổi trưa, sau khi ngồi nghỉ trong rừng, tôi không cách nào leo nổi lên mình ngựa. Tả Ý đứng bên cạnh dùng cả thân người đỡ tôi lên, mếu máo nói:
“Nương nương, người hãy nghỉ thêm chút nữa đi”.
Tôi đẩy cô ra,
bám vào yên ngựa tiếp tục leo lên, sau khi té ngã một lần nữa thì nghe
thấy tiếng đội trưởng đội thân vệ hộ tống nói: “Xin thất lễ, nương
nương”, sau đó luồn tay xuống nách tôi, nhẹ nhàng đặt tôi lên ngựa.
Nắm chặt lấy dây cương, tôi ngồi thẳng lên, quay đầu lại nói: “Làm phiền ngươi giúp luôn thị nữ của ta nữa”.
Anh ta không đáp, chỉ lẳng lặng giúp Tả Ý lên ngựa.
Đoàn người lại tiếp tục quất ngựa tiến về phía trước, đi khoảng một trăm dặm nữa mới đến được một trấn nhỏ. Mấy ngày vừa rồi, dù đi qua thành phố và thị trấn thì chúng tôi cũng không ở trọ, nhưng lần này đội trưởng đội
thân vệ lại thúc ngựa đến bên cạnh tôi, tôn kính nói khẽ: “Nương nương,
chúng ta dừng lại nghỉ ở đây một đêm rồi hẵng đi tiếp. Mọi người đều đã
rất mệt mỏi, hơn nữa sau khi qua cửa khẩu thì không tiện đổi ngựa, cũng
phải cho lũ ngựa nghỉ ngơi nữa”.
Tôi đưa mắt lướt một vòng thì
phát hiện “mọi người” mà anh ta nói chỉ bao gồm hai người: tôi và Tả Ý.
Tôi hơi do dự một chút nhưng vẫn ngoan ngoãn gật đầu.
Đêm hôm đó, chúng tôi nghỉ lại khách điếm duy nhất trong thị trấn. Đến nửa đêm thì
có một người mặc đồ đen lẻn vào phòng tôi, đánh ngất Tả Ý vừa ngồi dậy
định lấy thân ngăn cản, sau đó dùng chăn quấn tôi lại và chạy trốn qua
cửa sổ.
Thân vệ gác đêm rất nhanh đã phát hiện ra, huýt sáo một
tiếng, lập tức cả đội thân vệ thức giấc. Hắc y nhân cũng không dây dưa
với họ, vung kiếm gạt một thân vệ chặn đường, tiếp tục ôm tôi nhảy qua
cửa ra ngoài rồi trèo lên lưng con tuấn mã chuẩn bị sẵn, hiên ngang
phóng đi.
Đội thân vệ tách ra, người thì đi lấy ngựa ở sau nhà trọ, người thì lao nhanh đến, trực tiếp dùng khinh công đuổi theo.
Tôi thò đầu ra khỏi ngực của hắc y nhân, vừa vùng vẫy vừa hướng về phía sau kêu gào: “Cứu ta với, cứu ta với!”.
Hắc y nhân không bình tĩnh được nữa, kéo chiếc khăn bịt mặt màu đen ra: “Là thần, Dương Nghiêm đây”.
Tôi tức giận, trừng mắt lên: “Phí lời, không phải ngươi thì ta dám kêu chắc!”.
Nói xong lại tiếp tục ra sức đóng vai con gái nhà lành bị người xấu bắt cóc.
Dương Nghiêm dùng một tay ôm chặt lấy tôi, khẽ nói: “Vậy người cẩn thận một chút, đừng có cào vào mặt thần”.
Tôi cứng người lại, tránh khuôn mặt anh ta, chỉ ra vẻ đánh vào ngực và vai anh ta.
Một đôi chân cuối cùng vẫn không thắng được hai đôi chân, chẳng mấy chốc
đám người đuổi theo phía sau dần dần khuất dạng. Tôi lập tức nắm chặt
lấy cơ hội để lười biếng, đã chẳng nhìn thấy ai đuổi theo nữa thì cần gì phải vẫy vùng, chỉ thỉnh thoảng kêu lên mấy tiếng là được.
Dương Nghiêm cuối cùng cũng không nhẫn nại được, giơ kiếm lên thương lượng:
“Nào, chúng ta phối hợp với nhau chút đi. Người giả vờ hét lên một tiếng để thần có cớ đánh ngất người, đỡ phải mất công kêu nữa làm gì”.
Tôi cân nhắc chốc lát rồi thét lên một tiếng, ngay trước khi Dương Nghiêm ra tay lại đột nhiên im bặt.
Dương Nghiêm nhìn tôi: “Xem như người thức thời”.
Dựa vào ánh trăng, tôi thò đầu nhìn ra đằng sau, hỏi: “Bọn họ liệu có đuổi kịp chúng ta không?”.
Dương Nghiêm cười khà khà, đắc ý nói: “Không đâu, thần đã hạ thuốc cho đám ngựa trước rồi”.
Lúc này tôi mới yên tâm, rúc vào tấm chăn quấn trên người, tìm một vị trí
thoải mái dựa vào người anh ta, dặn dò: “Ta chợp mắt một lúc, khi nào
đến được chỗ an toàn thì gọi ta”.
Nói xong liền lăn ra ngủ như chết.
Khi tỉnh lại thì thấy mình ở bên một khe suối, trời đã sáng hẳn, tôi đưa
mắt nhìn cây cối rậm rạp, to lớn xung quanh, có vẻ đang ở sâu trong
rừng.
