Thành Phố Xương

Chương 10: Chương 10




THÀNH PHỐ XƯƠNG TRẮNG

Một khoảng im lặng sửng sốt kéo dài trước khi cả Clary và Jace đồng thanh hỏi.

“Valentine có vợ á? Hắn đã kết hôn? Cháu cứ tưởng...”

“Không thể nào! Mẹ cháu sẽ không bao giờ... mẹ chỉ kết hôn cùng bố cháu! Mẹ không có chồng cũ!”

Bác Hodge mệt mỏi giơ hai tay. “Này mấy đứa nhỏ...”

“Cháu không nhỏ nhít nữa.” Clary quay phắt khỏi bàn. “Và cháu không muốn nghe thêm gì hết.”

“Clary,” bác Hodge gọi. Sự da diết trong giọng nói bác nghe thật đau lòng cô từ từ quay lại, nhìn bác từ đầu kia căn phòng. Cô nghĩ thật kỳ lạ làm sao, với mái tóc muối tiêu và khuôn mặt sẹo, trông bác già hơn mẹ cô rất nhiều. Ấy vậy họ từng cùng là “những con người trẻ tuổi,” cùng nhau gia nhập hội Circle, cùng biết Valentine. “Mẹ cháu không...” cô bắt đầu, và lạc giọng đi. Cô không rõ mình biết bao nhiêu về mẹ Jocelyn nữa. Mẹ cô đã trở thành một người xa lạ, một kẻ dối trá, một người che giấu không biết bao nhiêu bí mật. Mẹ còn không làm gì nữa chứ?

“Mẹ cháu đã rời hội Circle,” bác Hodge nói. Bác không tiến tới chỗ cô nhưng vẫn từ đầu này phòng quan sát cô với vẻ tĩnh lặng mắt sát rực của loài chim. “Một khi bọn ta nhận ra những quan điểm của Valentine cực đoan đến mức nào – một khi bọn ta biết hắn sẵn sàng làm những gì – thì nhiều người đã rời bỏ tổ chức. Lucian là người đầu tiên. Đấy là đòn nặng nề giáng vào Valentine. Hai người đấy từng rất thân thiết.” Bác Hodge lắc đầu. “Rồi tới Micheal Wayland. Bố cháu đấy, Jace ạ.”

Jace nhướn mày nhưng không nói gì.

“Nhưng rất nhiều người vẫn trung thành với hắn ta. Pangborn. Blackwell. Nhà Lightwood...”

“Nhà Lightwood ư? Bác nói tới bố Robert và mẹ Maryse?” Jace choáng váng như bị sét đánh trúng. “Bác thì sao? Bác bỏ tổ chức khi nào?”

“Ta không bỏ,” bác Hodge nhẹ nhàng nói. “Nhà Lightwood cũng không... Bọn ta đều sợ, quá sợ những điều hắn có thể làm. Sau vụ Nổi Loạn, những kẻ trung thành như Blackwell và Pangborn đã tẩu thoát. Bọn ta ở lại hợp tác cùng hội Clave. Chỉ điểm cho họ. Giúp họ tìm những kẻ đã đào tẩu. Và vì thế chúng ta nhận được sự khoan hồng.”

“Sự khoan hồng?” cái nhìn của Jace chỉ thoáng qua, nhưng bác Hodge đã nhận thấy.

Bác nói: “Cháu đang nghĩ tới lời nguyền trói buộc ta với nơi này, đúng không? Cháu luôn cho rằng đó là một thứ bùa chú báo thù do một con quỷ hay một tay pháp sư tức tối nào đó ếm. Ta mặc cho cháu nghĩ thế. Nhưng đó không phải là sự thật. Lời nguyền trói buộc ta là do hội Clave đưa ra.”

“Vì đã nằm trong hội Circle ư?” Jace hỏi, mặt vờ vịt kinh ngạc.

“Vì đã không rời khỏi hội đó trước vụ Nổi Loạn.”

“Nhưng nhà Lightwood không bị trừng phạt,” Clary nói. “Vì sao ạ? Họ đã làm những chuyện như bác thôi mà.”

“Trường hợp của họ có tình tiết giảm tội – họ đã kết hôn, họ có con. Mặc dù không phải họ sống tại nơi xa xôi này, xa quê hương mình, là do họ tự chọn đâu. Bọn ta bị đày tới đây, cả bọn ba người – ta nên nói là bốn chứ nhỉ; Alec lúc đó mới là một đứa nhỏ gào khóc inh ỏi khi bọn bác rời khỏi Thành Phố Pha Lê. Họ chỉ được trở về Idris nếu có công vụ, và chỉ trong một thời gian ngắn. Ta thì không bao giờ được. Ta sẽ mãi mãi không còn được thấy Thành Phố Pha Lê nữa.

Jace cứ thế nhìn mãi. Như thể anh đang nhìn người thầy của mình bằng ánh mắt mới, Clary nghĩ, dù người thay đổi không phải là Jace. Anh nói, “Luật có thể khắc nghiệt, nhưng Luật vẫn là Luật.”

“Ta đã dạy cháu vậy,” bác Hodge nói, sự vui vẻ không thật vang lên trong giọng bác. “Và giờ cháu trả lại bài học đó cho ta. Hợp tình hợp cảnh nữa chứ.” Bác nhìn như thể muốn sụm ngồi xuống chiếc ghế gần đó, nhưng dầu vậy vẫn cố đứng cho vững. Trong cái tư thế cứng nhắc ấy thấp thoáng nét gì đó của một chiến binh lúc trước bác đã từng, Clary nhủ thầm.

“Vì sao bác không nói cho cháu biết?” cô nói. “Rằng mẹ cháu kết hôn cùng Valentine. Bác biết tên mẹ cháu...”

“Ta biết mẹ cháu tên là Jocelyn Fairchild, chứ không phải Jocelyn Fray, bác Hodge đáp. “Và cháu lại rất chắc chắn mẹ cháu không có liên hệ gì với Thế Giới Bóng Đêm, nên cháu đã khiến ta tin rằng có thể đó không phải Jocelyn ta biết – và có lẽ chính ta cũng không muốn tin. Không ai mong sự trở lại của Valentine cả.” Bác lại lắc đầu. “Sáng nay khi ta cho mời các Huynh Đệ Thành Phố Xương Trắng, ta không biết mình sẽ có tin gì cho họ,” bác nói. “Khi hội Clave phát hiện có lẽ Valentine đã quay trở lại, rằng hắng đang tìm kiếm chiếc Cốc, thì sẽ có một cuộc náo động ngay. Ta chỉ mong nó không làm xáo trộn gì tới Hòa Ước.”

“Cháu cá Valentine sẽ thích điều đó,” Jace nói. “Nhưng vì sao hắn lại thèm muốn Cốc Thánh vậy chứ?”

Mặt bác Hodge xám xịt. “Không phải quá rõ ràng rồi sau?” bác nói. “Để hắn có thể xây dựng cả một đội quân cho riêng mình.”

Jace có vẻ giật mình. “Nhưng chuyện đó sẽ không bao giờ...”

“Tới giờ ăn rồi!” Là Isabelle, đứng trước ngưỡng cửa thư viện. Cô nàng vẫn cầm muỗng trong tay, dù mái tóc đã tuột khỏi búi và đổ xuống cổ. “Xin lỗi nếu cháu làm phiền,” cô nói, sau khi ngẫm nghĩ một hồi.

“Ôi chúa ơi,” Jace nói, “giờ phút kinh hoàng đã tới.”

Bác Hodge có vẻ cảnh giác. “Ta... Ta... Ta đã ăn sáng quá no rồi,” bác lắp bắp. “À là ăn trưa ấy. Ăn trưa rất no. Ta không thể ăn...”

“Cháu đã đổ nồi súp đi,” Isabelle nói. “Và gọi món ăn Trung Hoa ngoài tiệm dưới phố rồi.”

Jace đứng thẳng dậy và duỗi người. “Tốt. Anh chết đói đây này.”

“Có lẽ ta sẽ ăn một chút,” bác Hodge hiền hậu thừa nhận.

“Hai người nói dối dở tệ hại,” Isabelle đay nghiến. “Nghe này, cháu biết hai người không thích cháu nấu...”

“Vậy thì đừng nấu nữa,” Jace khuyên nhủ. “Em có gọi món thịt lợn mu shu không? Em biết là anh thích món thịt mu shu mà.”

Isabelle ngước mắt nhìn trời. “Có, Ở trong bếp đấy.”

“Tuyệt vời.” Jace lách người qua sẵn đưa tay âu yếm vò tung đầu tóc cô em. Bác Hodge theo bước, dừng lại để vỗ vai Isabelle – rồi bác đi mất, với cái cách cúi đầu ngụ ý xin lỗi khá buồn cười. Có phải Clary thực sự chỉ mới vài phút trước vừa thấy bóng dáng người chiến binh ngày xưa của chính bác không nhỉ?

Isabelle đang nhìn theo Jace và bác Hodge, xoay cái muỗng giữa những ngón tay trắng xanh, đầy sẹo. Clary hỏi, “Anh ấy thực sự vậy hả?”

Isabelle không nhìn cô. “Ai thực sự sao?”

“Jace. Anh ấy thực sự là một kẻ nói dối dở tệ á?”

Giờ thì Isabelle mới đưa mắt nhìn Clary, đôi mắt tối đen to tròn và bỗng chợt suy tư. “Anh ấy không hề biết nói dối. Nhất là trong những chuyện quan trọng. Anh ấy sẽ kể cho cậu nghe những sự thực kinh hoàng, nhưng anh ấy sẽ không nói dối.” Cô dừng lại trước khi lặng lẽ nói thêm: “Đó là lý do vì sao cơ bản cô không nên hỏi anh ấy bất cứ điều gì nếu như cậu không thể chịu đựng được câu trả lời.”

Phòng bếp ấm cúng, ngập tràn ánh sáng và mùi ngòn ngọt mằn mặn của món ăn Trung Hoa. Hương vị đó khiến Clary nhớ nhà, cô ngồi đấy nhìn cái đĩa mì sáng bóng, nghịch tay với nĩa, và cố không nhìn Simon, cậu này đang nhìn Isabelle với vẻ mặt còn đờ đẫn hơn là món vịt chiên giòn nữa.

“À, mình nghĩ chuyện này cũng khá lãng mạn,” Isabelle nói, hút hạt trân châu qua cái ống hút màu hồng to tướng.

“Chuyện gì cơ?” Simon hỏi, ngay lập tức lo lắng.

“Toàn bộ chuyện mẹ Clary lấy Valentine ấy mà,” Isabelle nói. Jace và bác Hodge đã kể hết cho cô nàng nghe, dù Clary thấy cả hai đều bỏ qua đoạn nhà Lightwood từng có mặt trong hội Circle, và những lời nguyền mà hội Clave đã giáng xuống. “Vậy là giờ hắn ta đã từ cõi chết trở về và đang đi tìm mẹ cô ấy. có thể hắn muốn họ trở lại với nhau.”

“Anh hơi nghi ngờ về chuyện hắn cho quỷ Ravener tới nhà Jocelyn chỉ vì muốn họ ‘trở về với nhau’,” Alec, người đã xuất đầu lộ diện khi tới giờ ăn, nói. Không ai thèm hỏi xem anh ta ở đâu, mà anh cũng chẳng nói. Anh đang ngồi cạnh Jace, đối diện với Clary, và đang tránh nhìn cô.

“Nếu là tớ thì tớ sẽ không làm vậy,” Jace đồng tình. “Đầu tiên tớ sẽ gửi kẹo và hoa, sau đó là những lá thư xin lỗi, rồi mới mới tới lũ quỷ đói đó. Theo thứ tự này.”

“Có thể hắn đã gửi hoa và kẹo rồi,” Isabelle nói. “Chúng ta có biết đâu.”

