Bữa tiệc của người chết
Chỉ dẫn trong thiếp mời đưa họ tới một khu công nghiệp rộng lớn ở Brooklyn với những đường phố hai bên là những công xưởng và kho hàng. Clary nhận thấy, một vài trong số đó đã được cải tạo thành gác xép và phòng triển lãm, nhưng vẫn có gì đó ở vẻ bề ngoài sừng sững vuông vức, khoe ra chỉ vài ô cửa sổ đan song sắt khiến người ta có cảm giác khó gần.
Họ từ trạm tàu điện ngầm tìm đường đến, Isabelle dùng máy Cảm Ứng để định vị, có vẻ máy này có gắn sẵn hệ thống bản đồ. Simon, người rất thích đồ công nghệ, mê tít cả lên – hoặc ít nhất là cậu chàng đang giả vờ thứ mình mê tít là cái máy Cảm Ứng. Mong tránh xa họ, Clary lùi ra sau trong khi họ đi qua công viên rậm rạp, lớp cỏ không được chăm sóc đã ngả màu nâu úa trong sức nóng mùa hè. Ở bên phải cô, những ngọn tháp nhà thờ ánh lên màu xám và đen nổi bật trên bầu trời đêm không sao.
“Đi tiếp đi,” một giọng khó chịu vang lên bên tai cô. Là Jace, người đã lùi lại để đi cạnh cô. “Anh không muốn cứ phải nhìn ra sau để đảm bảo không có chuyện gì với em.”
“Vậy đừng nhìn.”
“Lần cuối cùng anh bỏ em một mình, một con quỷ đã tấn công em,” anh nhận định.
“À, chắc chắn là tôi ghét phá ngang cuộc đi dạo buổi tối vui vẻ của anh bằng cái chết đột ngột của tôi rồi.”
Anh chớp chớp mắt. “Có một lằn ranh ngăn cách mong manh giữa sự mỉa mai và thái độ thù địch công khai, mà dường như em đã vượt qua nó. Chuyện gì thế?”
Cô cắn môi. “Sáng nay, mấy người kỳ lạ quái gở đã đào bới não tôi. Giờ tôi lại đi gặp một gã kỳ lạ quái gở đã nhét vài thứ vào não tôi. Thế nhỡ tôi không thích điều hắn tìm thấy thì sao?”
“Sao em lại nghĩ là không?”
Clary vén tóc khỏi làn da nhớp nháp. “Tôi ghét khi anh trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi.”
“Không em không ghét đâu, em nghĩ là quyến rũ thì có. Mà, chẳng nhẽ em thà không muốn biết sự thực?”
“Không. Ý tôi là, có lẽ. Tôi không biết nữa.” Cô thở dài. “Anh thì sao?”
“Đúng đường này rồi!” Isabelle reo lên, cách đó một phần tư dãy nhà. Họ đang đứng trên một con phố hẹp hai bên là những nhà kho cũ, dù hầu hết trong số đó nay đều có dấu hiệu của cư dân sống: những cái hộp ở bậu cửa sổ trồng hoa, rèm cửa lay động trong gió đêm, những thùng rác bằng nhựa có đánh số chất trên vỉa hè. Clary nheo mắt rõ lắm, nhưng không có gì cho cô thấy đây là con phố cô từng thấy tại Thành Phố Xương Trắng – trong giấc mơ nó gần như bị chôn vùi trong tuyết.
Cô cảm nhận được những ngón tay của Jace sượt qua vai mình. “Nhất định là muốn rồi. Luôn luôn vậy,” anh lầm bầm.
Cô liếc nhìn, không hiểu. “Cái gì?”
“Sự thực,” anh nói. “Anh...”
“Jace!” Là Alec. Anh ta đang đứng trên vỉa hè, không xa lắm; Clary tự hỏi vì sao giọng anh ta lại lớn thế chứ.