Dương Nghiêm đang ngồi bên đống lửa hơ nóng lương khô, thấy tôi tỉnh dậy liền đến gần, cảm khái: “Người thật tàn nhẫn với bản thân
mình, cứ nhất định phải qua khỏi cửa khẩu Tĩnh Dương mới cho thần ra
tay. Nếu cứ theo ý thần mà ra tay ngay khi qua sông Uyển Giang thì người đã đỡ phải chịu tội mấy ngày”.
Tôi chẳng để ý đến lời nói của anh ta, chống người đứng dậy đến bên khe suối rửa mặt.
Dương Nghiêm lại đi theo sau, ngồi xổm bên cạnh mà tiếp tục ca cẩm: “Thần
nghĩ mãi vẫn không hiểu, Cửu ca cũng đã truyền tin về nói Tề Thịnh bị
trúng độc, thế sao người còn nghe lời bà già Lâm thị kia mà đến Bắc Mạc
làm gì? Ở lại Thịnh Đô chờ làm thái hậu có tốt hơn không! Người đi như
vậy chẳng phải đã dọn chỗ cho Thái hoàng thái hậu sao? Lỡ bà ta nảy ra ý định gì thì người làm sao mà ứng phó kịp”.
Tôi không đồng ý với
suy nghĩ đó, Thịnh Đô đã bị Trương Phóng khống chế, Thái hoàng thái hậu
có làm gì cũng chẳng thể thay đổi được thế cục, chính chỗ Tề Thịnh mới
là quan trọng nhất.
Tôi dùng tay áo lau qua mặt rồi rút từ trong túi ra một cái lọ sứ nhỏ, hỏi anh ta: “Biết đây là cái gì không? “.
Dương Nghiêm cầm lấy quan sát kỹ, còn mở nắp ra ngửi, hỏi: “Thuốc giải?”.
Tôi gật đầu: “Nếu ta không đích thân đi một chuyến, lỡ có người mang lọ thuốc này đến cho Tề Thịnh thì làm thế nào?”.
Nói xong, tôi lấy lại cái lọ sứ trong tay anh ta, dốc miệng đổ xuống đất.
“Ý!?”, Dương Nghiêm vội dùng tay chặn lấy miệng lọ, hết sức kinh ngạc nhìn tôi, hỏi: “Người đã nghĩ kỹ chưa?”.
Nghĩ kỹ chưa?
Tôi nghiêm túc suy nghĩ một lát, cuối cùng vẫn kiên quyết đổ hơn nửa chỗ
thuốc giải xuống dòng nước. Những viên thuốc đen nhánh bị nước cuốn đi
thật xa, nháy mắt đã không thấy đâu nữa.
Đến giờ phút này thì
quan hệ giữa tôi Tề Thịnh đã trở thành anh sống thì tôi chết, chẳng còn
tình cảm hay yêu thương gì nữa, dù sao mấy thứ đó cũng đâu thể ăn thay
cơm!
Dương Nghiêm im lặng hồi lâu, sau đó mới nói bằng giọng yếu ớt: “Trương Bồng Bồng, người thật độc ác”.
Tâm trạng của tôi bỗng trở nên rất tệ, thẫn thờ nhìn dòng nước, đáp lại, “Đa tạ, quá khen rồi”.
Dương Nghiêm nghẹn họng, mở to mắt nhìn tôi.
Tôi cảm thấy lúc này thực sự không nên đa sầu đa cảm, liền đưa tay đỡ lưng, lê đôi chân bị thương trở về bên đống lửa, cầm lương khô lên ăn.
Dương Nghiêm thở dài, hỏi tôi: “Tiếp sau đây nên làm gì?”.
Tôi lắc đầu: “Trước tiên ngươi mang ta đi trốn vài ngày, đợi phản ứng của
đại quân trên Bắc Mạc đã. Nếu đại quân lặng lẽ rút dần về Nam Hạ thì có
thể khẳng định Tề Thịnh đã không qua được rồi. Lúc đó chúng ta sẽ liên
hệ ngay với người của Trương gia để họ hộ tống ta vào trong quân. Ta sẽ
đưa hài cốt Tề Thịnh về Thịnh Đô, đến lúc đó dù là Thái hoàng thái hậu
cũng chẳng có cách nào mà gây khó dễ cho ta nữa. Còn nếu như trong quân
không có động tĩnh gì hoặc lại tiếp tục đánh lên phương bắc...”.
“Vậy thì làm thế nào?”, Dương Nghiêm hỏi.
Tôi cười: “Điều đó chứng tỏ Tề Thịnh chưa chết, hai chúng ta phải bỏ chạy thôi”.
Lúc này thì Dương Nghiêm chính thức ngây ra, một lúc lâu sau mới đứng dậy, nói: “Sao người không nói sớm!?”.
Miệng còn ngậm nửa miếng bánh, tôi nghiêng đầu hỏi anh ta: “Có vấn đề gì à?”.
Sắc mặt Dương Nghiêm đột nhiên trở nên thiếu tự nhiên, đưa tay gãi đầu, có
phần ngượng ngùng nói: “Sớm biết vậy thì thần đã mang thêm ít bạc rồi.
Bỏ trốn cũng cần tiền mà, nếu không làm sao có thể trốn xa được!”.
Nghe anh ta nói vậy, miếng bánh trong họng tôi đột nhiên mắc trong họng,
thiếu mỗi nước nghẹn chết để đi gặp Diêm Vương nữa thôi.
Dương
Nghiêm vội vàng vỗ lưng cho tôi, liên tục hỏi: “Có cần nước không? Có
cần nước không? Ở đây không có trà, dùng nước sông có được không?”.