“Isabelle,” bác Hodge kiên nhẫn nói, “đây là kẻ đã gây ra thứ hủy diệt mà Idris chưa bao giờ chứng kiến, kẻ đã châm ngòi cuộc chiến giữa giới Thợ Săn Bóng Tối và Thế Giới Ngầm và khiến máu chảy thành sông trên những con phố của Thành Phố Pha Lê.”

“Nghe cũng hấp dẫn đấy chứ,” Isabelle tranh cãi, “cái thứ tà đạo ấy đấy.”

Simon cố tỏ ra vẻ hăm dọa, nhưng thôi ngay khi thấy Clary nhìn mình. “Vậy vì sao Valentine lại cần Cốc Thánh đến thế, và vì sao ông ta lại nghĩ mẹ Clary có nó?” cậu hỏi.

“Bác nói hắn cần Cốc để có thể tạo nên một đội quân,” Clary quay sang bác Hodge. “Ý bác là vì người ta có thể dùng Cốc Thánh để tạo ra các Thợ Săn Bóng Tối à?”

“Ừ.”

“Vậy Valentine có thể gặp bất cứ ai trên đường và biến người đó thành Thợ Săn Bóng Tối sao? Chỉ nhờ chiếc Cốc?” Simon nhoài người tới. “Việc này có tác dụng được đến cháu không ạ?”

Bác Hodge nhìn cậu cân nhắc một hồi lâu. “Cũng có thể,” bác nói. “Nhưng lý do mà rất ít người thường được chọn được Thăng Cấp và trở thành Nephilim là rất ít người có thể sống sót qua quá trình biến đổi. Những người đó phải có sức mạnh và khả năng phục hồi phi thường. Trước khi có thể biến đổi, họ phải chịu sự huấn luyện và kiểm tra rất khắc nghiệt – nhưng Valentine không chịu làm những chuyện rườm rà đó. Hắn sẽ sử dụng chiếc Cốc trên mọi người thường hắn bắt được, sau đó chọn ra hai mươi phần trăm những kẻ sống sót đó để tạo thành một đội quân cho hắn. Một đội quân hắn có thể sử dụng để tấn công Clave.”

Alec đang nhìn bác Hodge với vẻ bàng hoàng hệt như Clary. “Sao bác biết?”

“Vì,” bác Hodge nói, “đó là dự định của hắn khi còn trong hội Circle. Hắn nói đó là cách duy nhất để xây dựng một đội quân cần thiết để bảo vệ thế giới này.”

“Đó là giết người,” Isabelle nói, có vẻ hơi xanh.

“Hắn nói cả ngàn năm nay chúng ta đã giữ bình yên cho thế giới,” bác Hodge nói, “và giờ là lúc con người phải trả ơn Thợ Săn Bóng Tối bằng chính mạng sống của họ.”

“Bằng mạng sống của họ?” Jace, má đỏ lựng, hỏi. “Điều đó đi ngược lại mọi tôn chỉ về chúng ta. Bảo vệ những kẻ không có khả năng tự vệ, bảo vệ con người...”

Bác Hodge đẩy cái dĩa đi. “Valentine bị điên,” bác nói. “Thông minh, nhưng điên. Hắn chẳng quan tâm tới chuyện gì ngoài chuyện giết quỷ và các giống nòi của Thế Giới Ngầm. Không điều gì ngoài việc khiến thế giới này thanh khiết. Hắn sẵn sàng hy sinh con trai của chính mình vì mục đích đó và không hiểu nổi vì sao những người khác lại không thể.”

“Hắn có con trai ư?” Alec hỏi.

“Ta đang nói theo nghĩa ẩn dụ,” bác Hodge nói và vươn tay lấy khăn tay. Bác dùng khăn lau trán trước khi nhét lại vào túi. Clary nhận thấy tay bác hơi run. “Khi mảnh đất của hắn bị thiêu trụi, khi nhà cửa hắn bị tiêu hủy, người ta cứ tưởng hắn đã tự thiêu chết cùng chiếc Cốc thành tro bụi còn hơn để Clave có được một trong hai. Xương cốt hắn được tìm thấy trong đống tro tàn, cùng với xương cốt vợ hắn.”

“Nhưng mẹ cháu còn sống mà,” Clary nói. “Bà đã không chết trong vụ hỏa hoạn đấy.”

“Và giờ thì, có vẻ Valentine cũng vậy,” bác Hodge nói. “Hội Clave không thích thú gì đâu khi biết họ bị chơi xỏ. Nhưng quan trọng hơn, họ muốn bảo vệ chiếc Cốc. Và quan trọng hơn nữa, họ sẽ muốn chắc chắn rằng Valentine không có nó.”

“Theo cháu thấy thì việc đầu tiên hết chúng ta nên làm là phải tìm ra mẹ Clary,” Jace nói. “Tìm ra cô ấy, tìm ra chiếc Cốc, trước khi Valentine làm được.”

Điều này Clary nghe thấy ổn đấy, nhưng bác Hodge nhìn Jace như thể anh vừa đề nghị tung hứng nitroglycerin lên như một giải pháp. “Hoàn toàn không được.”

“Vậy chúng ta làm gì đây?”

“Chẳng làm gì hết,” bác Hodge nói. “Tất cả chuyện này nên để cho những Thợ Săn Bóng Tối có kỹ năng và kinh nghiệm giải quyết.”

“Cháu có kỹ năng mà,” Jace phẩy tay phản đối. Một chiếc nhẫn bạc lấp lánh trên ngón tay thanh mảnh, một chiếc nhẫn mà Clary không nhớ anh có đeo nó bao giờ. “Và cháu có kinh nghiệm.”

Giọng bác Hodge cứng rắn, gần như theo kiểu cha chú. “Bác biết cháu thế nào chứ, nhưng cháu còn là một đứa trẻ, hoặc gần như thế.”

Jace nheo nheo mắt nhìn bác Hodge. Lông mi anh dài, tỏa bóng xuống xương gò má cao. Nếu là ai đó khác thì hẳn đấy là cái nhìn bẽn lẽn, thậm chí là ăn năn hối lỗi, nhưng trên mặt Jace thì cái nhìn đấy trong hẹp hòi độc địa. “Cháu không phải trẻ con.”

“Bác Hodge nói đúng đấy,” Alec lên tiếng. Anh đang nhìn Jace, và Clary nghĩ anh là một trong ít người trên thế giới này dám nhìn Jace không phải như thể sợ Jace, mà là sợ cho Jace. “Valentine rất nguy hiểm. Tớ biết cậu là một Thợ Săn Bóng Tối giỏi đấy. Có thể là người giỏi nhất trong lứa tuổi chúng ta. Nhưng Valentine là người giỏi nhất từ trước tới nay. Cần phải chiến đấu dữ dội lắm mới hạ gục được hắn.”

“Mà hắn cũng có gục hẳn đâu,” Isabelle vừa nói vừa săm soi mấy chiếc răng nĩa. “Rõ ràng là vậy.”

“Nhưng chúng ta ở đây,” Jace nói. “Chúng ta ở đây và vì Hòa Ước, ngoài chúng ta ra thì chẳng có ai. Nếu chúng ta không làm gì...”

“Chúng ta sẽ làm gì đó,” bác Hodge nói. “Tối nay bác sẽ gửi thư cho hội Clave. Họ sẽ phái một đội quân Nephilim tới vào ngày mai nếu họ muốn. Họ sẽ lo liệu việc này. Các cháu đã làm quá đủ rồi.”

Jace im lặng, nhưng đôi mắt lóe sáng. “Cháu không thích như vậy.”

“Cậu không cần phải thích,” Alec nói. “Cậu chỉ cần im mồm và đừng làm chuyện dại dột.”

“Nhưng còn mẹ tôi?” Clary hỏi. “Mẹ không thể đợi cho tay đại diện nào đó của Clave tới được. Valentine đang giữ bà mà – Pangborn và Blackwell nói vậy – và có thể hắn...” Cô không thể nói nổi ra từ tra tấn, nhưng Clary biết cô không phải người duy nhất nghĩ tới từ đó. Đột nhiên không ai trong bàn dám nhìn vào mắt cô.

Trừ Simon, “Làm cô ấy tổn thương,” cậu nói nốt câu của cô. “Ngoại trừ là, Clary này, chúng bảo mẹ cậu đang bất tỉnh và Valentine không vui với chuyện đó. Hình như hắn đang đợi cô ấy tỉnh dậy.”

“Nếu mình là cô ấy, mình sẽ bất tỉnh mãi thôi.” Isabelle lầm bầm.

“Nhưng mẹ tôi cóthể tỉnh dậy bất cứ lúc nào,” Clary nói, chẳng để ý tới Isabelle. “Tôi tưởng hội Clave nguyện bảo vệ con người cơ đấy. Chẳng phải ngay lúc này Thợ Săn Bóng Tối đang có mặt ở đây hay sao? Chẳng phải họ nên tìm kiếm mẹ rồi sao?”

“Sẽ dễ hơn,” Alec quát, “nếu chúng ta có được tí ý niệm là phải tìm từ đâu.”

“Nhưng chúng ta biết mà,” Jace nói.

“Anh biết á?”

Clary nhìn anh, vừa giật mình vừa hăm hở. “Ở đâu?”

“Ở đây.” Jace nhoài người và chạm tay vào thái dương cô, dịu dàng đến mức làm cô đỏ mặt. “Mọi thứ bọn anh cần biết đều bị khóa trong đầu em, dưới những lọn tóc đỏ xoăn xinh đẹp kia.”

Clary đưa tay lên vuốt tóc vẻ như ngăn ngừa. “Tôi không nghĩ...”

“Vậy anh định làm gì đây?” Simon sắc giọng hỏi. “Xẻ đầu cô ấy ra để tìm hả?”

Mắt Jace tóe lửa, nhưng anh bình tĩnh đáp, “Không hề. Các Tu Huynh Câm có thể giúp cô ấy lấy lại trí nhớ.”

“Anh ghét các Tu Huynh Câm cơ mà,” Isabelle phản đối.

“Anh không ghét họ,” Jace thẳng thắn nói. “Anh e ngại họ. Hai khái niệm đó không giống nhau.”

“Tôi tưởng anh bảo họ là thủ thư,” Clary nói.

“Họ là thủ thư.”

Simon huýt sao. “Hẳn phải có phí trả sách trễ cắt cổ đây.”

“Các Tu Huynh Câm là những chuyên viên lưu trữ văn thư, nhưng không phải chỉ là vậy,” bác Hodge ngắt lời, nghe như thể bác đã hết kiên nhẫn. “Để tăng khả năng bộ nhớ, họ đã chọn tác động vào bản thân những chữ rune quyền năng nhất. Quyền năng của những chữ rune lớn đến mức việc sử dụng chúng...” Bác ngừng bặt làm Clary nghe thấy giọng Alec trong đầu mình. Họ tự tra tấn mình. “Ưm, việc sử dụng chúng vặn vọ bóp méo hình thể của họ. Họ không phải những chiến binh theo cách các Thợ Săn Bóng Tối khác. Sức mạnh của họ là từ trí óc, không phải thể xác.”

“Họ có thể đọc ý nghĩ ạ?” Clary lí nhí nói.

“Còn những khả năng khác nữa. Họ thuộc hàng những thợ săn quỷ đáng sợ nhất.”

“Cháu không biết,” Simon nói, “cháu nghe cũng đâu có tệ lắm đâu. Cháu thà có người lục lọi đầu óc mình còn hơn là chặt đầu cháu.”

“Vậy thì cậu còn ngu hơn vẻ ngoài nhỉ,” Jace nói và dành cho Simon cái nhìn khinh bỉ.

