“Sự việc ‘ngũ phụng tranh vương’ năm xưa, nương nương cũng biết chứ?”
Tạ Thu Dung đột ngột hỏi. Ta không muốn xen vào dòng cảm xúc của nàng nên không nói gì, chỉ khẽ gật đầu.
“Năm đó mẫu thân không đành lòng để Thu Dung nhập cung, đã quỳ trước phòng
của phụ thân và đại phu nhân, quỳ suốt ba ngày ba đêm. Lúc đó, ta đang ở trong cung dự tuyển Hậu, đâu hề hay biết. Đến khi về nhà thì mẫu thân
đã lâm trọng bệnh. Phụ thân vì ta không giành được hậu vị cho nên nổi
giận, tất cả đều trút lên đầu mẫu thân, ta phải lấy cái chết ra cầu xin
ông, ông mới chịu mời đại phu chữa bệnh cho mẫu thân. Mà cũng chẳng phải ông yêu thương gì ta đâu, có lẽ chỉ là lo ta chết đi rồi, vốn liếng của ông bỏ ra bấy lâu sẽ mất sạch mà thôi. Ba năm qua đi, bệnh tình của mẫu thân cứ dai dẳng không dứt. Đến lúc phụ thân tuyên bố muốn đưa ta đi
tuyển tú, mẫu thân lại trở bệnh nặng hơn, thuốc quý thế nào cũng không
có tác dụng nữa. Rất nhanh… rất nhanh… chưa đến ngày tuyển tú, mẫu thân
đã không còn… Ta còn nhớ như in, trước lúc mẫu thân đi, đã cầm tay ta mà khóc: ‘Dung nhi, mẫu thân vô dụng, chỉ có thể làm được cho con đến vậy
thôi.’ Khi đó ta không hiểu ý của người, cứ cho rằng trong phút lâm
chung, người không còn tỉnh táo nên mới nói ra một câu vô nghĩa… Đến tận sau khi tang lễ xong xuôi, ta dọn dẹp phòng ở của mẫu thân mới phát
hiện ra… Nương nương biết không? Ta phát hiện ra đất ở trong hai chậu
tùng nơi đầu giường mẫu thân toàn là mùi thuốc, bên dưới còn vùi rất
nhiều viên đại bổ hoàn. Hai chậu tùng này mẫu thân để khuất sau mấy tấm
màn lớn, thường ngày không ai ngó ngàng tới… Thì ra, mẫu thân trước nay
vẫn không hề uống thuốc. Người đã vì ta mà chịu đựng bệnh tật… vì ta mà
cam tâm tình nguyện chết, bởi vì người biết chỉ cần người chết, ta phải
chịu tang ba năm, sẽ không thể nhập cung nữa… Mẫu thân đã dùng mạng của
mình để bảo vệ ta như vậy… Thu Dung vẫn luôn nghĩ nếu mình đóng tốt vai
‘tài nữ’, mẫu thân sẽ được sống tốt… Cuối cùng hóa ra, chính thứ tài hoa chết tiệt kia đã hại chết mẫu thân!… Nếu ta chỉ là một nữ nhân tầm
thường, phụ thân sẽ không muốn đem ta tiến cung… Mẫu thân cũng không
phải chết để ngăn cản chuyện ta tiến cung… Đều là ta hại mẫu thân…”
Tạ Thu Dung nói rồi rụt chân lên, ngồi co ro trong chăn như một đứa trẻ.
Tạ tài nữ danh tiếng lẫy lừng, người người kính phục kia, thời khắc này
chẳng khác nào một con thú nhỏ bị thương.
Bất giác, ta cảm thấy phụ hoàng cũng không đến nỗi quá xấu xa. Chí ít, người chỉ là một nam nhân vô tình mà thôi.
Ta thở dài, nhẹ nhàng đặt tay lên đôi vai run rẩy của nàng, mãi lâu sau mới có thể mở miệng:
“Tiểu thư thật sự nghĩ như vậy sao?… Tiểu thư nhìn xem, dung mạo ta tầm
thường, lại bất tài vô dụng. Cuối cùng, mẫu thân của ta không phải cũng
bị ép chết đó sao? Ta không phải là cũng bị đem đến đây sao? Cái chết
của mẫu thân người không phải là do người gây nên. Nếu người không có
tài hoa như vậy thì cũng mẫu tử người e rằng cũng sẽ rơi vào số phận
thảm thương thôi. Tiểu thư không nên tự trách mình, tiểu thư biết rõ, kẻ ép chết mẫu thân tiểu thư không phải là người, người cần gì phải tự làm khổ như vậy?”
“Vậy sao… Ha… cho dù ta biết rõ kẻ ép chết mẫu thân ta là ai thì sao chứ? Ta lại chẳng thể làm gì…”
“Trên đời này vẫn còn có thứ gọi là quả báo. Việc tiểu thư cần làm chính là
sống tốt, không phụ lại sự hi sinh cao cả của mẫu thân người.”
“Nương nương cũng tin vào ông trời? Vậy, những kẻ hãm hại mẫu tử người đã bị quả báo chưa?”
Giọng điệu Tạ Thu Dung xen lẫn mỉa mai chua chát. Ta thẳng thắn gật đầu, nói với nàng:
“Họ đều bị quả báo rồi.”
Chỉ là ta giấu đi sự thật.
Quả báo mà bọn họ nhận được là do chính tay ta thực hiện, không phải ông trời.
Tạ Thu Dung nghe rồi không phản bác nữa. Khóe môi thanh tú vẽ lên một nụ cười yếu ớt:
“Như vậy Thu Dung sẽ chờ.”