Tôi ho sặc sụa, nước mắt nước mũi đầy mặt, gạt tay anh ta ra rồi ngẩng đầu
nhìn lên, oán hận nói: “Làm gì mà ghi hận lâu thế? Ngươi từ trước đến
giờ đều là là nữ giả nam đúng không?”.
Dương Nghiêm ngồi xổm đối diện với tôi, nhìn tôi một lát, cuối cùng không nén được mà bật cười to.
Tiếng cười thoải mái lan đi thật xa, thậm chí còn khiến chim chóc gần đỉnh
núi cũng giật mình hoảng hốt. Tôi sợ hãi nhào tới bịt miệng anh ta lại,
mắng khẽ: “Ngươi muốn chết à? Bị người khác phát hiện ra thì hay rồi!”.
Dương Nghiêm hạ thấp giọng cười mãi một lúc lâu rồi mới dừng lại, đẩy tay tôi ra: “Không sao, thần đã cắt đuôi truy binh xa lắm rồi, không ai có thể
bắt được chúng ta đâu”.
Anh ta nói với vẻ vô cùng tự tin, còn tôi thì thấy bán tín bán nghi. Con người Dương Nghiêm trước giờ đều không
đáng tin chút nào.
Sáng tinh mơ hôm sau, trời đột nhiên đổ tuyết. Dương Nghiêm vui vẻ nói: “Trận tuyết này thật tốt, vừa vặn có thể xoá
sạch dấu vết của chúng ta. Người của Tề Thịnh mà tìm ra chúng ta thì
đúng là thần rồi!”.
Lúc này tôi mới thở phào nhẹ nhõm, bèn hỏi
Dương Nghiêm có thể tìm được một gia đình thợ săn nào sống ở gần đây để
xin một bát canh nóng uống không.
Dương Nghiêm vỗ ngực nói không
vấn đề gì, kết quả là dẫn tôi đi lòng vòng trong núi mất mấy ngày mà vẫn chẳng tìm được một bóng người nào cả.
Tôi vô cùng bất đắc dĩ,
đành phải từ bỏ hy vọng xa vời là được uống bát canh nóng, bảo Dương
Nghiêm đưa tôi ra khỏi núi. Đã cắt đuôi được đám truy binh thì phải
nhanh chóng đến Tịnh Dương, thế mới dễ dàng nghe ngóng tin tức của đại
quân đang ở phương bắc.
Dương Nghiêm gật đầu, lại khoác lên mình dáng vẻ nghiêm túc dẫn tôi đi hai ngày trong núi, chẳng những không tìm được đường ra mà còn lạc luôn.
Tôi tức giận hỏi: “Không phải là ngươi nói ngươi từ nhỏ lớn lên trong núi sao? Nhắm mắt cũng không đi sai đường cơ mà? Hả?”.
Dương Nghiêm lúng túng, cười khan: “Thần chỉ nói tới núi ở bên ngoài thành Thái Hưng thôi mà!".
Thái Hưng cách nơi đây cũng phải vài nghìn dặm chứ chả ít! Núi này và núi ở đó giống nhau được à?
Tôi bực đến nỗi phổi cũng đau, sau khi ra sức đá mấy cái vào chân anh ta thì ngồi trên đất thở hổn hển.
Dương Nghiêm phủi tuyết trên người, an ủi tôi: “Lạc đường cũng có cái hay.
Chúng ta còn chẳng biết mình đang ở đâu truy binh lại càng không thể
biết được”.
Việc đã đến nước này tôi cũng chỉ có thể dối mình dối người mà an ủi bản thân mà thôi. Có điều sự thực đã nhanh chóng chứng
minh, Dương Nghiêm không những là người không đáng tin, mà đến cả lời
nói cũng chỉ có thể nghe cho vui tai thôi.
Hoàng hôn ngay sau ngày anh ta nói câu này thì lính của Tề Thịnh đã đuổi đến nơi.
Lúc đó tôi đang ngồi dưới gốc cây đếm số lượng bánh thịt trong túi, Dương
Nghiêm đang đứng trên ngọn cây nhìn ra xa bỗng nhảy xuống, nét mặt căng
thẳng ngồi trước mặt tôi nói khẽ: “Bây giờ thần có ba điều muốn nói với
người”.
Thấy thái độ của anh ta nghiêm trọng như thế, tôi không nhìn mấy cái bánh nữa mà dời ánh mắt chăm chú lên mặt anh ta.
“Thứ nhất truy binh đã đuổi đến rồi.”
Tôi giật mình, cái bánh cầm trong tay rơi xuống đất.
“Thứ hai, người dẫn đầu hình như là Tề Thịnh.”
“Bộp” một tiếng, bọc hành lý trên tay kia cũng rơi xuống tuyết.
Dương Nghiêm cúi đầu nhìn xuống, nói với vẻ rất khó khăn: “Thứ ba, thần định sẽ chạy trốn một mình”.
Nghe vậy tôi nhảy dựng lên, lao vào bóp cổ anh ta, chửi: “Dương Nghiêm! Ngươi là đồ chết tiệt!”.
Dương Nghiêm không hề kháng cự, chỉ hạ giọng nói nhanh: “Tề Thịnh lần này đem theo toàn cao thủ, nếu thần mang theo người chắc chắn chạy không thoát. Hơn nữa, nếu Tề Thịnh vô sự thì Cửu ca nhất định đã có chuyện, thần
phải đi cứu Cửu ca. Người hãy bỏ tay ra đi, họ đã đến chân núi rồi,
chẳng mấy chốc sẽ lên tới đây thôi”.
Tính mạng ông đây so với
tính mạng Cửu ca nhà ngươi nhỏ nhặt không đáng kể thế cơ à! Tôi càng
phẫn nộ hơn. Ngươi đã bất nhân thì đừng trách ta bất nghĩa, chết thì tất cả cùng chết! Tôi nghiến răng, nhảy lên điên cuồng xé áo Dương Nghiêm.