“Jace nói đúng đấy,” Isabelle nói và lờ Simon đi. “Các Tu Huynh Câm thực sự quái dị.”

Tay bác Hodge siết chặt cạnh bàn. “Họ rất quyền năng,” bác nói. “Họ đi trong màn đêm và không nói, nhưng họ có thể làm nứt trí óc con người theo cách cháu làm nứt hạt óc chó – rồi để mặc hắn đấy một mình gào thét trong bóng tối nếu như họ muốn.”

Clary trắng bệch, nhìn Jace. “Anh muốn giao tôi cho họ?”

“Anh muốn họ giúp em,” Jace nhoài người qua bàn, gần đến mức để cô thấy được những đốm màu hổ phách tối hơn trong đôi mắt sáng màu. “Có thể chúng ta không cần đi tìm Cốc Thánh,” anh nhẹ nhàng nói. “Có thể hội Clave sẽ làm điều đó. Nhưng những gì trong đầu óc em thuộc về em. Có người đã giấu những bí mật trong đó, những bí mật em không thể nhìn thấy. Không phải em muốn biết sự thực về cuộc đời của chính em à?”

“Tôi không muốn ai chui vào đầu óc tôi cả,” cô yếu ớt nói. Cô biết anh nói đúng, nhưng cứ nghĩ việc giao mình cho những kẻ mà chính những Thợ Săn Bóng Tôi cũng cho là quái dị đủ khiến máu cô lạnh cóng.

“Anh sẽ đi với em,” Jace nói. “Anh sẽ ở cạnh em khi họ làm điều đó.”

“Đủ rồi đấy.” Simon đã đứng dậy khỏi bàn, mặt đỏ gay vì giận. “Tha cho cô ấy đi.”

Alec liếc nhìn Simon như giờ mới để ý tới, đưa tay vén lọn tóc đen khòi mắt và chớp chớp. “Thế cậu người thường này còn làm gì ở đây nhỉ?”

Simon lờ anh ta đi. “Tôi nói, tha cho bạn ấy đi.”

Jace liếc nhìn lại Simon, cái nhìn độc địa ngọt ngào, kéo dài. “Alec nói đúng,” anh nói. “Học viện thề bảo vệ các Thợ Săn Bóng Tối, không phải những anh bạn người thường của họ. Đặc biệt khi họ không biết điều.”

Isabelle đứng dậy và nắm tay Simon. “Em sẽ dẫn cậu ta ra.” Trong một thoáng có vẻ Simon sẽ chống cự lại cô nàng, nhưng cậu bắt gặp ánh mắt của Clary bên kia bàn khi cô khẽ lắc đầu. Cậu đành thôi. Đầu ngẩng cao, cậu để Isabelle đưa ra khỏi phòng.

Clary đứng dậy. “Tôi mệt rồi,” cô nói. “Tôi muốn đi ngủ.”

“Em còn chưa ăn gì...” Jace phản đối.

Cô gạt bàn tay đang giơ ra của anh. “Tôi không đói.”

Ngoài hành lang lạnh hơn trong bếp. Clary dựa người vào tường, kéo áo, giờ đang dính vào ngực cô vì mồ hôi lạnh. Xa xa ngoài hành lang cô thấy Isabelle và Simon đang rời đi, biến mất trong bóng tối. Cô quan sát họ đi trong im lặng, một cảm giác hãi hùng kỳ lạ dâng lên trong bụng. Từ khi nào mà Simon đã trở thành trách nhiệm của Isabelle, thay vì của cô vậy nhỉ? Nếu có điều gì cô học được từ tất cả những chuyện vừa xảy ra, thì đó là ta rất dễ mất đi mọi thứ mà ta hằng tưởng ta sẽ mãi có.

Căn phòng chìm trong sắc vàng và trắng, với những bức tường cao óng ánh như tráng men, và mái nhà, cao cao trên kia, trong veo và lấp lánh như kim cương. Clary mặc chiếc váy nhung xanh lá cây và tay cầm chiếc quạt vàng. Mái tóc cô, búi gọn thành búi có lơi ra mấy lọn loăn xoăn, khiến cô thấy nằng nặng lạ lẫm mỗi khi cô quay lại nhìn về sau.

“Cậu thấy có ai thú vị hơn mình sao?” Simon hỏi. Trong giấc mơ, cậu trở thành một người bạn nhảy điệu nghệ tới lạ kỳ. Cậu dìu cô qua đám đông như thể cô là chiếc lá vàng giữa dòng nước. Cậu mặc toàn đồ đen, như một Thợ Săn Bóng Tối, và sắc màu này chưng ra toàn bộ những nét đẹp của cậu: tóc đen, làn da nâu sáng, răng trắng bóng. Cậu ấy thật đẹp trai, Clary nghĩ, giật mình vì ngạc nhiên.

“Không ai thú vị hơn cậu hết,” Clary nói. “Chỉ là do nơi này thôi. Mình chưa bao giờ thấy nơi nào như nơi này.” Cô lại quay đầu khi họ đi qua đài phun sâm banh: những chiếc đĩa thật lớn, ở giữa là một nàng tiên cá đang dội rượu sáng lấp lánh từ trong bình xuống tấm lưng trần. Mọi người đang rót rượu từ đĩa này, cười đùa và trò chuyện. Nàng tiên cá quay đầu khi Clary đi qua, rồi nhoẻn cười. Nụ cười khoe những chiếc răng trắng ỏn và sắc như răng ma cà rồng.

“Chào mừng tới Thành Phố Pha Lê,” một giọng nói không phải của Simon vang lên. Clary thấy Simon đã biến mất và giờ cô đang khiêu vũ cùng Jace, người mặc toàn đồ trắng, áo may từ chất liệu cô tông mỏng; cô có thể nhìn xuyên qua và thấy những Ấn Ký đen. Trên cổ anh đeo sợi xích đồng, và mái tóc cùng đôi mắt anh óng vàng hơn bao giờ hết; cô nghĩ mình mong mỏi vô cùng được họa ra chân dung của anh bằng loại màu sơn vàng kim bóng mờ mà đôi khi người ta nhìn thấy trong mấy bức thánh họa kiểu Nga.

“Simon đâu rồi?” cô hỏi khi họ một lần nữa xoay mình quanh đài phun sâm banh. Clary thấy Isabelle ở đó, cùng Alec, cả hai đều khoác trên mình màu xanh quyền quý. Họ đang nắm tay nhau như Hansel và Gretel trong khu rừng tối.

“Nơi này dành cho người sống,” Jace nói. Tay anh lạnh ngắt trên tay cô, và cô để ý tới chúng theo cách chưa bao giờ để ý tới tay Simon.

Cô nheo mắt nhìn anh. “Ý anh là sao?”

Anh nhoài tới gần. Cô có thể cảm nhận đôi môi anh nhột nhạt trên tai cô. Chúng không lạnh chút nào. “Tỉnh dậy đi Clary,” anh thì thầm. “Tỉnh dậy. Tỉnh dậy.”

Cô bật dậy, thở hổn hển, mái tóc bết vào cổ vì mồ hôi lạnh toát. Cổ tay cô bị nắm chặt; cô cố giằng ra, rồi nhận ra người đang giữ cô. “Jace hả?”

“Ừ.” Anh đang ngồi ở mé giường – sao cô leo lên giường được nhỉ? – quần áo xộc xệch và mơ mơ màng màng, tóc tai lộn xộn như mới sáng dậy cùng đôi mắt ngái ngủ.

“Thả tôi ra.”

“Xin lỗi.” Tay anh rời khỏi cổ tay cô. “Em đã cố đánh anh ngay khi anh gọi tên em.”

“Chắc tôi hơi giật mình ấy mà.” Cô nhìn quanh. Cô đang ở trong căn phòng ngủ nhỏ nhắn với đồ đạc bằng gỗ tối màu. Dựa vào ánh sáng lờ mờ lọt qua cửa sổ mở hé, cô đoán giờ mới là bình minh, hoặc vừa qua bình minh một chút. Ba lô của cô dựng ở bên tường. “Tôi vào đây bằng cách nào vậy? Tôi không nhớ...”

“Anh thấy em ngủ gục trong hành lang.” Jace nghe vui vui. “Bác Hodge giúp anh đưa em vào phòng ngủ. Bọn anh nghĩ chắc em thích ở trong phòng dành cho khách hơn trong bệnh xá.”

“Cha. Tôi chẳng nhớ gì cả.” Cô lùa tay vào tóc, hất những lọn tóc xoăn khỏi mắt. “Mà mấy giờ rồi nhỉ?”

“Khoảng năm giờ.”

“Sáng á?” Cô lườm anh. “Tốt hơn là anh nên có lý do chính đáng giải thích cho việc đánh thức tôi dậy.”

“Vì sao, em đang có giấc mộng đẹp hả?”

Cô vẫn còn nghe được dư âm tiếng nhạc vang lên trong tai, cảm nhận được khuyên tai quệt vào má. “Tôi không nhớ.”

Anh đứng dậy. “Một trong các Tu Huynh Câm đã tới để gặp em. Bác Hodge bảo anh tới đánh thức em dậy. Thực ra, bác ấy định đi đánh thức em, nhưng vì giờ mới là năm giờ sáng, anh nghĩ em sẽ bớt gắt ngủ khi có được thứ gì đẹp đẽ để mở mắt ra mà nhìn.”

“Nghĩa là anh ấy à?”

“Chẳng nhẽ còn gì khác?”

“Anh biết là tôi đâu có đồng ý với chuyện này đâu,” cô gắt. “Về Tu Huynh Câm ấy.”

“Em có muốn tìm mẹ không?” Anh hỏi, “Có hay không nào?”

Cô nhìn anh trừng trừng.

“Em chỉ cần gặp Tu Huynh Jeremiah thôi. Chỉ cần thế. Có khi em còn thích anh ta ấy chứ. Anh ta khá hài hước so với một người chẳng nói năng gì.”

Cô ôm lấy đầu. “Đi ra. Đi ra cho tôi thay đồ.”

Cô vung chân xuống ngay khi cánh cửa đóng lại sau lưng anh. Dù chỉ mới bình minh, hơi nóng ẩm thấp đã bắt đầu tích tụ trong phòng. Cô đóng cửa sổ và vào phòng tắm rửa mặt và súc miệng, miệng mồm có vị như giấy cũ.

Năm phút sau, cô xỏ chân vào đôi giày thể thao xanh. Cô đã thay sang quần lửng và chiếc áo phông đen đơn giản. Giá mà đôi chân đầy tàng nhang gầy nhẳng của cô giống đôi chân dài thon và mịn của Isabelle nhỉ. Nhưng không thể. Cô buộc tóc đuôi ngựa rồi đi ra gặp Jace ngoài hành lang.

Church ở đó cùng anh, kêu gào và bồn chồn đi vòng quanh.

“Con mèo sao thế?” Clary hỏi.

“Các Tu Huynh Câm khiến cu cậu lo lắng.”

“Nghe có vẻ như họ làm mọi người lo lắng.”

Jace cười nhẹ. Church meo meo khi họ đi xuống hành lang, nhưng không đi theo. Ít ra những viên đá dày xây nên bức tường nhà thờ vẫn giữ được chút hơi lạnh của ban đêm: hành lang tối và mát mẻ.

Khi họ tới thư viện, Clary ngạc nhiên thấy đèn đóm đã tắt. Thư viện chỉ được chiếu sáng nhờ ánh sáng nhờ nhờ hắt tới qua ô cửa sổ cao cao trên mái vòm. Bác Hodge mặc com lê ngồi sau chiếc bàn lớn, mái tóc muối tiêu phủ màu bàng bạc của ánh bình minh. Trong một thoáng cô nghĩ trong phòng chỉ có mình bác: rằng Jace đang chọc cô. Rồi cô thấy có người đang đi lại trong bóng tranh tối tranh sáng, và cô nhận ra thứ mình tưởng là mảng tối đen hơn kia là một người đàn ông. Một người cao cao mặc áo choàng nặng nề từ cổ tới gót chân, che kín người. Chiếc mũ trùm kéo lên, che đi khuôn mặt. Áo chùng mang màu da dê, và những họa tiết chữ rune phức tạp chạy dọc theo đường viền áo choàng và cổ tay áo trông như được vẽ bằng máu khô. Lông tay và tóc gáy của Clary dựng ngược, râm ran tới phát đau.