Jace quay người, tay rời khỏi vai cô. “Ơi?”
“Chúng ta ở đúng nơi chứ?” Alec chỉ về cái gì đó mà Clary không thấy; ẩn sau một chiếc ô tô màu đen lù lù.
“Cái gì thế?” Jace tới bên Alec; Clary nghe anh ta cười lớn. Vòng quanh chiếc xe, cô nhìn ra thứ họ đang nhìn: vài chiếc xe máy, thon gọn màu bạc, với khung gầm đen thấp. Những đường ống bóng lừ trườn quanh chúng, ngoằn ngoèo như mạch máu. Có cảm giác buồn nôn về một thứ có sự sống trong những chiếc xe đó, giống như những sinh vật trong tranh của Giger.
“Ma cà rồng,” Jace nói.
“Với tôi trông chúng giống xe máy,” Simon nói, đứng cạnh Jace với Isabelle ở bên. Cô nàng nhíu mày nhìn mấy cái xe.
“Đúng là xe máy đấy, nhưng chúng đã được chỉnh sửa để chạy bằng năng lượng ác quỷ,” cô nàng giải thích. “Ma cà rồng sử dụng chúng – cho phép chúng di chuyển nhanh trong đêm. Không phải tuyệt đối trong Giao Ước, nhưng...”
“Nghe đồn vài chiếc còn bay được,” Alec hăng hái nói. Anh nghe hệt như Simon khi vớ được đĩa game mới. “Hoặc biến thành vô hình chỉ cần một nút gạt. Hoặc chạy dưới nước.”
Jace nhảy lên vỉa hè và đi vòng quanh mấy cái xe, săm săm soi soi. Anh vươn tay ra vuốt dọc theo khung gầm thon gọn của một chiếc xe. Trên thân xe có sơn vài con chữ bằng mực bạc: NOX INVICTUS. “Đêm huy hoàng,” anh dịch.
Alec nhìn anh một cách kỳ lạ. “Cậu đang làm gì đấy?”
Clary nghĩ mình thấy Jace cho tay lại vào trong áo. “Đâu làm gì đâu.”
“Vậy thì nhanh lên thôi,” Isabelle gọi. “Em không định mặc chiếc váy này rồi đứng nhìn các anh xà quần trong đống bẩn thỉu với toàn xe máy thế này đâu.”
“Chúng đẹp mà,” Jace nhìn rồi nhảy lại lên vỉa hè. “Em phải thừa nhận thôi.”
“À vâng,” Isabelle nói, trông có vẻ không định thừa nhận cái gì. “Giờ nhanh lên.”
Jace đang nhìn Clary. “Tòa nhà này,” anh nói và chỉ vào cái nhà kho gạch đỏ. “Có phải nó không?”
Clary thở dài. “Tôi nghĩ vậy,” cô không chắc chắn. “Trông chúng giống hệt nhau à.”
“Chỉ có một cách duy nhất để tìm ra thôi,” Isabelle nói, sải từng bước dài đi lên bậc cấp một cách quyết tâm. Những người khác đi theo, sát rạt vào nhau trong lối vào bốc mùi thối hoắc. Một ngọn đèn trơ trụi treo trên dây phía trên, hắt sáng xuống cánh cửa viền kim loại và những hàng chuông cửa dọc theo bức tường bên trái. Chỉ duy nhất một chuông cửa là có đề tên: BANE.
Isabelle ấn chuông. Chẳng có chuyện gì xảy ra. Cô nhấn lần nữa. Vừa định nhấn lần thứ ba thì Alec giữ lấy cổ tay cô em. “Đừng bất lịch sự,” anh nói.
Cô lườm. “Alec...”
Cánh cửa bật mở.
Một người đàn ông vóc dáng thanh mành đứng trước ngưỡng cửa, tò mò nhìn cả bọn. Isabelle là người đầu tiên lấy lại bình tĩnh và nở nụ cười quyến rũ. “Magnus? Magnus Bane?”