Ta không tin Tề Thịnh biết chuyện ngươi cắm sừng anh ta mà còn có thể
tha thứ cho cả nhà ngươi!
Dương Nghiêm ngây ra một lát mới giật mình phản ứng lại, vội ghìm tay tôi, bực tức nói: “Người làm gì thế?”.
Tôi cười lạnh, cúi đầu cắn mạnh vào cổ anh ta.
Người anh ta cứng lại nhưng không đẩy tôi ra.
“Thần đã cố gắng hết sức rồi”, anh ta hít sâu một hơi, nói tiếp: “Bọn họ đã
sắp đuổi đến nơi, thần đã đi vòng vèo bốn ngày đường mà vẫn không cắt
đuôi được, giờ họ đã bao vây chúng ta rồi, thần thực sự không có cách
nào cả”.
Tôi từ từ nhả ra, đứng dậy nhìn anh ta.
Yết hầu
anh ta chuyển động, nói một cách khó khăn: “Thần thực sự muốn mang người bỏ trốn nhưng thần không làm được. Tề Thịnh đã đích thân đi tìm người,
chứng tỏ anh ta rất coi trọng người, chỉ cần người một mực nói là bị
thần ép buộc thì dù Tề Thịnh có bắt người về cũng không làm hại đến tính mạng của người đâu. Cửu ca lúc này chẳng biết sống chết thế nào, thần
phải đi tìm huynh ấy”.
Dương Nghiêm giơ cao cánh tay, tôi chỉ cảm thấy gáy đau dữ dội, trước mắt tối sầm lại rồi không còn biết gì nữa.
Khi tỉnh lại tôi thấy mình đang nằm trên một cái giường hành quân thấp nhỏ
trong lều, cách đó không xa, mấy ngọn nến thấp phóng to bóng Tề Thịnh
lên tấm vải bạt, có phần hơi mờ ảo.
Tôi nhìn về phía anh ta, cân
nhắc xem tính mạng và tự tôn cái nào quan trọng hơn, sau đó bật cười,
phát hiện ra rằng, chuyện này đối với tôi không thể xem là một vấn đề,
bởi vì sự lựa chọn của tôi mỗi lần đều là tính mạng.
Tề Thịnh nghe thấy tiếng động, ngẩng đầu lên điềm tĩnh nhìn tôi.
Tôi cũng lặng lẽ nhìn trả lại, mặc dù vẻ mặt vẫn bình thản như thường,
nhưng ruột gan bên trong thì rối rắm sắp kết thành một bó hoa mẫu đơn
luôn rồi.
Rốt cuộc tôi nên bổ nhào vào ngực Tề Thịnh khóc lóc một trận, cảm ơn ông trời vì đã để anh ta sống, hay là đau khổ căm phẫn chỉ vào anh ta mà chửi mắng một trận, rõ ràng anh không sao, vậy mà còn bảo ta vượt nhìn dặm xa xôi tới Bắc Mạc, anh chơi ta sao?
Hay là cứ
thẳng thắn đóng vai lưu manh. Đúng vậy, ông đây đúng là muốn lật đổ anh, tự mình lên ngôi thái hậu. Anh thích làm gì thì làm, dù sao ông cũng
chẳng sợ gì nữa rồi.
Hai chúng tôi cứ nhìn nhau như vậy hồi lâu,
cuối cùng Tề Thịnh thở dài một tiếng rồi hỏi trước: “Tại sao hai chúng
ta lại đến nước này?”.
Vừa nghe xong câu này, tôi lập tức hiểu ngay, Tề Thịnh đã biết mọi chuyện rồi.
Nếu đã vậy, việc tôi cố tình đóng kịch, ngoài tự biến mình trở thành một thằng hề ra thì chẳng còn tác dụng gì.
Tề Thịnh tiếp tục nói: “Ta đã nói với bản thân mình, chỉ cần nàng vì ta mà đến đây thì ta sẽ bỏ qua hết những chuyện nàng đã làm trước đó...”.
Tôi thực sự không thể nghe tiếp được nữa, ngồi bật dậy, lấy cái gối đập vào Tề Thịnh, chửi: “Tề Thịnh, anh còn mặt mũi để nói những lời này cơ à!
Lại còn bỏ qua hết những chuyện ta đã làm! Ta thèm vào! Chẳng qua là anh thế nào thì tôi thế ấy mà thôi! Rõ ràng ngay từ đầu anh đã biết những
tính toán của ta rồi, anh ngủ với ta, bảo ta sinh hạ Tề Hạo, bảo ta đến
cung Đại Minh học chính sự, đó chẳng phải là để nuôi dưỡng dã tâm của ta sao? Con đường đó đều là do anh đã định sẵn, anh dùng quyền thế từng
bước ép ta đi đến kết cục ngày hôm nay, anh còn giả vờ si tình làm gì?”.
Tề Thịnh điềm tĩnh nhìn tôi, một lúc lâu sau mới chua chát nói: “Mỗi lần
ta đều cho nàng cơ hội lựa chọn, nhưng từ trước tới giờ nàng chưa bao
giờ nghĩ đến việc tin tưởng ta”.
Tôi tức giận đến bật cười: “Anh
đã làm gì để ta có thể tin tưởng? Lúc nào anh cũng tính toán, cũng đề
phòng ta, tại sao ta phải toàn tâm toàn ý với anh cơ chứ?”.