“Đây,” bác Hodge nói, “là Tu Huynh Jeremiah của Thành Phố Câm Lặng.”

Người đàn ông tiến tới chỗ họ, cái áo choàng nặng nề lất phất theo bước chuyển động, và Clary nhận ra điều kỳ lạ về người đàn ông này: anh ta di chuyển không phát ra lấy một tiếng động, kể cả tiếng bước chân khẽ nhất. Thậm chí áo choàng, lẽ ra phải kêu sột soạt, cũng im re. Cô gần tự hỏi liệu anh ta có phải ma không – nhưng không, cô nghĩ khi anh ta dừng lại trước mặt họ, và ở anh ta có cái mùi ngòn ngọt kỳ lạ, giống mùi hương trầm và máu, mùi của sự sống.

“Và đây, Jeremiah,” bác Hodge nói và đứng dậy, “là cô gái tôi đã viết trong thư gửi các anh. Clarissa Fray.”

Khuôn mặt ẩn trong mũ trùm từ từ hướng sang cô. Clary thấy lạnh tới đầu ngón tay. “Xin chào,” cô nói.

Không trả lời.

“Ta thấy cháu nói đúng, Jace ạ,” bác Hodge bảo.

“Cháu đã đúng mà,” Jace nói. “Cháu thường xuyên đúng.”

Bác Hodge bỏ qua. “Tôi đã gửi thư cho Clave về chuyện này vào đêm trước, nhưng ký ức của Clary thuộc về Clary. Chỉ cô ấy mới có quyền quyết định muốn xử trí với những thứ trong não bộ của mình bằng cách nào. Nếu cô ấy muốn sự giúp đỡ từ các Tu Huynh Câm, cô ấy phải có được sự lựa chọn ấy.”

Clary không nói gì. Dorothea đã nói có rào chắn trong óc cô, che giấu gì đó. Tất nhiên cô muốn biết nó là gì rồi. Nhưng hình dáng thâm u của người Tu Huynh Câm này quá - ừm, câm lặng. Sự câm lặng bản thân nó dường như tràn ra khỏi anh ta như một cơn thủy triều tăm tối, đen thui và đặc quánh như mực. Nó làm cô lạnh xương.

Khuôn mặt của Tu Huynh Jeremiah vẫn quay về phía cô, nhưng chẳng có gì ngoài bóng tối bên dưới cái mũ trùm. Đây là con gái Jocelyn ư?

Clary hơi thở dốc, lùi lại. Những lời nói vang trong đầu cô, như thể chính cô nghĩ tới nó – nhưng cô không hề.

“Đúng,” bác Hodge nói, và vội nói thêm, “nhưng bố con bé là người thường.”

Không vấn đề gì, Jeremiah nói. Dòng máu của hội Clave vượt trội hơn.

“Vì sao anh gọi mẹ tôi là Jocelyn?” Clary nói, tìm kiếm trong vô vọng một chút khuôn mặt ẩn dưới mũ trùm. “Anh biết mẹ tôi à?”

“Các Tu Huynh giữ hồ sơ về tất cả các thành viên của Clave,” bác Hodge giải thích. “Những ghi chép thấu đáo...”

“Không thấu đáo đến thế đâu,” Jace nói, “nếu họ thậm chí còn không biết cô ấy còn sống.”

Có vẻ cô ấy đã nhờ vào một pháp sư để biến mất. Hầu hết các Thợ Săn Bóng Tối đều khó lòng trốn khỏi Clave. Giọng Jeremiah không có lấy một chút cảm xúc, anh ta nghe như chẳng tán đồng cũng chẳng phản đối hành động của Jocelyn.

“Có điều tôi không hiểu,” Clary nói. “Vì sao Valentine nghĩ mẹ tôi có Cốc Thánh? Nếu mẹ đã mất bao nhiêu công sức để biến mất, như anh nói, vậy sao mẹ còn mang nó theo?”

“Để không cho hắn động tay tới nó,” bác Hodge nói. “Mẹ cháu hơn ai hết hiểu rõ chuyện gì sẽ xảy ra nếu Valentine có được Cốc Thánh. Và bác nghĩ mẹ cháu không tin hội Clave sẽ giữ được nó. Không phải sau khi Valentine từng đánh cắp được nó.”

“Cháu đoán vậy.” Clary không thể giấu sự ngờ vực trong giọng nói. Toàn bộ câu chuyện thật không tưởng. Cô cố vẽ ra hình ảnh mẹ cô chạy trốn trong bóng tối, với chiếc Cốc vàng to tướng nhét trong túi bộ áo liền quần, nhưng không thể hình dung ra được.

“Jocelyn đã quay lưng với chồng khi biết hắn định làm gì với Cốc Thánh,” bác Hodge nói. “Cũng không phải là không có lý nếu cho rằng bà ấy sẽ làm mọi chuyện trong khả năng để chiếc Cốc không rơi vào tay hắn. Hội Clave cũng sẽ tìm mẹ cháu trước tiên nếu họ nghĩ mẹ cháu còn sống.”

“Cháu có cảm giác,” Clary nói hơi cay độc, “rằng chẳng có ai mà Clave nghĩ rằng đã chết, lại chết thật sự cả. Có thể họ nên nghiên cứu thêm về hồ sơ nha khoa.”

“Bố anh đã chết,” Jace nói, cũng cay độc hệt như cô. “Anh không cần xem các báo cáo nha khoa để biết.”

Clary cáu tiết quay sang. “Nghe này, tôi không có ý...”

Đủ rồi, Tu Huynh Jeremiah ngắt ngang. Chúng ta cần tìm hiểu sự thực ở đây, nếu các em chịu kiên nhẫn lắng nghe.

Với cử chỉ nhanh gọn, anh ta giơ hai tay lên kéo mũ trùm ra khỏi mặt. Quên béng đi Jace, Clary cố ngăn mình không khóc thét. Cái đầu của nhân viên lưu trữ thư viện hói rọi, bóng loáng và trắng như quả trứng, hõm đen lại tại nơi từng là mắt. Giờ đôi mắt đã không còn. Môi anh ta bị khâu chéo qua chéo lại bởi những đường đen giống chỉ y khoa. Giờ thì cô đã hiểu Alec muốn nói gì khi dùng từ tra tấn.

Tu Huynh của Thành Phố Câm Lặng không nói dối, Jeremiah nói. Nếu các em muốn sự thực từ tôi, các em sẽ có nó, nhưng đổi lại, tôi cũng cần các em nói thật.

Clary hất hàm. “Tôi cũng không phải là kẻ nói dối.”

Đầu óc không nói dối. Jeremiah tiến tới. Tôi muốn ký ức của em.

Mùi máu và mực thật ngột ngạt. Clary cảm nhận cơn sóng hoảng loạn đang dâng lên. “Đợi đã...”

“Clary.” Đó là bác Hodge, nhẹ nhàng lên tiếng. “Hoàn toàn có khả năng rằng có những ký ức của cháu đã bị chôn vùi hoặc che giấu, những ký ức được hình thành khi cháu còn quá nhỏ không nhận thức về chúng, mà Tu Huynh Jeremiah đây có thể chạm tới. Nó sẽ giúp chúng ta rất nhiều.”

Cô không nói gì, chỉ cắn môi trong. Cô ghét cái cảm giác có người mò vào trong trí óc mình, chạm tới những ký ức quá đỗi riêng tư và bị giấu kín mà ngay cả cô cũng không thể chạm tới được.

“Cô ấy không phải làm điều mà cô ấy không muốn,” đột ngột Jace lên tiếng. “Đúng không?”

Clary ngắt ngang bác Hodge trước khi ông kịp lên tiếng. “Không sao đâu. Tôi sẽ làm.”

Tu Huynh Jeremiah gật đầu cộc lốc, lặng lẽ tiến tới cô khiến cô lạnh lưng. “Có đau không ạ?” cô thì thào.

Anh ta không trả lời, nhưng hai bàn tay trắng hẹp đã đưa lên chạm vào mặt cô. Da mấy ngón tay anh ta mỏng như giấy da dê, kín những chữ rune. Cô có thể cảm nhận được quyền năng từ chúng, nhảy lên như tĩnh điện chích vào da cô. Cô nhắm mắt, nhưng kịp thấy sự căng thẳng trên nét mặt bác Hodge.

Những màu sắc xoắn sít sống dậy trên nền bóng tối sau mí mắt. Cô cảm nhận được áp lực, một lực hút trong đầu, tay và chân. Cô nắm chặt tay, chống lại sức nặng, màn đen. Cô cảm giác như mình bị ép vào thứ gì đó cứng và không độ đàn hồi, đang dần bị nghiến nát. Cô nghe tiếng mình thở dốc và đột nhiên lạnh toàn thân, lạnh như mùa đông. Trong thoáng mắt, cô trông thấy con đường đóng băng, những tòa nhà xám xít lừng lững trên đầu, rồi sắc trắng nổ tung châm vào mặt cô những mảnh li ti lạnh buốt...

“Đủ rồi.” Giọng Jace cắt xuyên qua cái lạnh buốt của mùa đông, và những bông tuyết trắng xóa biến mất, một cơn mưa rào những tia lửa trắng tinh. Clary mở choàng mắt.

Từ từ thư viện hiện trở lại – những bức tường toàn những sách, khuôn mặt căng thẳng của bác Hodge và Jace. Tu Huynh Jeremiah đứng bất động, như một bức tượng được khắc những những mực trắng ngà và đỏ. Clary đã nhận thức được cơn đau nhói trên hai bàn tay, cô liếc xuống và thấy những lằn đỏ hằn vào da do móng tay mình bấm vào.

“Jace,” bác Hodge quở trách.

“Nhìn tay cô ấy đi.” Jace chỉ về Clary, cô đang nắm tay lại che đi lòng bàn tay bị thương.

Bác Hodge đặt bàn tay rộng trên vai cô. “Cháu ổn không?”

Cô từ từ cố gật đầu. Sức nặng muốn nghiền nát cô đã biến mất, nhưng cô có thể cảm thấy mồ hôi làm tóc tai ướt nhẹp, làm áo dính chặt vào lưng như băng dính.

Trong trí óc em có một khối chặn, Tu Huynh Jeremiah nói. Các ký ức không thể chạm tới được.

“Khối chặn ư?” Jace hỏi. “Ý anh là cô ấy tự phong tỏa trí nhớ?”

Không. Ý tôi là có người đã dùng thần chú phong tỏa ký ức của cô gái này. Ở đây thì tôi không thể phá vỡ được. Cô gái đây phải tới Thành Phố Xương Trắng và đứng trước hội Đồng Hữu.

“Một thần chú hả?” Clary ngờ vực. “Ai lại phù phép em chứ?”

Không ai trả lời. Jace nhìn qua thầy mình. Anh trông trắng bệch tới lạ lùng, Clary thầm nghĩ, dù đây chính là ý tưởng của anh. “Bác Hodge, cô ấy không phải đi nếu không...”

“Ổn thôi mà.” Clary hít một hơi sâu. Tay cô đau ở nơi móng tay bấu vào, và cô thật sự muốn chui vào một chỗ tối mà nằm nghỉ. “Tôi sẽ đi. Tôi muốn biết sự thực. Tôi muốn biết điều trong đầu mình có những gì.”