“Chính tôi đây.” Người đàn ông đứng chắn trước cửa cao gầy như thanh treo quần áo, mái tóc là một đầu chi chít tóc đen dựng lỉa chỉa. Từ nét cong cong trên đôi mắt ngái ngủ và sắc vàng trên làn da được nhuộm nâu đều khắp của người này Clary đoán ông ta một phần là người châu Á, với đôi gò má cao cuốn hút, khuôn mặt đẹp trai, vai rộng dù khung người có phần mảnh khảnh. Hẳn ông ta đang mặc đồ dự tiệc, là chiếc quần bò bó và áo sơ mi đính hàng tá đinh tán. Ông ta đánh mắt viền đen lấp lánh như mắt gấu trúc và tô môi màu xanh da trời sậm. Ông ta đưa bàn tay đầy những nhẫn lên vuốt mái tóc dựng đứng và trầm tư đánh giá họ. “Con cháu của Nephilim,” ông ta nói. “Chà chà. Tôi không nhớ có mời mấy cô mấy cậu.”
Isabelle rút thiếp mời ra mà vẫy như vẫy cờ trắng. “Tôi có thiếp mời đây. Những người này” – cô nàng khoa tay chỉ những người đi cùng – “là bạn tôi.”
Magnus giật lấy thiệp mời khỏi tay Isabelle và nhìn với vẻ chán ghét không buồn che giấu. “Chắc lúc đó tôi say quá,” ông ta nói rồi mở rộng cửa. “Vào đi. Và cố đừng giết người khách nào của tôi đấy nhé.”
Jace lách qua cửa, ngước mắt độ chừng Magnus. “Kể cả khi khách của ông đổ đồ uống lên đôi giày mới của tôi à?”
“Kể cả vậy.” Bàn tay Magnus bắn ra, quá nhanh nên trông chỉ như một cái bóng nhờ nhờ. Ông ta rút thanh stele khỏi tay Jace – Clary còn không hề biết Jace đang cầm nó – và giơ lên. Jace trông hơi bối rối. “Và cái này,” Magnus nói và nhét vào túi quần Jace,” để nó trong quần đi, Thợ Săn Bóng Tối.”
Magnus cười toe toét và bắt đầu lên lầu, để lại Jace đang sửng sốt đứng giữ cửa. “Đi nào,” ông nói và vẫy tay gọi những người khác vào. “Trước khi có người nghĩ đây là bữa tiệc của tôi.”
Cả bọn đi qua Jace, miệng nhoẻn cười một cách căng thẳng. Chỉ có Isabelle dừng lại và lắc đầu. “Làm ơn đừng có chọc giận ông ta. Nếu không ông ta sẽ không giúp chúng ta đâu.”
Jace có vẻ chán ngấy. “Anh biết anh đang làm gì mà.”
“Em mong vậy.” Isabelle hối hả vượt qua trong mớ váy áo lượt là.
Căn hộ của Magnus ở đầu trên cùng cái cầu thang dài dằng dặc và lung lay như sắp rụng. simon hối hả bắt kịp Clary, người đang hối hận vì đã đặt tay lên lan can để đi lại cho vững. Trên đó dính dính một thứ tỏa sáng sắc xanh lá cây nhàn nhạt thật ghê người.
“Gớm,” Simon nói và giơ gấu áo phông cho cô lau tay. Cô chùi vào. “Mọi chuyện ổn không? Cậu có vẻ... xao lãng.”
“Trông ông ta quen lắm. Ý mình là Magnus ấy.”
“Cậu nghĩ ông ta học ở St.Xavier à?”
“Nghe buồn cười quá.” Cô lườm xéo cậu bạn.
“Cậu nói đúng. Ông ta quá già không thể là học sinh được. Mình nghĩ mình học cùng ông ta môn hóa vào năm ngoái.”