“Trương Bồng Bồng, nàng hãy sờ tay lên ngực mà tự hỏi xem, có đúng là ta đối
với nàng chỉ có tính toán và đề phòng hay không?!”, vẻ mặt Tề Thịnh vô
cùng giận dữ, giọng nói hơi run lên, con ngươi đen nhánh sâu thẳm dưới
ánh nến thoáng hiện lên những vằn đỏ.
Trái tim tôi như có góc nào đó sụp xuống, nỗi chua chát trào lên mạnh mẽ.
Tề Thịnh ngồi thẳng người, mở to mắt nhìn tôi, hỏi dồn: “Trương Bồng Bồng, nàng nói cho ta biết, cuối cùng thì nàng có trái tim không?”.
Sự chua chát trong lòng dần dần dâng trào khiến mắt nhòa đi, tôi quay đầu, mím chặt môi nhất định không nói.
Tề Thịnh đứng phắt dậy tiến lên mấy bước đến trước giường xoay người tôi
lại, nắm lấy tay và ấn vào ngực tôi rồi lên giọng hỏi: “Nàng nói cho ta
biết, rốt cuộc cái gì đang đập ở đây? Nàng làm sao lại có thể giây trước còn cùng ta quỳ trước Phật cầu tự, giây sau đã lại cùng người khác bàn
bạc tìm cách giết ta? Ta tự lừa dối bản thân mình, tự nói với mình rằng
trước đây đã nợ nàng, là ta khiến trái tim nàng đóng băng, ta phải từ từ làm ấm lại trái tim đó... Thậm chí ta còn dùng cả con cái để níu kéo
nàng, nhưng nàng thì sao? Trương Bồng Bồng, nàng đã làm gì?”.
Tôi nhìn chăm chú vào Tề Thịnh, chậm rãi đáp: “Thiếp chỉ làm những việc
giúp mình có thể sống bình an mà thôi, thay vì oán trách thiếp vì sao
không tin chàng, sao chàng không thử nghĩ xem tại sao thiếp lại luôn như vậy”.
Rất lâu sau đó Tề Thịnh mới buông tay, cười mệt mỏi rồi quay người bước ra khỏi lều.
Tôi thẫn thờ ngồi trên giường, đột nhiên cảm thấy rất lạnh, cảm giác lạnh
lẽo bắt nguồn từ đáy lòng rồi dần dần lan ra khắp cơ thể, đến cả hàm
răng cũng không ngừng va vào nhau lập cập.
Tôi cùng thảm lông
quấn chặt mình lại, nằm xuống giường, tự nhắc nhở bản thân: “Đừng mắc
lừa, chẳng qua là một vở kịch khác của Tề Thịnh mà thôi, chỉ được đứng
ngoài xem chứ nhất định không được tham gia vào, nếu không chết cũng
không có đất chôn đâu”.
Đêm ấy Tề Thịnh không vào lại căn lều này nữa. Ngày hôm sau, khi nhổ trại chuẩn bị xuất phát cũng là một thân vệ
lạ mặt đến chăm sóc tôi, ánh mắt Tề Thịnh chỉ lướt qua chỗ tôi hai lần,
hoàn toàn không nói câu nào.
Đoàn người men theo dãy núi đi về
phía bắc, sau khi ra khỏi núi không lâu thì hợp với một đoàn khác. Tả Ý
có mặt trong đoàn người kia, vừa nhìn thấy tôi đã vội lau nước mắt.
Tôi nhìn cô, khuyên: “Đừng khóc nữa, trời lạnh thế này, khóc nẻ cả da mặt
thì sao lấy được chồng. Ngươi cũng nên bảo Tề Thịnh sắp xếp cho một vai
khác đi, cả ngày chỉ diễn mỗi cảnh khóc lóc, ta nhìn cũng phát chán
rồi”.
Tả Ý há to miệng, ngẩn ra nhìn tôi, không thốt được câu nào.
Tôi khẽ cười, dùng roi quất nhẹ vào mông ngựa tiến về phía trước.
Những người này hình như là đội thân vệ của Tề Thịnh, khoảng một trăm người,
ai nấy đều rất dũng mãnh, rõ ràng không phải là người thường. Tôi bỏ hẳn ý định chạy trốn, ngoan ngoãn đi theo đoàn người tiến về phương bắc. Đi chưa được hai ngày thì từ xa đã nhìn thấy một thành trì, trên tường
thành còn tung bay lá cờ của Nam Hạ.
Tôi chớp chớp mắt, lúc này
mới nhìn rõ hai chữ “Bình Ninh” được khắc trên cửa thành, không khỏi
ngạc nhiên. Hoá ra đây chính là trấn nhỏ mà Nam Hạ tạm thời đóng quân
nghỉ ngơi sau khi Tề Thịnh bị “ám sát”.
Đoàn người còn chưa tới
nơi thì cửa thành đã mở rộng, khoảng hơn chục kị binh từ trong thành ra
nghênh đón, vây quanh Tề Thịnh rồi cùng tiến vào trong thành. Tả Ý lúc
này mới từ đằng sau đi lên, kính cẩn nói: “Nương nương, vào thành thôi”.
Tôi hít một hơi thật sâu, theo đoàn người vào trong thành.
Thành Bình Ninh trước đây là một thị trấn quân sự quan trọng của Bắc Mạc, Tề
Thịnh sau khi chiếm được cũng thấy đây là một địa điểm tốt, liền quyết
định biến Bình Ninh thành trạm trung chuyển lương thực.
Tề Thịnh
vừa vào thành đã triệu tập tướng lĩnh mở hội nghị tác chiến, tôi thì
được đưa thẳng đến phủ tướng quân. Sau gần nửa tháng sống giữa rừng núi
hoang vu, cuối cùng tôi đã có thể trở về với cuộc sống có phòng, có
giường, có nồi bát muôi thìa, có nhà xí, có chậu tắm... Khi ngâm mình
trong thùng, nước nóng bốc hơi nghi ngút, tôi cảm thấy cuộc sống thế này cũng coi như mãn nguyện rồi.