Jace gật đầu cái rụp. “Được. Vậy anh sẽ đi cùng em.”

Rời khỏi học viện giống như chui vào một cái túi vải thô vừa nóng vừa ẩm. Không khí ẩm ướt nén xuống thành phố, biến bầu không khí thành một nồi súp đặc sệt bụi bẩn. “Tôi không hiểu sao chúng ta phải đi tách riêng khỏi Tu Huynh Jeremiah,” Clary lầm bầm. Họ đang đứng ở góc ngoài Học Viện. Đường phố vắng tanh, trừ có cái xe chở rác chầm chậm lăn bánh qua tòa nhà. “Sao vậy, anh ta ngại bị bắt gặp đi cùng Thợ Săn Bóng Tối hay sao thế?”

“Các Tu Huynh là Thợ Săn Bóng Tối,” Jace giải thích. Không hiểu sao anh vẫn có vẻ thoải mái dù thời tiết oi nóng. Điều này khiến Clary thật chỉ muốn đánh anh.

“Vậy chắc anh ấy đi lấy xe nhỉ? cô mỉa mai hỏi.

Jace cười toe. “Đại loại thế.”

Cô lắc đầu. “Anh biết không, tôi sẽ thấy yên lòng hơn nếu bác Hodge đi cùng chúng ta.”

“Sao thế, có anh bảo vệ còn chưa đủ à?”

“Đó không phải kiểu bảo vệ tôi cần trong lúc này – mà là người có thể giúp tôi suy nghĩ cơ.” Đột nhiên nhớ ra, cô lấy tay che miệng. “Ối – Simon!”

“Không, anh là Jace,” Jace kiên nhẫn nhắc. “Simon là cái cậu nhóc nhỏ thó mặt chồn với kiểu tóc thấy ghê và gu thời trang thảm hại cơ.”

“Ôi, im đi,” cô trả lời, nhưng là máy móc trả lời hơn là thực tâm cô cảm nhận. “Đáng lẽ tôi phải gọi cho cậu ấy trước khi đi ngủ. Để xem cậu ấy có về nhà an toàn không.”

Jace lắc đầu, nhìn lên bầu trời như thể chúng sắp mở toang để hé lộ nhũng bí mật của vũ trụ. “Với bao nhiêu sự việc xảy ra, em vẫn còn có thời gian lo cho Mặt Chồn hả?”

“Đùng gọi cậu ấy vậy. Cậu ấy không giống chồn.”

“Có thể em đúng,” Jace nói. “Anh đã gặp một hay hai con chồn đáng yêu rồi. Cậu ta giống chuột hơn.”

“Cậu ấy không...”

“Có lẽ cậu ta đang ở nhà nằm dài trong vũng nước dãi của cậu ta rồi. Hãy đợi tới khi Isabelle chán cậu ta và rồi em sẽ phải đi nhặt xác đấy.”

“Isabelle có khả năng chán cậu ấy không?” Clary hỏi.

Jace nghĩ một lúc. “Có,” anh trả lời.

Clary tự hỏi liệu có thể Isabelle thông minh hơn mức Jace đánh giá không. Có thể cô nàng sẽ thực sự nhận ra Simon là dạng con trai tuyệt vời thế nào: vui tính, thông minh, sành điệu ra sao. Có thể họ sẽ hẹn hò. Ý tưởng đó dấy lên trong cô một nỗi sợ hãi vô danh.

Vì đắm chìm trong suy nghĩ, cô mất một lúc lâu mới nhận ra rằng Jace đang nói gì đó với mình. Khi cô chớp mắt nhìn anh, cô thấy một nụ cười nhăn nhở ngoác ra trên mặt anh. “Gì hả?” cô hỏi, không dễ thương chút nào.

“Anh ước gì em thôi cố gắng trong tuyệt vọng để thu hút sự chú ý của anh như thế này,” anh nói. “Ngại lắm.”

“Chẳng còn ý tưởng nào nên mới mỉa mai moi móc chứ gì,” cô bảo.

“Anh chẳng thể đặng đừng. Anh sử dụng sự hóm hỉnh khôn khéo để che giấu nỗi đau đớn bên trong.”

“Nỗi đau đớn của anh sẽ sớm trồi ra ngoài ngay nếu anh không thoát khỏi dòng giao thông này. Anh định để taxi cán chết hử?”

“Đừng vớ vẩn thế chứ,” anh nói. “Chúng ta sẽ không dễ dàng bắt taxi ở khu vực này đâu.”

Như thể được báo hiệu, một chiếc xe màu đen nhỏ với cửa sổ phủ tối màu bình bịch tấp vào lề dừng lại trước Jace, động cơ kêu rì rì. Chiếc ô tô dài, bóng bẩy, gầm thấp như limousine, cửa sổ được thiết kế lồi cong ra ngoài.

Jace liếc nhìn cô; cái nhìn của anh có vẻ hứng khởi, nhưng đồng thời còn gấp gáp nữa. Cô lại nhìn chiếc xe, để đôi mắt thư thái, để cho cường lực của những gì có thật xuyên thủng qua lớp màn ảo ảnh.

Giờ thì chiếc xe trông giống cỗ xe ngựa của nàng Lọ Lem, trừ việc thay vì sơn hồng sơn vàng sơn xanh da trời như một quả trứng Phục Sinh, cổ xe có màu đen tuyền như nhung, đến cả những cửa sổ cũng màu đen. Ngồi trên băng ghế kim loại màu đen của người xà ích là Tu Huynh Jeremiah, đang cầm bộ dây cương trong đôi tay đeo găng. Gương mặt anh ta ẩn dưới mũ trùm của tấm áo choàng màu da dê. Đầu kia dây cương là hai con ngựa, đen sì như khói, đang gầm ghè chồm vó lên trời.

“Vào đi,” Jace nói. Khi cô cứ đứng há hốc mồm mà nhìn, anh nắm lấy tay cô mà đẩy cô bước vào cánh cửa cổ xe đang mở, rồi phóc vào theo sau. Cỗ xe ngựa dợm lăn bánh trước khi anh kịp đóng cửa. Anh ngã ngữa ra sau chiếc ghế tựa – bọc vải nhung lông và nhồi bông xa xỉ - và nhìn cô. “Có người hộ tống riêng em tới Thành Phố Xương Trắng có là gì đâu mà em phải khinh khỉnh thế.”

“Tôi nào có khinh khỉnh. Tôi chỉ ngạc nhiên thôi. Tôi không nghĩ... ý tôi là, tôi tưởng đây là ô tô.”

“Cứ thư giãn đi,” Jace nói. “Tận hưởng mùi xe mới đi nào.”

Clary đảo mắt chán chường và nhìn ra ngoài cửa sổ. Hẳn cô đã nghĩ một con ngựa cùng cỗ xe sẽ không thể di chuyển được trên đường phố Manhattan, nhưng họ lại đang thênh thang đi xuống phố, đà tiến triển không chút âm thanh của họ bị chìm lấp giữa những tiếng còi inh ỏi của tắc xi, xe buýt và những chiếc SUV đang nườm nượp lưu thông trên đại lộ. Phía trước mặt, một chiếc tắc xi màu vàng chuyển làn đường, cắt ngang đà tiến tới của họ. Clary căng thẳng, lo lắng cho những con ngựa – thế rồi cỗ xe ngựa nảy lên khi những con ngựa nhẹ nhàng chạy lên trên nóc ô tô. Cô há hốc miệng. Cỗ xe, thay vì lê đi trên mặt đất, lại đang lướt ngay sau lũ ngựa, nhẹ nhàng và câm lặng lăn qua nóc chiếc taxi và hạ xuống bên kia. Clary nhìn ra sau trong khi cỗ xe hơi nảy lên khi chạm vỉa hè – người tài xế taxi đang hút thuốc và nhìn về phía trước, hoàn toàn không biết gì. “Tôi luôn nghĩ tài xế taxi không để ý tới giao thông, nhưng tới mức này thì quá là nực cười,” cô yếu ớt nói.

“Chỉ vì giờ em nhìn thấy được qua ảo ảnh...” Jace để phần kết câu treo lơ lửng giữa họ.

“Tôi chỉ nhìn được nếu tập trung,” cô nói. “Và mỗi lần như vậy em thấy hơi đau đầu.”

“Anh cá đó là do cái khối chặn trong đầu đấy. Các Tu Huynh sẽ xử lý vụ đó.”

“Rồi sao?”

“Rồi em sẽ thấy thế giới như nó vốn có – mênh mông vô cùng,” Jace nói kèm theo nụ cười khô khốc.

“Đừng trích dẫn Blake với em.”

Nụ cười bớt khô hơn. “Anh không nghĩ là em nhận ra. Em không tạo cho anh ấn tượng là người đọc nhiều thơ văn.”

“Mọi người đều biết câu nói đó nhờ vào ban The Doors.”

Jace nhìn cô không hiểu.

“The Doors ấy. Họ là một ban nhạc.”

“Nếu em đã nói vậy,” anh nói.

“Tôi đoán anh không có nhiều thì giờ nghe nhạc nhỉ,” Clary nói, nghĩ tới Simon, người mà âm nhạc là cả cuộc đời, “vì tính chất công việc.”

Anh nhún vai. “Thi thoảng anh cũng có nghe điệp khúc những tiếng rên rỉ của những kẻ bị nguyền rủa.”

Clary vội liếc qua, để xem anh có đùa không, nhưng anh chẳng biểu lộ thái độ gì hết.

“Nhưng hôm qua anh có chơi dương cầm,” cô nói, “ở Học Viện. Vậy thì anh phải...”

Chiếc xe lại xóc lên. Clary nắm lấy cạnh ghế và nhìn – họ đang lăn bánh trên nóc chiếc xe buýt M1. Từ cao điểm này cô có thể thấy tầng trên của những khu chung cư cổ kính chạy dọc đại lộ, được trang trí tỉ mỉ bằng những máng xối đầu thú và những gờ đắp nổi.

“Anh chỉ chơi linh tinh ấy mà,” Jace nói mà không nhìn cô. “Bố bảo anh phải học chơi một loại nhạc cụ gì đó.”

“Bố anh có vẻ nghiêm khắc nhỉ.”

Giọng Jace đanh lại. “Không hề. Ông ấy nuông chiều anh. Ông dạy anh mọi thứ - sử dụng vũ khí, quỷ học, những truyền thuyết huyền bí, cổ ngữ. Ông ấy cho anh mọi thứ anh muốn. Ngựa, vũ khí, sách, kể cả chim cắt.”

Nhưng vũ khí và sách không hẳn là thứ hầu hết mọi đứa trẻ muốn trong Giáng Sinh, Clary nghĩ trong khi chiếc xe ngựa hạ xuống vỉa hè. “Vì sao anh không nói với bác Hodge rằng anh biết mấy người nói chuyện với chú Luke? Rằng họ là người đã giết bố anh ấy?”

Jace nhìn xuống bàn tay. Đôi tay anh thanh mảnh tỉ mỉ, đôi bàn tay của một nghệ sĩ, không phải của một chiến binh. Cái nhẫn cô đã từng để ý đang sáng lên trên ngón tay. Cô từng nghĩ con trai đẹp mà đeo nhẫn cứ ái ái sao ấy, nhưng không hề. Cái nhẫn bản thân nó khá nặng nề và rắn chắc, làm từ bạc có sắc hun đen, mang họa tiết hình sao bao quanh thân nhẫn. Chữ W được chạm khắc trên đó. “Vì nếu vậy,” anh nói, “bác ấy sẽ biết anh muốn tự tay giết chết Valentine. Và bác sẽ không bao giờ cho anh cơ hội đó.”

“Ý anh là anh muốn giết hắn để trả thù?”