Clary cười lớn. Đột nhiên Isabelle đến bên họ, phả hơi thở xuống cổ cô. “Mình bỏ lỡ chuyện hay gì hả? Simon?”
Simon tỏ ra ngượng nghịu, nhưng không nói gì. Clary lầm bầm, “Cậu chẳng bỏ lỡ gì cả,” và đi tụt lại đằng sau. Đôi bốt gót nhọn rộng ngoác của Isabelle bắt đầu làm cô đau chân. Khi tới đầu cầu thang cô đã đi cà nhắc, nhưng cô quên ngay cơn đau khi bước qua cánh cửa nhà Magnus.
Căn gác xép rộng và gần như chẳng có chút đồ nội thất nào. Những ô cửa sổ kéo dài từ sàn nhà tới trần dính lớp bụi và sơn dày, chắn gần hết ánh đèn đường từ ngoài phố chiếu vào. Những cột sắt lớn quấn đầy những bóng đèn màu đỡ lấy mái nhà hình vòm dính đầy bồ hóng. Cửa nẻo bị giằng khỏi bản lề và nằm vắt ngang những cái thùng rác bằng kim loại móp méo tạo thành một quầy bar tự chế ở cuối phòng. Người phụ nữ da màu hoa cà mặc áo quây kim tuyến đang xếp loại đồ uống dọc quầy bar trong những ly thủy tinh cao cao màu tối đục, khiến cho thứ chất lỏng chứa trong ly sẫm màu đi: đỏ lè như máu, xanh bầm tím đen, xanh lét độc hại. Thậm chí nếu so với một tay pha chế rượu ở New York này thì người đàn bà kia thao tác hiệu quả nhanh nhẹn đến ngạc nhiên – có lẽ là vì bà ta có thêm hai cánh tay dài duyên dáng phối hợp với đôi tay thứ nhất. Clary nhớ tới bức tượng nữ thần Ấn Độ của chú Luke.
Đám người còn lại cũng kỳ dị không kém. Cậu con trai đẹp mã có mái tóc nửa đen ngòm nửa xanh lục ướt át cười với cô qua cái đĩa đựng món gì đó nom như cá sống. Răng cậu ta sắc nhọn và lởm chởm răng cưa, như răng cá mập. Bên cạnh cậu ta là cô gái có mái tóc vàng dài bẩn thỉu được bện thành bím và cài hoa trên đó. Dưới phần tà của chiếc váy ngắn màu xanh lá cây, hai bàn chân của cô ta có màng như chân ếch. Một nhóm thiếu nữ mang nước da quá trắng làm Clary thắc mắc liệu có phải họ trát quá nhiều phấn hóa trang hay không đang uống từng ngụm chất lỏng đỏ sậm quá sánh không thể nào là rượu được từ những chiếc cốc thủy tinh xẻ rãnh. Phần trung tâm căn phòng nêm cứng những kẻ đang nhảy nhót theo nhịp trống nện thình thình dội ra mấy bức tường, dù Clary không thấy ban nhạc ở đâu.
“Cô thích bữa tiệc không?”
Cô quay lại thấy Magnus đang dựa người lên một trong mấy cái cột. Mắt ông ta sáng lên trong bóng tối. Liếc nhìn quanh, cô thấy Jace và những người khác đã đi đâu mất, bị đám đông che lấp.
Cô cố cười. “Bữa tiệc này nhằm dịp gì vậy?”
“Sinh nhật con mèo của tôi.”
“À.” Cô liếc nhìn quanh. “Con mèo của ông đâu?”
Ông ta đứng thẳng dậy, có vẻ trang nghiêm. “Tôi không biết. Nó chạy mất rồi.”
Clary không phải trả lời câu này vì Jace và Alec xuất hiện trở lại. Alec mang vẻ ủ rũ như thường lệ. Jace đang đeo những chiếc vòng kết hoa sáng nhỏ xíu quanh cổ và có vẻ hài lòng. “Simon và Isabelle đâu?” Clary hỏi.