Ta thấy nàng đã bình tĩnh lại, muốn để nàng nghỉ ngơi, định bụng đứng lên cáo từ nhưng lại bị nàng kéo lại:
“Thu Dung có thể thỉnh cầu nương nương một việc không?”
Ta hơi ngạc nhiên nhưng cũng gật đầu:
“Tiểu thư cứ nói, chỉ cần là việc ta làm được thì đều đồng ý.”
“Thu Dung muốn thỉnh cầu nương nương sau này đừng xưng hô với ta khách sáo như vậy nữa.”
Thấy ta tròn mắt, chưa hiểu ý nàng, Tạ Thu Dung bèn vội vàng giải thích:
“Nương nương đối với Thu Dung rất tốt, mà Thu Dung trước giờ không có bằng hữu tâm giao… Vì vậy… muốn thỉnh cầu nương nương, nếu không chê Thu Dung
xuất thân thấp kém, xin cùng Thu Dung kết làm bằng hữu…”
Điệu bộ ngượng ngùng của Tạ Thu Dung khiến ta không nhịn được, cười rộ lên:
“Nếu đã muốn như vậy, sao còn gọi ta là ‘nương nương’?”
Tạ Thu Dung bối rối đáp:
“Nhưng thân phận chúng ta khác biệt…”
Ta lắc đầu, nói:
“Đã là bằng hữu thì không xét đến thân phận nữa. Nếu muốn kết bằng hữu với
ta thì từ nay bỏ suy nghĩ ấy đi, trước nay những người thân thiết với ta đều gọi ta là Nguyệt nhi. Sau này, nếu không có người ngoài, cứ gọi
Nguyệt nhi là được, ta cũng sẽ gọi ngươi là Dung nhi, như vậy công bằng
rồi chứ?”
“Được lắm.”
Đã lâu rồi mới thấy lại được nụ cười rạng rỡ của Tạ Thu Dung. Nàng huých tay ta một cái:
“Đã vậy hôm nay nghỉ ở chỗ ta đi. Trời khuya như vậy rồi còn để ngươi đi đi lại lại, ngộ nhỡ ngươi nhiễm phong hàn lại bảo ta là bằng hữu xấu.”
Thấy Tạ Thu Dung đã lấy lại dáng vẻ hoạt bát thường ngày, ta bật cười, gọi
Ngọc Chân vào căn dặn mấy câu, sau đó không khách khí đẩy Tạ Thu Dung
vào trong, giành ngay chỗ nằm tốt. Tạ Thu Dung bị bất ngờ, ré lên một
tiếng rồi cật lực giành lại chăn mền. Hai người đùa giỡn một lúc lâu mới nằm yên được.
Tạ Thu Dung giành được một góc chăn rồi, hài lòng nói:
“Nguyệt nhi, ngươi nói xem. Người ta kết giao tri kỉ đều có rượu ngon cạn chén, vì sao ta và ngươi lại chỉ có một cái chăn để tranh giành?”
Ta bĩu môi:
“Còn không phải tại ngươi hay sao? Nếu không phải ngươi đau ốm thế này, ta đã sai người mang rượu đến.”
“Ngươi biết ta đang bệnh, cũng không thể nhường ta một câu sao?”
“Ngươi rõ ràng sinh ra trước ta mấy tháng, ngươi không nhường ta thì thôi. Mà
Dung nhi này, từ nhỏ ta đã luôn muốn có bạn khuê phòng giống như người
khác, bây giờ cuối cùng cũng có rồi. Thật là tốt.”
“Bạn khuê
phòng à? Ta cũng có vài người đấy, nhưng toàn là mấy vị thiên kim tiểu
thư con quan lớn đỏng đảnh mà phụ thân chẳng biết tìm ở đâu về cho ta.
Suốt ngày chỉ phấn son gương lược, chán chết đi được. Nếu không phải vì
phụ thân, ta đã đá hết bọn họ ra ngoài từ sớm kia.”
“Ngươi sao lại đanh đá như thế chứ? Tạ tài nữ đoan trang hiền thục mọi ngày đi đâu rồi?”
“Ha ha… Tạ tài nữ là giả vờ cho người khác xem, ngươi đã là bằng hữu của ta, ta vì sao phải giả vờ cho ngươi xem?”
Hai người cứ thế nằm nói chuyện linh tinh trên trời dưới đất, không biết bao lâu sau thì chìm vào giấc ngủ.
Bình thường ta luôn không muốn nghĩ đến những chuyện thời thơ ấu bởi vì mỗi
lần nghĩ đến, lại nhớ tới cuộc sống đau đớn cùng cái chết bi thảm của
mẫu thân trong lòng lại nặng nề, lại mơ thấy một vài chuyện cũ không
muốn nhớ đến.
Ngày đó tuổi nhỏ nông nổi, vì nóng lòng báo thù cho mẫu thân, ta đã làm ra một chuyện sai trái. Dù rằng thù có thể báo,
nhưng lại liên lụy đến nhiều người vô tội, còn hại một sinh linh không
thể ra đời. Đó là lỗi lầm lớn nhất trong đời ta. Mỗi khi nhớ tới, lòng
ta lại không yên. Thỉnh thoảng trong cơn ác mộng sẽ nghe thấy tiếng trẻ
con khóc lóc ai oán. Bởi vậy, ta không bao giờ muốn nghĩ đến. Nhưng nay
nghe hoàn cảnh bi đát của mẫu tử Tạ Thu Dung, ký ức quái ác kia lại như
thác lũ ùa về, không cách nào trốn tránh.