“Để đòi lại công bằng,” Jace nói. “Anh chưa bao giờ được biết ai đã giết chết bố anh. Giờ anh đã biết. Đây là cơ hội của anh để đòi lại công bằng.”

Clary không hiểu vì sao giết một người lại có thể đòi lại công bằng cho một người đã khuất, nhưng cô nhận thấy nói ra cũng chẳng ích gì. “Nhưng anh biết ai đã giết bố anh cơ mà,” cô nói. “Chính là những kẻ đó. Anh đã nói...”

Jace không đang nhìn cô, nên Clary để giọng mình lạc dần. Giờ họ đang đi qua đoạn đường Astor Place, lách đi trong gang tấc qua đoàn tàu điện màu tím nhạt nho nhỏ của Đại Học New York khi cắt ngang đường tàu. Những người qua đường như bị đè nghiến bởi bầu không khí nặng nề, giống như côn trùng bị ghim dưới tấm kính. Vài nhóm trẻ vô gia cư đang tụ tập dưới chân bức tượng đồng lớn, những tấm biển các tông xin tiền được gấp lại nhô lên trước mặt chúng. Clary thấy một cô gái trạc tuổi mình, đầu cạo trọc lóc, đang dựa vào một cậu con trai da nâu có tóc xoắn lọn dài, mặt bấm chi chít khuyên. Hắn quay đầu khi chiếc xe đi ngang qua như thể trông thấy nó, và cô bắt gặp ánh lóe lên từ mắt hắn. Một trong hai con mắt mờ đục, nom có vẻ không có con ngươi.

“Anh lên mười,” Jace nói. Cô quay sang nhìn anh. Mặt anh vẫn không có chút cảm xúc nào hết. Dường như thể luôn có vài thứ màu sắc rút hết khỏi anh mỗi khi anh nhắc tới bố mình. “Bố con anh sống trong một căn nhà nhỏ ở vùng ngoại ô. Bố thường nói sống xa người ta sẽ an toàn hơn. Anh nghe thấy tiếng bọn chúng lái xe vào thế là anh chạy đi báo với bố. Bố bảo anh trốn đi, thế là anh trốn. Ngay dưới chân cầu thang. Anh thấy những kẻ đó bước vào. Họ đi cùng những kẻ khác. Không phải người. Những kẻ Lầm Đường. Bọn chúng trấn áp bố anh và cắt cổ bố. Máu chảy lênh láng trên sàn nhà. Thấm ướt sũng giày anh. Anh không nhúc nhích.”

Clary mất một lúc mới nhận ra anh đã nói xong, mất thêm chút nữa mới cất lời được. “Tôi thật xin lỗi, Jace ạ.”

Mắt anh sáng lên trong bóng tối. “Anh không hiểu vì sao người thường luôn xin lỗi vì những điều không phải lỗi của họ.”

“Tôi không phải xin bỏ qua lỗi. Đó là cách... thể hiện sự đồng cảm. Để nói rằng tôi lấy làm tiếc vì anh không vui.”

“Anh không hề không vui,” anh nói. “Chỉ có người sống không mục đích mới không vui. Anh sống có mục đích.”

“Ý anh là giết quỷ, hay trả thù cho cái chết của bố?”

“Cả hai.”

“Liệu bố anh thực sự muốn anh giết những kẻ đó? Chỉ để trả thù?”

“Một Thợ Săn Bóng Tối dám ra tay tàn sát những người anh em của mình còn tồi tệ hơn một con quỷ và phải chịu chết như giết một con quỷ.” Jace nói, nghe như đang trích lại lời lẽ trong sách giáo khoa vậy.

“Nhưng có phải tất cả quỷ đều xấu?” cô hỏi. “Ý em là, nếu tất cả ma cà rồng đều không xấu, tất cả người sói đều không xấu, có lẽ...”

Jace quay sang cô, trông cáu tiết. “Không giống nhau đâu em ạ. Ma cà rồng, người sói, kể cả pháp sư, trong họ vẫn mang một phần người. Một phần của thế giới này, sinh ra trong thế giới này. Họ thuộc về nơi đây. Nhưng quỷ dữ đến từ thế giới khác. Chúng là lũ ký sinh liên không gian. Chúng tới một thế giới nào là bóc lột cạn kiệt thế giới đó. Chúng không thể xây dựng, chỉ hủy diệt – chúng không thể tạo ra, chỉ biết sử dụng. Chúng bòn rút một nơi thành tro tàn và khi nơi đó chết đi, chúng sẽ di chuyển tới thế giới khác. Chúng muốn sự sống – không chỉ của anh hay của em, mà là tất cả sự sống trên thế gian, mọi dòng sông và thành phố, đại dương, tất cả của thế gian này. Và thứ duy nhất ngáng giữa chúng và sự hủy diệt tất cả những thứ này đây” – anh chỉ ra ngoài cửa sổ, phẩy tay như ám chỉ mọi thứ trong thành phố, từ những tòa cao ốc tới mớ giao thông đông nghẹt trên đường Houston – “là Nephilim.”

“À,” Clary nói. Dường như chẳng còn gì nhiều khác để nói. “Có bao nhiêu thế giới khác vậy?”

“Không ai biết. Hàng trăm chăng? Có lẽ là hàng triệu.”

“Và tất cả đều – đều là thế giới chết? Đều đã kiệt quệ?” Clary thấy dạ dày chùng xuống, dù đáng ra nó phải nhộn lên khi họ lăn qua trên chiếc Mini tím. “Có vẻ buồn quá nhỉ.”

“Anh không nói vậy.” Ánh sáng cam cam sầm sậm của sương mù thành phố đổ qua ô cửa sổ, viền quanh những đường nét nhìn nghiêng sắc cạnh trên khuôn mặt Jace. “Có thể có vài thế giới sống khác như thế giới của chúng ta. Chỉ có quỷ mới di chuyển giữa những nơi này được. Vì chúng hầu như là phi vật chất, một phần thôi, nhưng không ai biết đích xác vì sao. Rất nhiều pháp sư đã thử, nhưng chưa ai thành công. Không một thứ gì từ Trái Đất có thể đi xuyên qua kết giới giữa các thế giới. Nếu chúng ta có thể,” anh nói thêm, “thì chùng ta đã có thể ngăn không cho chúng tới đây, nhưng chẳng ai biết làm sao để làm được điều đó nữa. Thật ra, càng ngày càng có nhiều quỷ tiến vào đây. Lúc đầu chỉ có những vụ xâm nhập của lũ quỷ nhỏ, rất dễ bị dập tắt. Nhưng ngay lúc này càng lúc càng có nhiều quỷ vượt qua kết giới. Hội Clave phải phái rất nhiều Thợ Săn Bóng Tối, nhưng lắm lần họ không bao giờ trở về.”

“Nhưng nếu các anh có Cốc Thánh, các anh có thể tạo ra nhiều Thợ Săn Bóng Tối hơn, đúng không? Nhiều Thợ Săn Quỷ hơn?” Clary ngập ngừng hỏi.

“Đúng,” Jace nói. “Nhưng đã nhiều năm nay bọn anh đã không giữ Cốc Thánh nữa rồi, trong khi đó rất nhiều người phải chết trẻ. Vì thế số lượng Thợ Săn Bóng Tối càng ngày càng ít.”

“Các anh không, ừm...” Clary cố tìm từ đúng. “Sinh sản được à?”

Jace bật cười ngay khi cỗ xe đột ngột quặt sang trái. Anh ngồi vững vàng, nhưng Clary lại ngã dúi vào anh. Anh đỡ lấy, tay nhẹ nhàng nhưng cương quyết giữ cô cách xa mình. Cô cảm nhận dấu ấn lạnh tanh của chiếc nhẫn nơi tay anh như một lát băng áp lên làn da mướt mồ hôi của cô. “Chắc rồi,” anh nói. “Bọn anh thích sinh sản lắm. Đó là một trong những chuyện bọn anh yêu thích.”

Clary nhích người ra xa, mặt đỏ lên trong bóng tối, và quay đi nhìn ra ngoài cửa sổ. Họ đang lăn về phía cánh cổng sắt uốn nặng nề, những hàng dây leo đen tối đan thành mắt cáo phong kín cổng.

“Chúng ta tới nơi rồi,” Jace tuyên bố khi vòng bánh xe nhẹ nhàng di chuyển trên vỉa hè chuyển sang đoạn đường đá sỏi lạo xạo. Clary thoáng thấy mấy chữ trên cổng vòm khi xe họ lăn bánh bên dưới: NGHĨA TRANG MARBLE THÀNH PHỐ NEW YORK.

“Nhưng người ta đã không chôn cất ở Manhattan từ cả thế kỷ trước vì không còn chỗ cơ mà – phải không nhỉ?” cô nói. Họ đang đi qua đoạn đường hẹp hai bên là những bức tường đá cao cao.

“Thành Phố Xương Trắng đã tồn tại ở đây lâu hơn thế.” Chiếc xe ngựa đột nhiên rùng mình dừng lại. Clary giật nảy người khi Jace duỗi tay ra, nhưng anh chỉ vươn tay qua để mở cánh cửa bên phía cô. Tay anh có chút cơ bắp và chút lông tay vàng mịn như phấn hoa.

“Anh không được lựa chọn, đúng không?” cô hỏi. “Về chuyện trở thành Thợ Săn Bóng Tối ấy. Anh không thể muốn là từ bỏ được.”

“Không hề dễ, hoặc không phải không có nguy hiểm,” anh nói. Cánh cửa bật mở, để một luồng không khí mang mùi bùn đất ùa vào. Cỗ xe ngựa đã dừng lại trên một trảng cỏ vuông vức bị bao quanh bởi những bức tường cẩm thạch mọc rêu xanh. “Nhưng nếu được lựa chọn, anh vẫn chọn làm Thợ Săn Bóng Tối.”

“Vì sao?” cô hỏi.

Anh nhướn một bên mày, ngay lập tức Clary thấy ghen tị. Cô luôn muốn làm được như vậy. “Vì lẽ thường tình thế thôi,” anh nói. “Anh giỏi trong khoản đó.”

Jace nhảy khỏi cỗ xe. Clary trượt ra mép ghế, chân đong đưa. Chân cô còn lâu mới chạm nền đá sỏi. Cô nhảy xuống. Cú chạm đất khiến chân cô đau nhói, nhưng cô không ngã. Cô quay người đắc thắng thì thấy Jace đang nhìn mình. “Anh đã có thể giúp em xuống mà,” anh nói.

Cô chớp mắt. “Ổn thôi. Anh không cần phải giúp em.”

Anh liếc nhìn ra sau. Tu Huynh Jeremiah đang rời xuống khỏi ghế xà ích trong âm thanh im lặng rơi của chiếc áo chùng. Trên trảng cỏ úa nắng không hề in bóng anh ta.

Đi nào, anh ta nói. Vị Tu Huynh rời xa cỗ xe và những ngọn đèn tỏa ánh sáng thân thiện của Đại Lộ Số Hai, đi vào trung tâm tối tăm của khu vườn. Rõ ràng anh ta muốn họ đi theo.

Cỏ khô và kêu lạo xạo dưới gót chân họ, những bức tường đá cẩm thạch hai bên đường trơn láng sáng bóng. Có những cái tên được khắc trên những phiến đá trên tường, tên kèm theo ngày tháng. Clary mất một lúc mới nhận ra đó là lời ghi chú trên bia mộ. Cô thấy lạnh sống lưng. Thế những cái xác ở đâu? Trong những bức tường bị chôn thẳng đứng như thể họ bị ốp sống vào trong tường sao...?

Cô quên không nhìn xem mình đang đi đâu. Khi đụng phải một vật chắc chắn còn sống, cô hét lớn.

Là Jace. “Đừng ré lên như thế. Em sẽ đánh thức người chết dậy đấy.”