“Trên sàn nhảy rồi.” Anh chỉ. Cô chỉ thấy họ ở ven ngoài một khu vực chật ních những người. Simon đang làm những động tác thường làm trên sàn nhảy thay cho nhảy, đó là nhảy lên nhảy xuống trên đầu ngón chân, trông có vẻ không thoải mái. Isabelle lượn lờ quanh cậu, uốn éo như rắn, di ngón tay trên ngực cậu. Cô nàng đang nhìn cậu ta như thể định lôi cậu ta ra góc nào đó mà làm “chuyện ấy” vậy. Clary ôm tay lấy quanh người, những chiếc vòng kêu lanh canh. Nếu họ nhảy sát nhau hơn, không cần tìm góc nào mà làm “chuyện ấy” hết.
“Nghe này,” Jace nói và quay sang Magnus, “chúng tôi thực sự cần nói chuyện với...”
“MAGNUS BANE!” Một chất giọng trầm trầm oang oang phát ra từ một gã lùn xủn tới kỳ lạ trông có vẻ như ba mươi tuổi. Hắn ta cơ bắp nùi nụi, đầu cạo nhẵn thín cùng chòm râu dê nhọn hoắc. Gã chỉ ngón tay run rẩy về phía Magnus. “Có kẻ đã đổ nước thánh vào bình xăng của xe tôi. Nó hỏng rồi. Hỏng hoàn toàn. Tất cả các đường ống đều tan chảy cả rồi.”
“Tan chảy?” Magnus lầm bầm. “Thật kinh khủng.”
“Tôi muốn biết ai gây ra chuyện đó.” Người đàn ông nhe răng ra, phô những cái răng nanh dài nhọn hoắt. Clary hứng thú nhìn. Trông chúng hoàn toàn không giống những gì cô tưởng về răng nanh ma cà rồng cả: mấy cái răng này mảnh và sắc như kim khâu. “Tôi tưởng anh thề là tối nay không có người-sói nào mà, Bane.”
“Tôi không mời bất cứ Đứa Con của Mặt Trăng nào tới hết,” Magnus nói trong lúc ngắm nghía bộ móng tay lấp lánh. “Chính vì mối thù truyền kiếp ngu ngốc của các người. Nếu có ai định phá xe của anh, đó không phải khách của tôi, và vì thế...” Ông ta cười rạng rỡ. “Không phải trách nhiệm của tôi.”
Ma cà rồng gầm lên giận dữ, xỉa ngón tay vào Magnus. “Anh đang định nói với tôi rằng...”
Ngón tay trỏ phủ kim tuyến của Magnus chỉ nhích đi một tí teo, khẽ khàng tới mức Clary cứ tưởng ông ta không động đậy gì sất. Đang rống nửa chừng con ma cà rồng bỗng tắc nghẹn đưa tay bấu lấy cổ họng. Mồm hắn vẫn há ra, nhưng không phát ra bất cứ âm thanh nào.
“Anh không còn được chào đón tại đây nữa,” Magnus thờ ơ bảo, mở trừng mắt. Clary trông thấy, giật bắn mình vì ngạc nhiên, rằng đôi đồng tử mắt ông ta thẳng đứng như mắt mèo. “Giờ thì cút đi.” Ông ta vẫy vẫy mấy ngón tay và ma cà rồng xoay người một cách mau lẹ như có ai nắm lấy vai hắn mà xoay. Hắn rảo bước về phía đám đông, hướng thẳng ra cửa.
Jace huýt sáo nho nhỏ. “Quá ấn tượng.”
“Ý cậu là cái cơn thịnh nộ nho nhỏ ấy hả?” Magnus nhìn lên trần nhà. “Tôi biết.”
Alec phát ra âm thanh như bị nghẹn. Một lúc sau Clary mới nhận ra là anh ta đang cười. Anh ta nên cười nhiều hơn.