Ta nằm nghiêng, cách Tạ Thu Dung một khoảng để khỏi đánh thức nàng. Cơn buồn ngủ chập chờn khi
có khi không. Mí mắt nặng trĩu nhưng tâm lại tỉnh táo, trong cơn mơ
màng, ta lần nữa gặm nhấm đau thương trong lòng.
Năm ta sáu tuổi, mẫu thân bị ám hại dẫn đến thất sủng, từ một Quý phi cao cao tại
thượng, bị đạp thẳng xuống thành Tiểu nghi thấp hèn, bị đuổi khỏi Trường Xuân cung, phải dọn đến Viên Linh các xa xôi hẻo lánh. Từ đó, mẫu thân
trở nên u ám, không ngày nào là không than khóc. Ta nhìn cảnh mẫu thân
lấy nước mắt rửa mặt mãi cũng thành quen.
Trải qua ba năm, cứ
tưởng mẫu thân đã nguội lạnh với phụ hoàng, ai ngờ chẳng hiểu vì đâu mà
lửa tình bỗng bùng cháy. Mẫu thân đột nhiên ngày ngày tìm cách xuất hiện trước mặt phụ hoàng, cố sức giành lấy long tâm khiến cho mấy vị phi tần đang được sủng ái như Lý phi, Thẩm phi vô cùng chướng mắt. Mẫu thân dù
bị hành hạ chết đi sống lại cũng không bỏ cuộc, vẫn kiên trì đeo bám phụ hoàng. Ta cho rằng người phải yêu thương phụ hoàng nhiều lắm.
Ông trời cũng không quá lạnh lùng, một lần nọ phụ hoàng say rượu, cuối cùng sau bao năm đã sủng hạnh mẫu thân. Chỉ một chút long ân ngắn ngủi đó
lại có thể khiến mẫu thân hoài long chủng, không biết là may mắn hay xui xẻo. Khi ấy ta chỉ là một đứa trẻ, cứ nghĩ mẫu thân có thai rồi, không
cần biết là đệ đệ hay muội muội, phụ hoàng cũng có thể để ý đến mẫu tử
bọn ta một chút mà đâu hay rằng đế vương vốn là kẻ vô tình.
Phụ
hoàng nghe tin, một chút cũng không thèm nhìn đến, chỉ có Lý phi là quan tâm nhất. Bà ta rảnh rỗi liền lôi ta ra trút giận, thỉnh thoảng cũng sẽ bạt tai mẫu thân vài cái. Đến một hôm, Thái Hậu cùng phụ hoàng đi tránh nóng ở hành cung bên ngoài, Lý phi bèn chớp lấy thời cơ, mang người đến Viên Linh các quyết tâm diệt trừ hậu họa.
Một bát Vong Thai dẫn thật to dốc vào trong miệng mẫu thân, cái thai vậy là không giữ được nữa.
Ta thấy mẫu thân ôm bụng quằn quại, mới vùng khỏi hai cung nữ đang giữ
chặt mình, nhảy đến muốn bảo vệ mẫu thân. Lý phi tát một cái vào mặt ta, ta quá giận, quên mất sợ hãi, túm lấy Lý phi cắn vào tay bà ta một cái
thật mạnh. Lý phi nổi điên, cũng sai người dốc cho ta một bát Vong Thai
dẫn. Lúc đó ta nào biết nó là thứ gì, chỉ nhìn thấy mẫu thân nằm trong
vũng máu, còn có Lý phi xinh đẹp đứng cạnh cười ngất… Mùi vị thuốc đắng
nghét trong miệng đó, cả đời ta cũng không quên được.
Lý phi đi
rồi, ta mới điên cuồng chạy đi tìm Y Tiên. Khi Y Tiên từ Thái Y viện
đến, mẫu thân còn đang thoi thóp. Một bát Vong Thai dẫn to như thế, Y
Tiên dù có xưng “Tiên” cũng không cứu nổi cái thai, khó khăn lắm mới giữ lại được mạng cho mẫu thân. Ta nhìn cái thai máu me ròng ròng đã thành
hình người được Y Tiên mang ra, lại nghe loáng thoáng lời ông nói:
“Đáng tiếc, là một nam thai.”
Lần đầu tiên trong đời, ta cảm thấy trong lòng mình bốc lên sát khí. Lần
đầu tiên ta muốn thấy kẻ khác chết, mà phải chết thật khó coi.
Vụ việc lần này rõ ràng là mưu hại hoàng tự trắng trợn. Nhưng Lý phi là
người của Trần Hoàng hậu, Trần Hoàng hậu nhìn qua, chỉ phán mấy câu rằng sức khỏe mẫu thân ta không tốt, không mang nổi long thai.
Đệ đệ
không còn, mẫu thân ốm liệt giường, càng trở nên lặng lẽ. Từ hôm ấy, ta
không nghe thấy người nói thêm một lời nào. Thái Hậu và phụ hoàng trở
về, Lý phi còn trơ tráo mang cái tay bị ta cắn thành sẹo kia tới kiện
cáo, nói ta là đứa ngỗ ngược bất hiếu, dĩ hạ phạm thượng gì gì đó, Trần
Hoàng Hậu và Thẩm phi cũng thêm vào vài lời. Thế là đột nhiên ta trở
thành tội đồ, bị bắt nhốt vào Tông Nhân phủ. Lý phi thế nhưng chưa vừa
ý, có lẽ cái sẹo hình dấu răng ta ở trên tay bà rất bất nhã, vậy nên cố
tình muốn dồn ta vào chỗ chết, không biết ỷ ôi thế nào lại khiến phụ
hoàng tống thẳng ta vào tử ngục. Khi đó ta còn chưa tròn mười tuổi.