Cô cau có nhìn anh. “Vì sao chúng ta dừng lại?”

Anh chỉ Tu Huynh Jeremiah, người đã dừng lại trước bức tượng chỉ cao hơn anh ta một chút, bệ chân tượng phủ đầy rêu. Là một bức tượng thiên thần. Đá cẩm thạch tạc nên bức tượng nhẵn đến nỗi gần như trong suốt. Gương mặt của thiên thần vừa hung tợn, vừa đẹp lại vừa buồn. Trên đôi bàn tay dài trắng, thiên thần đang giơ chiếc chén, miệng chén viền đá quý cẩm thạch. Có gì đó về bức tượng khơi dậy ký ức của Clary với một sự quen thuộc tới khó chịu. Dưới chân tượng có khắc ngày tháng, 1234, và vài chữ xung quanh đó: NEPHILIM: FACILIS DESCENSUS AVERNI.

“Cái chén đấy tượng trưng cho Cốc Thánh phải không?” Clary hỏi.

Jace gật đầu. “Và đó là khẩu hiệu của Nephilim – những Thợ Săn Bóng Tối - ở ngay chân tượng.”

“Nó có nghĩa gì?”

Nụ cười của Jace lóe sáng trong bóng tối. “Nó có nghĩa Thợ Săn Bóng Tối: Mặc Đồ Đen Đẹp hơn Các Góa Phụ của Kẻ Thù Chúng Ta kể từ năm 1234.”

“Jace...”

Nó có nghĩa, Jeremiah nói, Đường xuống Địa Ngục rất dễ đi.

“Hay là phấn khích quá,” Clary nói, nhưng cô vẫn thấy lạnh toàn thân dù không gian khá nóng nực.

“Đó là trò đùa nho nhỏ của các Tu Huynh đấy mà, khi khắc khẩu hiệu ấy ở đây” Jace nói. “Em sẽ hiểu ngay thôi.”

Cô nhìn Tu Huynh Jeremiah. Anh ta đã rút ra cây stele tỏa sáng nhàn nhạt từ một túi trong nào đấy trong áo chùng, dùng mũi thanh stele vẽ nên một ký tự rune trên chân tượng. Miệng bức tượng thiên thần đột ngột mở ra thành tiếng hét im lặng, và một cái hố đen xuất hiện trên lớp cỏ dưới chân Jeremiah. Nó trông như một huyệt mộ được khai mở vậy.

Clary chầm chậm đến gần và nhìn xuống. Những bậc thang bằng đá hoa cương dẫn sâu xuống hố, đã mòn vẹt vì nhiều năm sử dụng. Những ngọn đuốc đặt cách nhau từng quãng đều đặn dọc theo cầu thang, tỏa ánh sáng xanh lục nóng rực và xanh lam lạnh băng. Phía cuối cầu thang khuất trong bóng tối.

Jace bước xuống cầu thang dễ dàng như một người thấy hoàn cảnh này quá quen thuộc nếu không muốn nói là thật thoải mái. Đi nữa đường tới ngọn đuốc đầu tiên, anh dừng lại và ngước nhìn. “Đi nào,” anh nóng nảy giục.

Clary vừa đặt chân lên bậc đầu tiên thì thấy cánh tay mình bị một bàn tay lạnh ngắt giữ rịt lấy. cô kinh ngạc ngước nhìn. Tu Huynh Jeremiah đang nắm lấy cổ tay cô, những ngón tay trắng xanh lạnh băng bám chắc vào da thịt cô. Cô có thể thấy khuôn mặt sẹo xương xẩu sang sáng bên dưới cái mũ trùm.

Đừng sợ, giọng nói anh ta vang lên trong đầu cô. Một tiếng hét của con người không đủ đánh thức những người chết này đâu.

Khi anh ta thả tay cô ra, cô lần xuống cầu thang theo Jace, tim đập dồn dập trong lồng ngực. Anh đang đợi ở chân cầu thang. Anh đã lấy một trong những ngọn đuốc xanh lục đang cháy sáng khỏi giá và giơ ngang tầm mắt. Ánh sáng xanh lá cây nhàn nhạt tỏa chiếu lên da anh. “Em ổn không?”

Cô gật đầu, không nghĩ mình nói được. Cầu thang dẫn xuống một khoảng chân cầu thang cạn; phía trước họ là một đường hầm, dài và đen hun hút, lố nhố những ụ rễ cây cuộn lại. Một thứ ánh sáng xanh xanh mờ mờ nhập nhòa phía cuối đường hầm. “Trong này... tối quá,” cô lắp bắp.

“Em muốn anh cầm tay không?”

Clary đặt cả hai tay sau lưng như một đứa trẻ. “Đừng ra vẻ bề trên với tôi.”

“À, anh không thể nào ở bề dưới nói chuyện với em được. Em lùn quá mà.” Jace liếc nhìn cô, ngọn đuốc phả ra chi chít tàn lửa theo từng bước anh di chuyển. “Không cần giữ đúng nghi thức đâu, Tu Huynh Jeremiah,” anh dài giọng. “Dẫn đường đi. Bọn tôi sẽ đi ngay sau lưng.”

Clary nhảy dựng. Cô vẫn không quen với cách đến và đi trong sự im lặng tuyệt đối của chuyên viên lưu trữ văn thư này. Anh ta di chuyển không có lấy một tiếng động từ nơi đang đứng đằng sau cô ra tới trước dẫn đường vào đường hầm. Sau một lúc cô đi theo, hất cánh tay đang đưa ra của Jace khi đi qua.

Quang cảnh đầu tiên của Thành Phố Câm Lặng đập vào mắt Clary là từng hàng từng hàng những mái vòm bằng đá cẩm thạch cao cao trên đầu, biến mất xa xa như những hàng cây ngăn nắp trong vườn cây ăn quả. Cẩm thạch bản thân nó đã mang vẻ tinh khôi, ngà ngà xam xám, cứng nhắc và bóng bẩy, đây đó lại được điểm thêm những dải đá mã não, ngọc thạch anh và ngọc bích. Khi họ rời khỏi đường hầm và tiến vào khu rừng những mái vòm, Clary thấy sàn nhà được khắc cùng những chữ rune thi thoảng tô điểm cho da của Jace theo từng đường thẳng, xoắn ốc và họa tiết uốn lượn.

Khi ba người họ đi qua cổng vòm đầu tiên, có gì đó lớn và trắng sừng sững phía bên trái Clary, giống như tảng băng bên ngoài mạn tàu Titanic. Là một tảng đá vuông vức trắng mịn, một loại cửa gì đấy lắp vào mặt nước. Tảng đá gợi cho cô nhớ đến căn nhà đồ chơi của trẻ con, dù nó gần đủ rộng để cho cô đứng vào trong.

“Là lăng mộ đấy,” Jace chiếu đuốc về phía đó. Clary có thể thấy chữ rune khắc trên cánh cửa được niêm phong bằng chốt sắt. “Một nấm mồ. Bọn anh chôn người chết trong đó.”

“Tất cả người chết sao?” cô nói, nửa muốn hỏi xem bố anh có được chôn trong đó không, nhưng anh đã tiến lên, không nghe được lời cô nói nữa rồi. Cô vội vàng đuổi theo, không muốn bị bỏ lại cùng Tu Huynh Jeremiah tại cái nơi ghê rợn thế này. “Tôi tưởng anh bảo đây là thư viện chứ.”

Thành Phố Câm lặng được chia làm nhiều tầng, Jeremiah xen vào. Và không phải tất cả người chết đều được chôn tại đây. Còn một chỗ chứa hài cốt khác nữa ở Idris, và tất nhiên, còn lớn hơn nhiều. Nhưng ở tầng này chỉ có các lăng tẩm và nơi hỏa táng.”

“Nơi hỏa táng?”

Những người chết trong chiến trận được hỏa táng, tro cốt họ được dùng để tạo nên những cổng vòm đá cẩm thạch mà em thấy ở đây. Bản thân máu và xương của kẻ giết quỷ đã là sự bảo vệ đầy quyền năng chống lại quỷ dữ. Kể cả khi chết, thành viên hội Clave vẫn phục vụ đại nghiệp.

Thật mệt mỏi làm sao, Clary nghĩ, phải chiến đấu cả đời rồi lại phải tiếp tục cuộc chiến ấy ngay cả khi cuộc đời đã kết thúc. Ở cuối tầm nhìn cô có thể thấy những hầm mộ trắng vuông vức nhô lên hai bên cô theo từng hàng lăng mộ trật tự, mọi cánh cửa đều khóa kín từ bên ngoài. Giờ cô đã hiểu vì sao nơi đây được gọi là Thành Phố Câm Lặng: những cư dân duy nhất nơi đây là các Tu Huynh Câm và những người chết mà họ sốt sắng canh giữ.

Họ đi tới một cầu thang khác dẫn xuống một không gian tối tăm hơn; Jace giơ đuốc lên trước, tạo ra những khoảng tối sáng trên bức tường. “Chúng ta đang xuống tầng hai, nơi lưu trữ tài liệu và phòng hội đồng,” anh nói, như để trấn an cô.

“Khu vực sinh hoạt ở đâu vậy?” Clary hỏi, nửa vì lịch sự, nửa vì tò mò. “Các Tu Huynh ngủ ở đâu?”

Ngủ ư?

Tiếng nói im lặng đó treo trong không gian tối tăm giữa họ. Jace phá ra cười, ngọn đuốc anh đang cầm nhấp nháy chập chờn. “Em phải hỏi thôi.”

Dưới chân cầu thang là một đường hầm khác, cuối đường hầm mở ra một cái đình vuông vức, ở mỗi góc có một ngọn tháp xương khắc gọt. Những ngọn đuốc cháy trên những giá đuốc bằng đá mã não dài dọc theo khoảng không gian, không khí có mùi tro và khói. Ở giữa đình là một chiếc bàn dài bằng đá ba-dan vân trắng. Đằng sau bàn, trên bức tường tối màu, có treo thanh kiếm bạc thật lớn, mũi kiếm chúc xuống, chuôi kiếm chạm hình đôi cánh đang giang rộng. Ngồi tại bàn là một hàng Tu Huynh Câm, tất cả đều mặc áo choàng và đội mũ trùm cùng màu da dê như Tu Huynh Jeremiah.

Jeremiah vào đề ngay. Chúng tôi đã tới. Clarissa, ra đứng trước Hội Đồng nào.

Clary liếc nhìn Jace, nhưng anh đang chớp mắt, rõ ràng là bối rối. Hẳn Tu Huynh Jeremiah chỉ nói trong đầu cô mà thôi. Cô nhìn qua bàn, nhìn vào một dãy dài những dáng người im lặng ủ trong bộ áo chùng nặng nề. Những ô vuông xen kẽ nhau tạo nên sàn đình: đồng vàng và đỏ sậm. Ngay trước bàn là một ô vuông lớn hơn, bằng đá cẩm thạch trắng có chạm nổi những ngôi sao bạc kiểu cong cong.

Clary bước vào trung tâm ô vuông đen như bước ra trước đội xử bắn. Cô ngẩng đầu. “Được rồi,” cô nói. “Giờ thì sao đây?”

Khi đấy thì các Tu Huynh tạo ra âm thanh, một thứ âm thanh đủ khiến lông tay và lông cổ Clary dựng đứng cả. Đó là âm thanh giống tiếng thở dài hoặc tiếng rên rỉ. Họ đồng thời giơ tay và bỏ mũ trùm, để lộ khuôn mặt sẹo và những hốc mắt trống rỗng.

Dù đã nhìn thấy khuôn mặt của Tu Huynh Jeremiah, dạ dày của Clary vẫn xoắn lại. Giống như nhìn một hàng những bộ xương khô, giống như những bức tranh khắc gỗ thời trung cổ với những hình người chết biết đi lại, nói chuyện và nhảy nhót trên chồng đống thân xác người chết. Những cái mồm bị khâu lại của họ dường như đang cười với cô.