“Chúng tôi đổ nước thánh vào bình xăng, thế thôi,” anh ta nói.
“ALEC,” Jace nói. “Im ngay.”
“Tôi cũng đoán là vậy,” Magnus nói, có vẻ vui thú. “Mấy thằng khốn hằn học, nhỉ? Các cậu thừa biết những chiếc xe của họ chạy bằng năng lượng ác quỷ. Tôi không nghĩ hắn có thể sửa được rồi.”
“Ít đi một con đỉa đi trên chiếc xe đẹp,” Jace nói. “Điều đó làm trái tim tôi ứa máu.”
“Tôi nghe nói vài người trong số họ có thể làm xe bay được,” Alec chen vào, ít ra được một lần trông có vẻ sống động. Còn gần như là hơi mỉm cười nữa.
“Chỉ là câu chuyện nhảm của mấy lão pháp sư già ấy mà,” Magnus nói, đôi mắt mèo lấp lánh. “Vậy đó là lý do các cậu muốn phá buổi tiệc của tôi hả? Chỉ để phá xe của vài kẻ hút máu thôi ư?”
“Không.” Jace lại tập trung vào việc chính. “Chúng tôi cần nói chuyện với ông. Tốt hơn là ở một chỗ riêng tư.”
Magnus nhướn một bên lông mày. Chết tiệt, Clary nghĩ, lại thêm người nữa. “Tôi có rắc rối gì với Clave chăng?”
“Không,” Jace nói.
“Có lẽ là không,” Alec lên tiếng. “Ối!” anh lườm Jace, người vừa đá mạnh vào mắt cá chân anh ta.
“Không,” Jace lặp lại. “Chúng tôi có thể nói chuyện với ông thuận theo các điều kiện của Hiệp Định. Nếu ông giúp chúng tôi, bất cứ điều gì ông nói đều được giữ bí mật.”
“Còn nếu tôi không giúp?”
Jace dang rộng hai tay. Những hình xăm chữ rune đen tuyền nổi bật trong lòng bàn tay. “Có thể là chẳng sao cả. Có thể là một chuyến viếng thăm tới thành phố Câm Lặng.”
Giọng Magnus nghe như mật ong đổ lên băng lạnh. “Cậu đang cho tôi một lựa chọn thú vị đó, cậu Thợ Săn Bóng Tối nhỏ bé ạ.”
“Đó không phải lựa chọn gì hết,” Jace nói.
“Phải,” pháp sư nói. “Đó chính xác là điều tôi muốn nói.”
Phòng ngủ của Magnus là một cơn sắc màu cuồng loạn: những tấm ga giường và chăn màu vàng hoàng yến phủ trên tấm nệm đặt trên sàn nhà, chiếc bàn trang điểm màu xanh điện tử còn vương vãi nhiều lọ sơn móng tay và đồ trang điểm hơn của Isabelle. Những tấm rèm nhung bảy sắc cầu vồng che đi ô cửa sổ cao tới trần nhà, tấm thảm len rối nùi phủ trên sàn nhà.
“Phòng đẹp đấy,” Jace nói, kéo tấm rèm nặng nề sang bên. “Chắc hẳn một Đại Pháp sư khu Brooklyn được trả thù lao hậu hĩnh lắm nhỉ?”
“Cũng được,” Magnus nói. “Dù không mang thêm những món lợi đi kèm. Không trả cho khám răng.” Ông ta đóng cửa lại và dựa người lên đó. Khi Magnus khoanh tay, chiếc áo phông bị kéo lên, để lộ ra cái bụng màu vàng kim phẳng lì không hề có lỗ rốn. “Rồi đấy,” ông ta nói. “Có gì trong đầu óc nhỏ bé quỷ quyệt của mấy cô cậu vậy?”