Ba ngày trong tử ngục bị bỏ đói bỏ rét, nếu không phải thân ta đã được Y
Tiên luyện thành dược nhân lúc nhỏ, e đã chết khô từ lâu. Ra khỏi tử
ngục, ta chỉ còn nửa cái mạng. Lý phi chưa thấy chết chưa tha. Ít lâu
sau, lại tìm đến Viên Linh các, trên tay là một ly rượu độc. Ta còn nhớ
bà ta ngồi trên cao, khinh khỉnh nhìn xuống mẫu tử ta đang quỳ dưới chân mà nói:
“Con dại cái mang. Sở thị ngươi không biết dạy con vậy
thì hãy chịu tội thay nó đi, bản cung thưởng cho mẫu tử ngươi một ly
rượu. Ngươi uống thì nó không phải uống.”
Mẫu thân nghe vậy, trong mắt hiện lên một tia đau đớn. Người quay sang nhìn ta, dịu dàng nói:
“Con gái ngoan, không có mẫu thân ở bên thì cũng phải sống tốt đấy.”
Nói xong liền bưng ly rượu độc lên uống cạn. Ly vừa đặt xuống cũng là lúc mẫu thân thất khiếu đổ máu, lập tức lìa đời.
Lý phi không ngờ mẫu thân ta đi mau như thế, hơi ngạc nhiên nhưng lại cười khẩy:
“Mẫu tử tình thâm. Đại công chúa không định để mẫu phi của ngươi một đường đơn lẻ xuống hoàng tuyền đấy chứ?”
Nói xong phất tay, có cung nữ bưng ngay ra một ly rượu độc khác.
Lý phi quả nhiên chưa từng có ý định tha mạng cho ta. Đúng lúc rượu độc kề môi, ta cứ nghĩ cái mạng nhỏ của mình không giữ nổi nữa thì Thái Hậu
đến.
Bà dùng ánh mắt uy nghiêm nhìn qua mẫu thân ta nằm bất động ở đó, rồi nhìn đến Lý phi, lạnh lùng nói:
“Sở thị vô tài vô đức, đi rồi thì thôi. Nhưng đứa con gái này dù sao cũng
mang họ Chu, trong người nó là huyết thống của hoàng tộc Tùy Khâu. Lý
Hoàng Thương, ngươi làm việc cũng nên có chừng mực.”
Chính nhờ
mấy câu nói này của Thái Hậu mà ta giữ được cái mạng nhỏ của mình. Về
sau ta sống lay lắt ở Viên Linh các, vẫn thường xuyên bị đánh bị mắng,
nhưng ít nhất không ai cố tình lấy mạng ta nữa.
Trong lòng ta chưa từng từ bỏ ý định báo thù. Đến năm ta mười ba tuổi, cơ hội ấy cuối cùng cũng đến.
Lý phi sau nhiều năm hầu hạ phụ hoàng, cuối cùng cũng hoài long chủng.
Trần Hoàng hậu không có con trai nên vô cùng coi trọng cái thai này của
Lý phi, không biết trong lòng bà ta nghĩ cái gì, nhưng lúc đó quả thật
trong hậu cung chưa có ai được đối xử tốt như Lý phi. Mỗi ngày, ta trốn
trong một góc khuất, nhìn Lý phi ngồi kiệu nghênh ngang đi tới đi lui,
lại nghĩ đến mẫu thân cùng đệ đệ bạc mệnh của mình. Một kế hoạch dần dần thành hình trong đầu ta.
Tính đến thời điểm đó, Lý Thanh Phong
đã dạy võ công cho ta được hơn một năm. Tuy rằng tư chất dược nhân khỏe
mạnh, dẻo dai lại nhạy bén hơn người, nhưng khi ta bắt đầu luyện võ thì
đã qua mười tuổi, thành quả không thể bằng những người luyện võ từ nhỏ.
Lý Thanh Phong lại là thống lĩnh Ngự lâm quân, công việc chồng chất, chỉ có thể dạy bảo ta đôi chút vào lúc rảnh rỗi. Thế nên nếu phải miêu tả
trình độ võ công của ta thì “mèo ba chân” chính là từ xác đáng nhất. Lý
Thanh Phong nói, có thể tự bảo vệ mình là tốt rồi, không cần phải làm
cao thủ. Quả thật, võ công của ta chủ yếu chỉ dùng để chạy trốn mỗi khi
bị hạ nhân bắt nạt hoặc khi đi trộm thức ăn bị phát hiện. Nhờ vậy, khinh công ngày càng tiến bộ, việc đi ăn trộm cũng dần dần trở nên dễ dàng.
Từ lúc nghe tin Lý phi mang thai, ban đêm, sau khi trộm thức ăn ở Ngự
thiện phòng trở về, ta bắt đầu đến Thái Y viện trộm thuốc, chủ yếu là xạ hương, ngưu tất, mẫu đơn bì, huyền hồ, đào nhân (1)… Để tránh bị nghi
ngờ, cách một thời gian không cố định ta mới đi trộm một món, số lượng
trộm không nhiều, lại trộm cùng những vị thuốc bình thường khác. Thái Y
viện lớn như vậy, mất một nhúm thuốc linh tinh cũng chẳng ai để tâm.
Thỉnh thoảng khi ta đang lang thang ban đêm cũng sẽ bị vài thị vệ phát
hiện. Võ công làng nhàng của ta qua mắt được đám cung nữ, thái giám chứ
làm sao qua mắt được những cao thủ đại nội như họ. Cũng may bọn họ đã
quen cảnh ta đi trộm thức ăn hằng ngày, lại có Lý Thanh Phong từng nói
giúp nên đều cho qua, làm như không thấy. Mãi đến lúc ta trộm đủ số dược liệu cần thiết, lại dành thêm một tháng lén lút xem y thư bào chế thuốc trụy thai thì Lý phi đã mang thai đến tháng thứ tư. Ta dĩ nhiên không
thể quang minh chính đại đến đổ thuốc vào miệng Lý phi như cái cách bà
ta đã làm với mẫu thân nên thuốc làm xong từ lâu nhưng vẫn phải chờ thời cơ thích hợp.