Mặc dù phạm vi sinh hoạt bị hạn
chế, nhưng cũng có có thể tự do hoạt động trong viện, thậm chí còn được
phép đứng ở cửa ngắm nhìn bên ngoài.
Nhưng cuộc sống thoải mái
chưa được mấy ngày thì tôi phát hiện ra tình hình trong thành dường như
đang căng thẳng. Không phải vì tôi quá nhạy cảm mà vì binh sĩ tuần sát
bên ngoài viện đột nhiên tăng lên, hơn nữa tất cả đều mặc áo giáp. Loại
áo giáp này nhẹ nhất cũng đến mấy cân, không phải tình thế bắt buộc thì
chẳng ai tự nguyện mặc nó lên người đi qua đi lại cả.
Tôi bảo Tả Ý nghe ngóng xem rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Cô ra ngoài đi một vòng
rồi quay về báo cáo với tôi, không biết từ đâu xuất hiện một nhánh quân
Bắc Mạc, đang bao vây thành Bình Ninh rồi.
Tả Ý căng thẳng hỏi: “Có phải sắp đánh nhau không?”.
Nhìn xem vấn đề cô ta hỏi mới mẻ chưa kìa! Tề Thịnh dẫn hơn mười vạn quân
đến địa bàn của người ta, không phải muốn giao chiến thì chẳng lẽ đến
đây để tán dóc à?
“Đánh nhau! Đương nhiên là đánh nhau rồi! Hơn nữa là đánh nhau to ấy chứ”, tôi đáp lại.
Chuyện này không cần phải nói cũng biết, Bình Ninh là hành dinh của quân Nam
Hạ trên đất Bắc Mạc, lại có Hoàng đế ở đây, binh mã nhất định không ít,
vậy mà Bắc Mạc lại dám bao vây thành này, chắc chắn họ đã chuẩn bị rất
kỹ càng rồi.
Có thể thấy, một cuộc giao chiến ác liệt là điều không thể tránh khỏi.
Như để chứng minh lời nói của tôi, chiều hôm đó ngoài thành vang lên tiếng
la hét, to đến mức ngồi trong phòng cũng nghe thấy rất rõ. Tả Ý đang múc cháo cho tôi sợ tới phát run, làm rơi cả bát cháo vào trong nồi.
Tôi bất lực nhìn cô, than: “Tả Ý, ta vẫn luôn cho rằng ngươi rất dũng cảm.
Thử nói xem, đến làm gián điệp hai mang ngươi cũng không ngán, dù thế
nào thì cũng cần trí dũng song toàn chứ!”.
Tả Ý lúng túng nhìn
tôi, sắc mặt biến từ đỏ sang trắng rồi lại từ trắng sang đỏ, một lúc lâu sau mới lắp bắp giải thích: “Nương nương, nô tì cũng chỉ là thân bất do kỉ mà thôi, với lại... với lại, nô tì một lòng trung thành tuyệt đối
với nương nương”.
Làm hoàng hậu đã lâu, những lời thế này tôi đã
nghe quen đến mức hoàn toàn chẳng có cảm giác gì với nó nữa rồi. Thực ra trung thành không quan trọng, quan trọng là làm được việc hay không! Ví dụ như Tả Ý, tôi biết rõ cô chỉ thực sự trung thành với Tề Thịnh, nhưng hiện tại tôi đâu còn ai thân tín bên người, vì vậy đành phải dùng cô
thôi.
Tôi nhìn vào bát cháo trong tay cô, nói với vẻ thương
lượng: “Trước tiên chúng ta cứ ăn no đã rồi hãy nói đến chuyện trung
thành hay không, nhé?”.
Tả Ý mím môi, bắt đầu tập trung hầu hạ tôi.
Mấy hôm sau, bên ngoài tiếp tục giao chiến. Tôi vẫn bị nhốt trong cái viện
nhỏ, cả ngày ăn ngon ngủ yên, còn sắc mặt Tả Ý thì mỗi ngày một căng
thẳng. Đến ngày thứ sáu, tôi ăn cơm trưa xong, lau miệng định lên giường chợp mắt một lát thì Tả Ý đi theo sau lo lắng hỏi: “Bên ngoài giao
chiến quyết liệt như vậy, nương nương không sợ hãi chút sao?”.
Tôi quay người lại nhìn cô ta, ngạc nhiên hỏi: “Cũng có ai bảo ngươi trèo
lên tường thành đâu, ngươi sợ cái gì chứ? Hơn nữa, chúng ta đang thủ
thành, trong thành lương thực binh mã đều đủ, có ở đây hơn một năm cũng
không thành vấn đề”.
Tả Ý bật khóc: “Nương nương, trong thành vốn không có nhiều binh mã như vậy đâu. Nghe nói hôm qua bức tường thành
nhỏ ở ngoài cổng thành phía bắc đã bị công phá một lần rồi, là Hạ tướng
quân mang người đến đánh đuổi bọn Tác-ta thì mới giữ được cổng thành
đấy.”
Tôi nghe xong thì sững sờ, chiều hôm qua ở phía bắc quả có
tiếng ồn khá lớn, lúc đó tôi cứ cho rằng bữa trưa của quân Bắc Mạc ngon
lành, ăn no thừa hơi...
Tả Ý thấy tôi không phản ứng gì lại cho
rằng tôi không tin, vội vàng nói thêm: “Là thật đó, nô tì nghe nói quân
Tác-ta tấn công rất mãnh liệt, binh lính thủ thành thương vong vô số,
ngay cả quân nhu cũng phải lên tường thành rồi”.