“Thực ra không phải bọn họ đâu,” Clary nói trước khi Jace kịp trả lời. “Tôi mới là người muốn nói chuyện với ông.”
Magnus hướng đôi mắt không phải của con người sang cô. “Cô không phải là một trong số họ,” ông ta nói. “Không phải của hội Clave. Nhưng cô có thể nhìn thấy Thế Giới Vô Hình.”
“Mẹ tôi là một người thuộc hội Clave,” Clary nói. Đây là lần đầu tiên cô nói lớn điều đó và biết đó là sự thực. “Nhưng bà chưa bao giờ nói cho tôi cả. Bà giữ đấy làm bí mật. Tôi không biết vì sao.”
“Vậy hỏi mẹ cô đi.”
“Tôi không thể. Mẹ...” Clary lưỡng lự. “Mẹ đi mất rồi.”
“Thế còn bố cô?”
“Bố mất trước khi tôi chào đời.”
Magnus bực tức thở hắt ra. “Đúng như Oscar Wilde từng nói, ‘Mất đi bố hoặc mẹ có thể được xem là vận rủi. Mất hết cả hai dường như là bất cẩn mà thôi.’”
Clary nghe thấy Jace rít lên khe khẽ, như thể không khí bị hút vào qua kẽ răng. Cô nói. “Tôi không mất mẹ. Bà bị cướp khỏi tôi. Bởi Valentine.”
“Tôi không biết Valentine nào hết,” Magnus nói, nhưng ánh mắt hấp háy như ánh nến bị rung động, và Clary biết ông ta đang nói dối. “Tôi rất tiếc vì hoàn cảnh bi kịch của cô, nhưng tôi không hiểu vì sao tất cả chuyện này có liên quan gì tới tôi. Nếu cô có thể nói cho tôi...”
“Cô ấy không thể, vì không nhớ,” Jace đanh giọng. “Có người đã xóa đi ký ức của cô ấy rồi. Vì lý do đó chúng tôi đã tới Thành Phố Câm Lặng để xem các Tu Huynh có lôi gì ra khỏi đầu cô ấy được không. Họ lấy ra được hai từ. Tôi nghĩ ông cũng đoán ra chứ nhỉ.”
Một khoảng im lặng ngắn ngủi. Cuối cùng, khóe miệng Magnus cong lên. Nụ cười xem chừng có phần cay đắng. “Chữ ký của tôi,” ông ta nói. “Tôi biết tôi hơi ngớ ngẩn khi làm điều đó. Một hành động ngông cuồng...”
“Ông ký lên trí nhớ của tôi á?” Clary không tin nổi.
Magnus giơ tay, vẽ những con chữ dữ dội trong không khí. Khi ông ta hạ tay xuống, chúng lơ lửng tại chỗ, bốc lửa và vàng rực, khiến cho đôi mắt viền đen và đôi môi đánh son của ông ta sáng lên phản chiếu. MAGNUS BANE.
“Tôi tự hào vì việc tôi với cô,” ông ta chậm rãi nói và nhìn Clary. “Quá sạch sẽ. Quá hoàn hảo. Những gì cô nhìn thấy cô sẽ quên đi, kể cả ngay khi cô đang nhìn thấy nó. Không một hình ảnh về yêu tinh, quỷ lùn hay những quái vật chân dài nào có thể nán lại để gây khó dễ cho giấc ngủ khả tử không đáng trách của cô. Đấy là điều bà ta muốn.”
Giọng Clary thều thào vì căng thẳng. “Điều ai muốn vậy chứ?”
Magnus thở dài, và khi hơi thở ông ta chạm tới, những con chữ đang rực cháy tan đi thành tro bụi óng ánh. Cuối cùng ông ta lên tiếng – và dù cô không ngạc nhiên, dù cô biết chính xác ông ta sắp nói gì, cô vẫn thấy những lời ấy như một cú đánh vào tim mình.
“Mẹ cô,” anh ta nói.