Lý phi và Trần Hoàng hậu có cùng một sở thích, đó
là mỗi khi buồn chán sẽ sai người tới Viên Linh các, xách ta đến trước
mặt mà hành hạ giải sầu. Trong tẩm cung của Trần Hoàng hậu có một cái hồ sen nhỏ, bốn mùa sen nở rực rỡ, không bao giờ lụi tàn, vô cùng đặc
biệt. Thỉnh thoảng, Trần Hoàng hậu khi cần giải sầu sẽ cho người thảy ta xuống hồ mua vui.
Ta chỉ cần chờ đến lúc ấy.
Thuốc đã tán sẵn thành bột, lại nặn thành mấy tảng to bằng quả trứng gà. Tai ta rất
thính, vừa nghe bước chân người rầm rập ngoài Viên Linh các, liền bỏ
tảng thuốc này vào tay áo, ngoan ngoãn để họ xách cổ về nhúng nước.
Hồ sen không quá sâu, nhưng những năm đó ta chỉ là một đứa trẻ thấp bé,
bấy nhiêu cũng đủ dọa ta sợ chết rồi. Cũng may sau mấy lần bị dìm gần
chết, biết được sở thích kì quái của Trần Hoàng hậu, ta liền nhờ Lý
Thanh Phong lén dạy ta bơi. Về sau mỗi lần bị bà ta ném xuống hồ, ta đều làm bộ vùng vẫy, la hét van xin một hồi rồi hít lấy một hơi dài, sau đó lặn hẳn xuống đáy hồ, lâu lâu lại nhả ra vài bọt khí. Thái Hậu đã nói
vậy, Trần Hoàng hậu cũng không dám để ta chết, ta chìm xuống một chút là sẽ cho người vớt lên ngay.
Ngày hôm đó, sau khi vùng vẫy một hồi rồi chìm xuống đáy hồ, ta lặng lẽ bơi lại gần một hòn non bộ, lựa góc
kín đáo có rễ sen che phủ, ta nhét tảng thuốc đã chuẩn bị sẵn vào. Trong vòng hai tháng, ta bị đưa đến hồ sen nhấn nước hết ba lần, coi như là
điều kiện tốt để ta thêm thuốc vào nước. Đến tháng thứ ba, cảm thấy đã
đủ, để tránh lưu lại dấu vết, ta quyết định không bỏ thêm thuốc nữa, số
thuốc còn lại cũng mang đốt sạch sẽ.
Bố trí như vậy coi như xong, bây giờ chỉ có thể thong thả chờ đợi.
Quả nhiên hết tháng đó, Thủy Hoa cung truyền ra tin Lý phi sinh non, cái
thai mới bảy tháng đã chết lưu từ lâu trong bụng. Nghe nói thái y chuyên dưỡng thai cho Lý phi sớm biết, nhưng sợ bà ta lấy mạng nên chần chừ
mãi không dám nói. Cuối cùng cũng không giấu được nữa. Cái thai đã hư,
sớm muộn gì cũng phải rơi ra ngoài. Lý phi bị băng huyết, khó khăn lắm
mới cầm máu được, tuy rằng mạng không mất nhưng tuổi bà ta không còn
trẻ, gặp phải chuyện này, về sau không những không thể có con mà còn
bệnh tật cả đời.
Thuốc tán thành bột ngâm dưới đáy hồ sen rất dễ
hòa tan. Sen lại là loại cây thân xốp, cực kì hút nước. Đám sen đó thấm
thuốc không tốn bao nhiêu thời gian. Cũng may hồ sen này là hồ tự nhiên, có mạch nước thông nên không cần cung nhân thay nước. Chỉ cần giấu
thuốc kĩ bên dưới hòn non bộ, đừng để trôi đi đâu mất là được.
Lý phi, Thẩm phi, Trần Hoàng hậu đều yêu thích hồ sen này. Mỗi ngày sau lễ thỉnh an, Trần Hoàng hậu sẽ mời hai người Lý, Thẩm ngồi lại bên hồ, vừa ngắm sen, vừa tán chuyện. Hương sen thanh khiết, trà tim sen tĩnh tâm,
canh ngó sen, bánh bột sen ngon miệng, đều là những thứ mà Lý phi ưa
thích. Trần Hoàng hậu coi trọng Lý phi, không tiếc mang sen quý trong hồ của mình ra làm đủ món tặng bà ta mà không ngờ rằng chính sự ưu ái này
đã khiến Lý phi mang họa.
Khi tin tức kinh hãi ấy lan ra, ta đang ngồi ở Viên Linh các, trong chính căn phòng của mẫu thân ta từng ở, nơi người đã từng quằn quại trong vũng máu, nơi người đệ đệ chưa được sống
đã phải chết của ta lìa đời, cũng là nơi sau đó ít lâu mẫu thân phải
uống thay ta một ly rượu độc.
Không thể lấy mạng Lý phi như dự
tính, có lẽ là do trong quá trình bào chế thuốc, ta đã làm sai ở đâu đó, hoặc là đã tính sai mức độ hòa tan của thuốc khi vào nước, khi bị hút
vào sen… Dù vậy, tuổi xuân sắp hết, dưới chân không con cái mà nửa đời
sau phải nằm trên giường bệnh, Lý phi xem ra sẽ còn khổ hơn là chết. Thù này cũng có thể coi là báo xong rồi. Không biết mẫu thân cùng đệ đệ ở
trên trời cao nhìn thấy ta như vậy, sẽ vui mừng vì huyết hải thâm thù
được báo hay là sẽ trách ta tuổi nhỏ mà lòng dạ độc ác.