Tại sao trấn thủ có một cái thành mà lại chật vật đến thế? Chẳng lẽ đại quân viễn chinh
không ở đây? Vậy tại sao Tề Thịnh còn muốn vào thành Bình Ninh làm gì?
Tôi còn đang suy nghĩ thì trong sân vang lên tiếng bước chân dồn dập,
thoáng cái đã đến hành lang, có người kính cẩn hỏi: “Xin hỏi Hoàng hậu
nương nương có trong phòng không?”.
Câu hỏi này thật chẳng có tí
trình độ nào cả! Tề Thịnh còn không cho phép tôi ra khỏi cửa viện này,
tôi không ở trong phòng thì ở trên nóc phòng chắc?
Tôi nhìn Tả Ý, ra hiệu cho cô ra mở cửa.
Bên ngoài là mấy tướng sĩ võ trang hạng nặng, người đi đầu mặc áo giáp
chỉnh tề nhưng phía trên áo có dấu vết của đao kiếm, một vài chỗ còn
dính cả máu. Anh ta cúi đầu xuống, chắp tay hành lễ với tôi, nói: “Bỉ
chức phụng mệnh Hoàng thượng đến bảo vệ nương nương, để an toàn, xin
nương nương thay trang phục ạ”.
Nói xong, thân vệ đằng sau tiến lên trước, giao cho Tả Ý một bộ quân phục và nhuyễn giáp.
Tôi nghe giọng người kia quen quen liền quan sát kỹ anh ta, thăm dò: “Ngươi họ gì?”.
Lúc này anh ta mới lúng túng ngước nhìn tôi, đáp: “Bỉ chức Lý Hoằng, nương nương trước đây đã gặp rồi ạ”.
Anh ta vừa ngẩng mặt lên tôi liền nhận ra ngay. Đúng là trước đây đã gặp,
chẳng phải chính là Lý thị vệ năm đó đã bức tôi nhảy xuống sông Uyển
Giang đó sao?
Tôi cười mấy tiếng, nói: “Đâu chỉ đã gặp qua, chúng ta còn quen biết nhau nữa ấy chứ! Thế nào? Lần này ngươi lại định đưa
ta đi đâu?”.
Lý Hoằng có vẻ xấu hổ, nghĩ một lát rồi khom người,
quỳ một chân trước mặt tôi: “Nương nương, lần đó bỉ chức cũng chỉ là
phụng lệnh hành sự mà thôi, mong nương nương lượng thứ. Trước mắt tình
hình chiến sự ác liệt, Hoàng thượng lệnh cho bỉ chức bảo vệ nương nương, vạn nhất thành thất thủ phải đưa nương nương an toàn ra khỏi thành. Xin nương nương nhanh chóng thay đồ”.
Tôi lạnh nhạt hỏi: “Tề Thịnh ở đâu?”.
Lý Hoằng chần chừ một lát rồi đáp: “Hoàng thượng ở cửa thành phía bắc”.
Tôi nghe xong liền nhấc chân bước ra ngoài, Lý Hoằng vội vàng dang tay ra cản, nói: “Nương nương không thể đi được”.
“Không thể đi được?”, tôi cười nhạt một tiếng, dùng chân đạp vào người Lý
Hoằng một cái, nhân lúc mọi người đang sững sờ liền rút lấy thanh kiếm
đeo bên hông của một thân vệ, quát: “Ai dám cản ta?”.
Nói xong
liền cầm kiếm xông ra ngoài. Ở ngoài sân vốn có khá nhiều thân vệ, nhưng không ai ngờ tôi sẽ liều lĩnh như vậy, nhất thời đều ngây ra.
Lý Hoằng ở đằng sau vội hét lên: “Ngăn người lại!”.
Một thân vệ đưa tay ra cản nhưng lại không dám chạm vào tôi, chỉ dang tay
ra chặn ngang phía trước. Thấy tình hình như vậy, trong lòng tôi đã xác
định, càng không chút kiêng nể xông lên phía trước cứ có tên thân vệ nào dám đưa tay ra chặn, tôi lập tức đưa thanh kiếm lên cổ mình, uy hiếp:
“Ngươi dám chạm vào ta xem!”.
Tên thân vệ kia sợ quá vội thu ngay tay lại, lùi về sau mấy bước.
Một đường ra đến cửa viện không gặp trở ngại gì, tôi đang tăng tốc chạy ra
ngoài thì nghe tiếng Tả Ý thét lên ở phía sau: “Nương nương, nương
nương!”.
Tôi điên tiết, quay người lại hỏi: “Sao? Ngươi cũng muốn cản ta?”.
Tả Ý liều chết ôm lấy thắt lưng của Lý Hoằng, trông hệt như quả cân đằng
sau anh ta, mặt mũi đỏ bừng nhưng vẫn cố gắng thò đầu ra, hét to: “Sai
rồi, sai rồi, nương nương đi ngược hướng rồi”.
Mặt mũi tôi đỏ bừng lên, vội quay người chạy theo hướng ngược lại.
Thủ vệ trong phủ rất ít, người rảnh rỗi trong thành lại càng ít, hơn nữa
tôi lại mặc nam trang vì vậy rất thuận lợi chạy đến cổng thành phía bắc.
Chiến sự ác liệt hơn tôi tưởng nhiều, thương binh không ngừng được chuyển từ
trên tường thành xuống, rồi sau đó lại liên tiếp bổ sung thêm người mới
lên. Do vừa rồi chạy nhanh quá, mới chỉ leo lên được nửa đường lên tường thành thì tôi đã không còn sức mà bước tiếp, đành đứng lại đưa tay ôm
bụng thở dốc. Trong lúc hỗn loạn, có một tướng lĩnh bị thương, khắp
người toàn máu được ba tên lính khiêng xuống, lúc đi qua chỗ tôi thì
khựng lại, ngạc nhiên kêu lên: “Hoàng hậu nương nương?”.