Hội đồng chào mừng ngươi, Clarissa Fray, cô nghe thấy, và không chỉ một giọng mà là hàng tá, những chất giọng trầm khàn, có giọng mượt mà và không có tông điệu, nhưng tất cả đều mang kiểu kẻ cả, bề trên, đẩy lùi những hàng rào mỏng manh quanh đầu óc cô.

“Dừng lại,” cô nói, và ngạc nhiên là giọng cô rất kiên định và mạnh mẽ. Những âm thanh trong đầu cô đột ngột ngừng lại như đĩa nhạc ngừng quay. “Các người có thể chui vào đầu óc tôi,” cô nói, “nhưng chỉ khi tôi sẵn sàng.”

Nếu ngươi không cần sự giúp đỡ của chúng ta, thì không cần làm vậy. Dù gì, chính ngươi là người yêu cầu chúng ta giúp.

“Các người cũng muốn biết những thông tin trong đầu tôi, hệt như tôi vậy,” cô bảo. “Điều đó không có nghĩa các người có quyền thích làm gì thì làm.”

Tu Huynh ngồi chính giữa xoa những ngón tay trắng ỏn gầy guộc dưới cằm. Thành thực mà nói, đây là một câu đố thú vị,Tu Huynh nói, giọng nói trong đầu cô nghe khô khốc và ngang phè. Nhưng cũng không cần dùng đến vũ lực làm gì, nếu ngươi không chống cự.

Cô nghiến răng. Cô muốn chống lại họ, muốn đuổi tống những giọng nói xâm phạm đầu óc cô đi. Phải đứng im mà chấp nhận kiểu xâm phạm tới nơi riêng tư, sâu kín nhất của mình...

Nhưng có thể ngay lúc này đây việc đó đã xảy ra rồi thôi, Clary tự thầm nhắc. Chỉ là một cuộc khai quật tội ác trong quá khứ thôi mà, tội ác đã đánh cắp trí nhớ của cô. Nếu thành công, những gì bị lấy khỏi cô sẽ được phục hồi. Cô nhắm mắt lại.

“Tiến hành đi,” cô nói.

Sự tiếp xúc đầu tiên xuất hiện khi có tiếng thì thầm đầu tiên vang lên trong đầu cô, khẽ khàng như một chiếc lá rơi sượt qua. Hãy khai báo tên trước Hội Đồng.

Clarissa Fray.

Giọng nói đầu tiên hòa cùng những giọng nói khác. Ngươi là ai?

Tôi là Clary. Mẹ tôi là Jocelyn Fray. Tôi sống ở số 807 Berkeley Place tại Brooklyn. Tôi mười lăm tuổi. Tên bố tôi là...

Dường như trí óc cô đang bật lại chính nó, giống như sợi dây thun, và cô đang guồng trong cơn lốc xoáy những hình ảnh bên trong mí mắt nhắm nghiền. Mẹ cô đang vội vàng cùng cô chạy trên con phố đen như màn đêm giữa những chồng tuyết bẩn thỉu. Rồi, một bầu trời thấp, xám xịt, những hàng cây khẳng khiu. Một khu đất vuông trống trải trũng xuống, một quan tài đơn giản hạ xuống. Cát bụi trở về với cát bụi. Jocelyn cuốn mình trong chiếc chăn bông vải ghép, nước mắt lăn dài trên má, vội đóng cái hộp lại và nhét xuống dưới cái gối khi Clary bước vào phòng. Cô lại thấy những chữ cái viết tắt trên hộp: J.C.

Những hình ảnh chuyển động nhanh hơn, như những trang của một trong những cuốn sách mang những hình vẽ nhìn như có thể di chuyển khi bạn lật nhanh chúng. Clary đứng trên đầu cầu thang, nhìn xuống hành lang hẹp, và chú Luke lại hiện ra, chiếc túi vải thô màu xanh lá cây đặt dưới chân. Jocelyn đứng trước mặt chú, lắc đầu. “Tại sao lại là bây giờ, hả Lucian? Em nghĩ anh đã chết...” Clary chớp chớp mắt; chú Luke có vẻ khác, gần như người xa lạ, râu ria xồm xoàm, mái tóc dài và rối bù – và những nhánh cây sà xuống che khuất mất tầm nhìn của cô; cô lại ở trong công viên, những nàng tiên xanh, nhỏ bằng cây tăm, bay rì rào giữa những bông hoa đỏ. Cô vui sướng chạm tay tới nó, và mẹ cô bế thốc cô lên cùng tiếng thét kinh hoàng. Rồi lại là mùa đông trên con phố tối tăm, họ đang vội vã chạy; mẹ Jocelyn, tay cầm cây dù, đang nửa lôi nửa kéo Clary qua những ụ tuyết, một cánh cửa đá cẩm thạch sừng sững trước mắt trong cảnh tuyết rơi trắng xóa; trên cánh cửa có khắc mấy chữ. ĐẠI TÀI. Rồi cô đang đứng trong hành lang thoang thoảng mùi sắt và tuyết tan. Những ngón tay cô cứng đờ vì lạnh. Một bàn tay đặt dưới cằm cô hướng cô nhìn lên, và cô thấy hàng chữ chạy dọc tường. Hai chữ nhảy xổ vào cô, khắc ghi vào mắt cô: “MAGNUS BANE.”

Một cơn đau đột ngột phóng qua cánh tay phải. Clary ré lên khi những hình ảnh rơi đi còn cô thì trồi lên trên, vượt qua bề mặt của nhận thức, như một thợ lặn trồi lên khỏi con sóng. Có gì đó lành lạnh ép lên má cô. Cô mở mắt nhìn thấy những ngôi sao bạc. Cô chớp mắt hai lần trước khi nhận ra mình đang nằm trên nền đá cẩm thạch, đầu gối co sát ngực. Khi cô di chuyển, cơn đau bỏng giẫy chạy theo cánh tay.

Clary thận trọng ngồi dậy. Da ở khuỷu tay trái cô bị xước và chảy máu. Chắc cô đã đập cùi chỏ xuống khi ngã rồi. Có máu dính trên áo cô. Cô nhìn quanh, mất phương hướng, và thấy Jace đang quan sát, không nhúc nhích nhưng khóe miệng hằn rõ sự căng thẳng cực độ.

Magnus Bane. Từ này có nghĩa gì đó, nhưng là gì đây? Trước khi cô kịp hỏi lớn, Tu Huynh Jeremiah đã ngắt lời.

Cái rào cản trong đầu em mạnh hơn chúng ta tưởng, anh ta nói. Nó chỉ có thể được tháo gỡ bởi kẻ đã đặt vào đấy thôi. Để chúng ta gỡ bỏ được nó nghĩa là phải giết em đấy.

Clary loạng choạng đứng dậy, ôm lấy cánh tay bị thương. “Nhưng tôi không biết ai đã đặt nó vào đấy. Nếu biết thì tôi đã không đến đây.”

Câu trả lời nằm trong chính những sợi chỉ suy nghĩ của em, Tu Huynh Jeremiah nói. Trong giấc mơ tỉnh lại vừa rồi em đã thấy nó được viết ra đấy.

“Magnus Bane ư? Nhưng... đó còn chẳng phải tên người nữa!”

Thế là đủ. Tu Huynh Jeremiah đứng dậy. Như thể đây là một tín hiệu, những Tu Huynh khác cũng đứng dậy theo. Họ nghiêng đầu về phía Jace, một cử chỉ câm lặng cho thấy họ nhận ra anh, trước khi họ đi giữa những hàng cột và biến mất. Chỉ có Tu Huynh Jeremiah còn nán lại. Anh ta hững hờ quan sát trong lúc Jace vội chạy tới chỗ Clary.

“Tay em ổn không? Để anh xem nào,” anh hỏi và nắm lấy cổ tay cô.

“Ối! Nó ổn mà. Đừng làm thế, anh sẽ làm vết thương xấu đi đấy,” Clary nói, cố giằng tay lại.

“Em chảy máu trên Ngôi sao Tiên Tri,” anh nói. Clary nhìn và biết anh nói đúng: có vết máu trên ô cẩm thạch trắng bạc. “Anh cá có luật về chuyện đó.” Anh lật tay cô lại, nhẹ nhàng hơn cô nghĩ. Anh cắn môi dưới và huýt sáo; cô liếc nhìn xuống thấy một lớp máu phủ từ khuỷu tay tới cổ tay. Cánh tay nhức nhối, cứng đơ và đau đớn.

“Giờ là lúc anh sẽ xé áo và băng vết thương cho tôi đấy nhỉ?” cô đùa. Cô ghét nhìn thấy máu, đặc biệt là máu mình.

“Nếu em muốn anh xé quần xé áo, em chỉ cần yêu cầu mà thôi.” Anh cho tay vào túi và rút thanh stele ra. “Thế sẽ bớt đau hơn nhiều.”

Nhớ lại cảm giác nhoi nhói khi thanh stele chạm vào cổ tay, cô gồng người, nhưng tất cả những gì cô cảm thấy khi thứ dụng cụ tỏa sáng ấy nhẹ nhàng trượt trên vết thương của mình chỉ là chút hơi ấm. “Đấy,” anh nói và đứng thẳng lại. Clary co duỗi tay mà ngạc nhiên – dù máu vẫn còn đấy, nhưng vết thương đã biến mất, cùng cơn đau và sự cứng đờ. “Nều lần sau em định cố làm mình bị thương để anh để ý, nhớ là nói chuyện ngọt ngào chút xíu ấy nhé.”

Khuôn miệng Clary cong lại thành một nụ cười. “Tôi sẽ nhớ,” cô nói, và khi anh quay đi, cô nói thêm, “và cám ơn anh.”

Anh nhét thanh stele vào túi quần sau mà không thèm nhìn lại cô, nhưng cô nghĩ đã nhận ra sự hài lòng trên vai anh. “Tu Huynh Jeremiah, anh nói, xoa xoa hai tay, “từ nãy tới giờ anh im lặng quá. Hẳn anh có gì muốn chia sẻ?”

Tôi có nhiệm vụ dẫn các em rời khỏi Thành Phố Câm Lặng, thế thôi, chuyên viên lưu trữ văn thư nói. Clary tự hỏi liệu có phải mình đang tưởng tượng ra không, hay thực sự trong “giọng nói” của anh ta có chút gì đó như đang xúc xiểm.

“Bao giờ chúng tôi cũng có thể tự tìm đường ra mà,” Jace vui vẻ nói. “Tôi chắc chắn mình nhớ đường...”

Những kỳ quan của Thành Phố Câm Lặng không dành cho con mắt những kẻ thiếu kinh nghiệm, Jeremiah nói và quay lưng khiến chiếc áo choàng lay động không phát ra âm thanh. Lối này.

Khi họ ra ngoài lối vào, Clary hít thật sâu không khí đậm đà hương sớm mai, tận hưởng mùi thành phố hơi nồng của khói bụi, đất đai và mùi người. Jace ngẫm ngợi nhìn quanh. “Trời sắp mưa,” anh nói.

Anh ta nói đúng, Clary nghĩ, nhìn lên bầu trời màu xám đỏ. “Chúng ta sẽ đi xe ngựa về Học Viện à?”

Jace nhìn Tu Huynh Jeremiah đang đứng im lìm như tượng gỗ, rồi lại nhìn cỗ xe sừng sững như một cái bóng đen ở lối cổng vòm dẫn ra đường lớn. Rồi anh nhoẻn miệng cười.

“Không hề,” anh nói. “Anh ghét mấy thứ đó lắm. Chúng ta bắt tắc xi thôi.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.