Dự định
ban đầu chỉ là báo thù Lý phi, không ngờ kết cục lại vượt xa mong đợi.
Lý phi, Thẩm phi và Trần Hoàng hậu liên thủ đã lâu, khắp hậu cung không
có đối thủ. Không ngờ, sau khi Lý phi sảy thai, tình đồng minh lâu năm
này lại bị rạn nứt. Lý phi là người sống trong cung lâu năm, hành sự vô
cùng thận trọng. Từ sau khi có thai, mọi việc đều vạn phần cẩn thận.
Ngoại trừ tẩm cung của Trần Hoàng Hậu, bà ta chẳng hề đặt chân tới bất
cứ nơi nào, mỗi lần ra khỏi cửa đều mang theo vô số cung nhân. Mọi việc
liên quan đến Lý phi đều bị Trần Hoàng hậu quản xét kĩ lưỡng. Có lẽ vì
Trần Hoàng hậu chỉ có một công chúa, tuổi lại lớn không còn khả năng
sinh con, Lý phi nhận thấy hai bên không xung đột lợi ích nên hết sức
tin tưởng Trần Hoàng hậu. Sau khi mang thai, bà ta chỉ tiếp xúc thân cận với mỗi mình Thẩm phi và Trần Hoàng hậu. Thai nhi bị sảy một cách kì
quái. Loại đi Trần Hoàng hậu, mọi ngờ vực bị đổ lên người Thẩm phi,
khiến bà khốn đốn một phen. Thẩm phi ngược lại cảm thấy Lý phi và Trần
Hoàng hậu thân thiết, liền nghi ngờ hai người này lập mưu hại mình. Thời gian Thẩm phi ở trong cung ngắn hơn Lý phi, nhưng tâm kế của bà không
phải tầm thường. Tuy luôn ở dưới trướng Trần Hoàng hậu nhưng bà đã sớm
móc nối nhân mạch trong cung, âm thầm thu nhận tay chân. Qua sự việc
này, nhận thấy bản thân không còn được an toàn, Thẩm phi liền quyết định bứt khỏi Trần Hoàng hậu, tự tạo phe phái mới. Thẩm phi không những có
hậu thuẫn mạnh, lắm tay chân mà còn biết không ít chuyện xấu của Trần
Hoàng hậu. Sự chống đối của Thẩm phi thực sự khiến Trần Hoàng Hậu đau
đầu. Lý phi đã hết thời, Trần Hoàng hậu lại bận rộn đối phó kẻ địch mới
là Thẩm phi, bởi vậy không ngần ngại rũ bỏ Lý phi. Thêm vào đó, Thẩm phi tuy đã gây không ít phiền phức cho Trần Hoàng Hậu, nhưng chung quy hậu
vị không thể cứ nói lật là lật được. Thẩm phi cố hết sức vẫn chưa lay
động được Trần Hoàng Hậu, bèn quay sang trút giận lên Lý phi. Cuộc sống
của Lý phi mấy năm sau cũng khá vất vả.
Chỉ vì một hành động của
ta, hậu cung Tùy Khâu cứ ngỡ vững chắc ổn định hiện nguyên hình thành
một vũng nước đọng, càng khuấy càng bẩn. Trần Hoàng Hậu và Thẩm phi đấu
nhau kịch liệt. Lại có mấy vị Chiêu nghi, Sung nghi, Tiệp dư ẩn mình đã
lâu, nay cũng nhân dịp loạn lạc mà tấn lên tranh giành địa vị. Kết cục
này khiến bản thân kẻ đầu têu như ta cũng phải kinh hãi.
Tình tỉ muội ở hậu cung, hóa ra cũng chỉ đến thế mà thôi.
Đó là lần đầu tiên ta tính kế người khác, tự cảm thấy mình ra tay đủ gọn
ràng. Vụ án Lý phi đột ngột sinh non đã thành một kì án không có lời
giải, vậy mà vẫn bị Lý Thanh Phong phát hiện. Khi Người đến tìm ta truy
hỏi, ta như đứa trẻ làm chuyện xấu bị người lớn bắt gặp, sợ điếng cả
người nhưng vẫn cố tỏ ra cứng cỏi mà nói:
“Tướng quân nghi ngờ ta vậy có bằng chứng gì không?”
Lý Thanh Phong thở dài, đáp:
“Vào khoảng thời gian sau khi Lý phi nương nương phát hiện có thai, trong
mấy tháng đó, thị vệ đại nội từng phát hiện điện hạ ở gần Thái Y viện.
Thần âm thầm kiểm tra sổ sách đối chiếu lượng dược liệu trong kho của
Thái Y Viện, cứ cách một khoảng thời gian lại hụt đi một ít dược liệu đủ mọi loại, nhưng trong số dược liệu mất đi luôn luôn có vài vị thuốc
trụy thai.”
“Như vậy thì sao? Ban đêm ta vẫn thường đi trộm thức
ăn, thỉnh thoảng đi ngang Thái Y viện thôi. Còn việc dược liệu hao hụt…
dược liệu trữ trong Thái Y viện nhiều như vậy, trong quá trình bốc thuốc sai sót, hoặc là kẻ nào đó tham lam trộm đi bán cũng là chuyện thường
tình. Ta chỉ đi ngang qua đó, tướng quân không thể cứ thế đổ cho ta
được.”