Tôi nhìn kỹ khuôn mặt loang lổ đầy máu kia, lúc này mới nhận ra anh ta: “Hạ Bỉnh Tắc?”.
Hạ Bỉnh Tắc đẩy tên lính đang đỡ mình ra, chạy hai bước về phía tôi, gấp
gáp hỏi: “Tại sao người lại đến đây? Lý Hoằng đâu? Anh ta chết ở đâu
rồi?”.
Tôi tiến lên trước nắm lấy cổ áo anh ta, hỏi: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Đại quân trong thành đâu?”.
Hạ Bỉnh Tắc tuy há miệng nhưng không nói lời nào.
“Nói đi! Tại sao lại thành ra thế này? Tề Thịnh lại chơi trò gì nữa hả?”, tôi tức giận hỏi.
Hạ Bỉnh Tắc đáp: “Hoàng thượng bí mật chia quân ra, chỉ để lại thành ba
vạn ngự lâm quân, còn lại đều được Triệu vương đưa đi chi viện cho tướng quân Dương Dự cả rồi. Không biết tại sao bọn Tác-ta lại biết được
chuyện này, vứt bỏ kinh đô của mình mà sống chết đánh nơi này”.
Tôi nghe đến ngây người. Mẹ kiếp! Có đánh chết tôi cũng không ngờ Tề Thịnh
lại dám lấy tính mạng bản thân mình ra đặt cược như thế, điều động phần
lớn binh lực đi đánh hang ổ của đối phương, chỉ giữ lại có ba vạn binh
mã bảo vệ mình.
Hỏi sao Bắc Mạc lại không sống chết đánh nơi đây
cơ chứ? Ngươi tấn công kinh đô của ta, ta cũng phải tiêu diệt tên hoàng
đế thân chinh xuất binh của các ngươi, một hoàng đế đổi một hoàng đế,
không hề lỗ! Ta mà là người Bắc Mạc thì ta cũng phải sống chết đánh
thành Bình Ninh.
Tôi còn chưa lấy lại sức thì Lý Hoằng đã đuổi đến nơi.
Hạ Bỉnh Tắc quay người, thét lên với Lý Hoằng: “Không phải là Hoàng thượng bảo ngươi đem người ra cửa phía nam sao? Sao ngươi lại để người đến
đây?”.
Lý Hoằng không đáp, cũng không giải thích gì, chỉ tiến lên vài bước nắm lấy cánh tay tôi, nói: “Nương nương thứ tội, bỉ chức thất
lễ rồi”.
Nói xong thì tay còn lại để ra sau đầu gối tôi, chẳng kỵ huý gì, bế bổng tôi lên rồi quay người nhanh chóng rời đi.
Tôi lấy lại tinh thần, kêu to: “Buông ta ra!”.
Lý Hoằng làm như không nghe thấy.
Thấy anh ta như thế, tôi quyết định dùng cách khác, đổi giọng ôn tồn, cố
gắng giảng giải cho anh ta: “Quân Bắc Mạc không bao vây cổng nam nên Tề
Thịnh mới bảo ngươi đưa ta ra đó phải không? Nhưng thế có nghĩa gì?
Ngươi dù sao cũng là một người lính, chắc hẳn phải nghe đến nguyên tắc
‘bao vây vẫn phải để cho địch một đường lui’ rồi chứ? Bọn họ để lại cửa
nam chính là muốn chúng ta chạy trốn! Ra khỏi đây thì còn bao xa nữa mới đến được cửa khẩu Tĩnh Dương? Cũng phải đến gần hai nghìn dặm, đúng
không? Ngươi nghĩ bọn chúng sẽ để chúng ta chạy trốn một cách thuận lợi
sao?”.
Lý Hoằng hơi khựng lại nhưng vẫn nói: “Có bỉ chức ở đây, nhất định có thể đưa nương nương về Tĩnh Dương an toàn”.
Đối với loại người mềm cứng không được, mỡ muối không vào này, tôi cũng đành bất lực.
Lý Hoằng bế tôi rảo bước xuống khỏi tường thành rồi rẽ trục đường chính ra cửa thành. Một đội binh sĩ từ phía đối diện chạy lại chen qua chúng
tôi, hình như là được điều động từ nơi khác đến hỗ trợ. Ánh mắt của tôi
dõi theo họ, vô tình nhìn thấy hình bóng đó trên cổng thành.
Dáng người cao thẳng, oai hùng, dây tua rua trên mũ sắt đỏ thắm hiên ngang
đón gió, tà áo khoác màu đen bị gió thổi tung, lộ rõ thân hình mặc áo
giáp vàng toả sáng lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, trông chẳng khác gì
thần tướng thiên đình giữa cảnh hỗn loạn.
Ánh mắt của anh ta xuyên qua đám đông hỗn loạn dừng lại trên người tôi, điềm tĩnh nhưng rất xa xăm.
Tôi sững người, nhìn anh ta không rời mắt.
Khoé miệng anh ta khẽ nhếch lên, nét cười lạnh nhạt thoáng qua, dùng khẩu hình nói với tôi: “Hãy tiếp tục sống”.
Sau đó liền không chút do dự quay người đi.
Tôi hít một hơi thật sâu, kề thanh kiếm vẫn cầm trong tay lên cổ Lý Hoằng, nói dứt khoát ngắn gọn: “Quay lại”.