Ánh mắt Lý Thanh Phong nhìn ta lúc đó, vừa có giận dữ vừa
có đau buồn. Người đi đến chỗ ta vẫn để mấy cuốn y thư cổ của Y Tiên,
lật lên mấy cuốn, hỏi:
“Thường ngày điện hạ không thích đọc sách. Những quyển sách này người ít khi nào đụng tới. Vì sao giữa một chồng
sách phủ bụi lại có một quyển sạch sẽ, mà góc giấy còn quăn lên thế
này?”
Lý Thanh Phong đã nói đến mức này, ta liền hiểu Người đã biết tất cả, đến tìm ta không phải để hỏi, mà là để xác nhận.
“Vì sao điện hạ lại làm như vậy? Điện hạ có biết điện hạ đã hại chết bao nhiêu người vô tội không?”
“Ta…”
Không đợi ta đáp tròn câu, Lý Thanh Phong đã nói tiếp:
“Sau khi Lý phi sinh non, vì không thể điều tra ra nguyên nhân, Hoàng thượng đã ra lệnh thanh tẩy Thủy Hoa cung. Tất cả số cung nữ, thái giám từng
hầu hạ Lý phi… còn có không ít cung nhân của Thẩm phi, Hoàng hậu… thậm
chí cả một số người ở Nội thị giám, Thượng cung cục… Bọn họ đều bị
trượng tễ! Tất cả đã có hơn một trăm người mất mạng! Điện hạ có biết
không?”
Những lời này của Lý Thanh Phong như một tiếng sét đánh
thẳng vào đầu ta. Ta luôn ở trong Viên Linh các, tin tức biết được không nhiều. Đã có lúc thấy hậu cung ồn ào nhưng không dám tưởng tượng phụ
hoàng lại thanh tẩy mạnh tay như thế, cũng chưa từng nghĩ tới hành động
của mình lại liên lụy tới nhiều người như thế. Hơn một trăm người… Hơn
một trăm sinh mạng… Bọn họ không đơn độc như ta, mỗi người bọn họ đều có gia đình, có người thân chờ ngóng… Vậy mà lại bị sự nông nổi của ta làm cho… Đầu óc ta quay cuồng, hai chân mềm nhũn chực quỵ xuống.
Lý Thanh Phong nắm lấy hai vai ta, giận dữ nói:
“Điện hạ! Vi thần dạy người võ công, Y Tiên dạy người dược thuật là để người
đi làm những chuyện độc địa, máu chảy thành sông này hay sao?”
Đó là lần đầu tiên và cũng dường như là duy nhất ta thấy Lý Thanh Phong
giận dữ như vậy. Người vốn trầm tĩnh mà có thể nổi giận đến mức này… Ta
quả thực đã gây ra tội ác tày trời.
“Tướng quân… Nguyệt nhi… Nguyệt nhi… sai rồi…”
Túm lấy vai áo Lý Thanh Phong, ta gần như đổ gục lên vai Người. Sức lực như thể bị rút cạn. Trong đầu quay cuồng ý nghĩ hơn một trăm người vì ta mà bị trượng tễ.
Lý Thanh Phong lẳng lặng đỡ lấy ta, không nói gì
nữa. Rất lâu sau, khi nước mắt của ta đã thấm đẫm vai áo người, cũng là
khi cơn nức nở trong lòng dịu lại, ta mới nghẹn ngào nói:
“Nguyệt nhi chỉ muốn báo thù cho mẫu thân và đệ đệ… Không ngờ lại hại nhiều
người như vậy… chẳng lẽ… báo thù cũng không được? Chẳng lẽ Nguyệt nhi
phải trơ mắt nhìn Lý Hoàng Thương mãi mãi ung dung tự tại?”
Lý Thanh Phong không thể trả lời câu hỏi của ta. Người trầm lặng một hồi, sau đó nói một câu mà cả đời này ta không quên được:
“Vi thần chỉ mong điện hạ lớn lên làm một nữ tử thiện lương, cả đời bình yên hạnh phúc.”
Đến tận bây giờ, ta vẫn có thể cảm nhận được sự chân thành và cả nỗi buồn
ẩn chứa trong câu nói đó. Chỉ tiếc mong muốn của Lý Thanh Phong, đời này ta không thể giúp Người thực hiện. Ta muốn sinh tồn, vì vậy sẽ không
thể làm một nữ tử thiện lương. Người thiện lương ở chốn hậu cung đều rất đoản mệnh. Mà đã bước chân vào vòng vây hậu cung tranh đấu thì chẳng
cách nào bình yên hạnh phúc cả đời được nữa.
Về sau, mọi chuyện
dần dần trở lại bình thường. Lý Thanh Phong không bao giờ nhắc lại
chuyện xấu của ta. Chỉ là lỗi lầm đó cứ gặm nhấm ta mãi không thôi.
Chuyện ta đã hạ độc Lý phi như thế nào, Người không hỏi, ta cũng không
dám nói. Mà Lý phi có lẽ không phải là người duy nhất bị món thuốc trụy
thai đó hại. Thành phần chính của món thuốc đó là xạ hương. Thứ này… nữ
nhân nếu tiếp xúc thường sẽ ảnh hưởng đến khả năng làm mẹ, đừng nói đến
việc trực tiếp ăn phải… tác hại sẽ càng ghê gớm. Nghĩ lại, những người
thường tựu họp ở cạnh hồ sen đó không chỉ có Lý Phi, Thẩm phi, Trần
Hoàng Hậu mà còn có vài phi tần dưới trướng Trần Hoàng Hậu. Ngoài ra,
còn có con gái thân sinh của Trần Hoàng Hậu: Tứ công chúa Chu Trường
Vinh. Nàng nhỏ hơn ta năm tuổi. Tuy rằng ngày ấy, nàng cũng thường bày
trò bắt nạt ta nhưng xét cho cùng cũng chỉ là một đứa trẻ. Hành động
nông nổi của ta… sợ là đã khiến cho nàng cả đời không thể mang thai. Nữ
nhân không thể sinh dưỡng con cái, còn có cái gì đáng buồn hơn?
Chỉ một phút nông nổi lúc nhỏ, bị hận thù làm mờ mắt, ta đã gây ra nghiệp
chướng lớn lao đến mức mỗi lần nghĩ đến, ta lại như cảm thấy trên đôi
tay mình phảng phất mùi máu tươi, cùng với những cơn ác mộng mà trong đó ta bị một màn đêm đen đặc nuốt chửng, đến khi giật mình tỉnh dậy chỉ
thấy toàn thân ướt đẫm mồ hôi, bên tai còn thoảng thoảng tiếng trẻ con
khóc quấy. Không rõ là tiếng của đệ đệ ta hay là của đứa trẻ trong bụng
Lý phi. Mà nghĩ lại, đứa trẻ ấy, cũng tính là hoàng đệ của ta. Từ giờ
phút đó, ta đã tự thề với lòng mình, đời này tranh đấu thế nào cũng sẽ
không bao giờ động đến trẻ con nữa.
Cuộc sống của ta cứ như vậy
bình lặng trôi qua. Mặc kệ hậu cung của phụ hoàng loạn đến mức nào, ta
chỉ quẩn quanh trong Viên Linh các của mình, chỉ cần không có kẻ nào đến xách cổ ta lôi đi, ta sẽ không bước chân ra ngoài nửa bước. Ban ngày
tập võ, luyện chữ, đọc y thư; ban đêm đi trộm thức ăn để dùng dần vào
ban ngày. Lúc rảnh rỗi, Lý Thanh Phong sẽ đến chỉ bảo ta cái này cái
kia. Mỹ nữ nhập cung nhiều như sao trên trời, lâu lâu sẽ lại có người
mới đến học tập người cũ mà bắt nạt ta. Có điều, miễn họ không quá đáng, ta sẽ nhẫn nhịn. Nếu họ vượt quá giới hạn của ta, ta cũng sẽ tùy dịp
“đáp lễ”. Lớn thêm vài tuổi, thủ đoạn “đáp lễ” của ta cũng thận trọng
hơn, không còn liên lụy đến người ngoài cuộc nữa.
Đáng tiếc một điều, máu tươi trên đôi tay này vô phương gột rửa.
_________________________
Chú thích:
(1) Các vị thuốc có hại thai
♦ Xạ hương là vị thuốc lấy từ túi xạ của con hươu sao đực trưởng thành, có
vị cay, tính ấm, quy vào hai kinh tâm, tỳ, thông 12 đường kinh. Tác dụng khai khiếu, tỉnh tỳ dùng với bệnh kinh phong điên giản, hôn mê, trúng
phong quyết lạnh, do đờm dãi. Trên lâm sàng còn dùng khử ứ huyết, giảm
đau trong trường hợp chấn thương sưng đau, cơ nhục sưng tấy, ngoài ra
còn thoái màng mộng, làm sáng mắt, trừ mủ, tiêu ung nhọt. Đặc biệt có
tác dụng thúc thai sản dùng trục thai chết lưu. Vì vậy dễ gây sảy thai.
♦ Ngưu tất vị đắng, chua, tính bình. Quy vào hai kinh can, thận. Tác dụng hoạt huyết, thông kinh hoạt lạc chữa kinh bế, kinh nguyệt không đều. Làm thư cân, kiện cốt điều trị các chứng về khớp nhất là khớp chân. Ngoài ra
còn chỉ huyết, lợi niệu, thông lâm, hạ huyết áp, giải độc, chống viêm.
Người có thai không nên dùng do tác dụng hoạt huyết và tăng co bóp tử
cung của ngưu tất.
♦ Mẫu đơn bì vị đắng, tính hơi hàn, quy vào 3 kinh tâm, can, thận. Thuốc có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết làm
thanh huyết nhiệt, trị chảy máu cam, thổ huyết, ban chẩn…, thanh can
nhiệt chữa chứng sườn đau tức, hoa mắt, đau đầu, đau bụng kinh. Ngoài ra có tác dụng hoạt huyết, khử ứ điều trị các chứng bế kinh, tích huyết,
chấn thương, làm hạ huyết áp, chữa xơ cứng động mạch. Do tác dụng thông
kinh hoạt huyết vị thuốc dễ gây sảy thai.
♦ Huyền hồ còn gọi
duyên hồ sách, vị cay, tính ấm, quy vào 3 kinh phế, can, tỳ. Tác dụng
hoạt huyết tán ứ, lợi khí chỉ đau. Có thể hành được khí trệ trong huyết, huyết trệ trong khí, thông tiểu tiện, trừ phong. Điều trị các chứng khí đọng, huyết kết, kinh nguyệt không đều, các chấn thương bầm tím, huyết
chết đọng lại. Là thuốc hoạt huyết lợi khí nhất trong các thứ thuốc làm
thông kinh nguyệt, dễ gây sảy thai.
♦ Đào nhân là hạt cây đào.
Vị đắng, ngọt, tính bình. Quy vào hai kinh can và thận. Tác dụng hoạt
huyết, khử ứ chữa các bệnh về kinh nguyệt hoặc sau đẻ ứ huyết. Làm nhuận tràng thông tiện, giảm đau, chống viêm. Tuy nhiên do tác dụng khử ứ dễ
làm sảy thai.