HỘI CLAVE VÀ HIỆP ĐỊNH
“Anh nghĩ cô ta có khi nào tỉnh dậy không? Đã ba ngày rồi đấy.”
“Em phải cho cô ấy chút thơi gian chứ. Quỷ độc rất mạnh, trong khi cô ấy chỉ là người thường. Cô ấy không có các chữ rune giúp cô ấy mạnh như chúng ta.”
“Không phải người thường rất dễ chết sao?”
“Isabelle, em thừa biết nói về chết chóc trong phòng bệnh là xúi quẩy mà.”
Ba ngày, Clary mụ mị nghĩ. Tất cả suy nghĩ của cô đều trôi đi chậm chạp và đặc quánh như máu hay mật ong. Mình phải dậy.
Nhưng cô không thể.
Những giấc mơ níu kéo cô, giấc mơ này nói tiếp giấc mơ khác, một dòng sông hình ảnh cuốn mang cô đi như thể cô là một chiếc lá trôi giữa dòng. Cô thấy mẹ nằm trên giường bệnh, đôi mắt thâm quầng nổi bật trên nước da trắng. Cô thấy chú Luke, đứng trên những bộ xương chất thành đống. Jace với đôi cánh lông trắng mọc ra từ lưng, Isabelle ngồi đó trần truồng cùng chiếc roi quấn quanh mình như một lưới nhẫn vàng, Simon với những chữ thập đốt hằn vào lòng bàn tay. Những thiên thần, rơi xuống và bốc cháy. Rơi xuống khỏi bầu trời.
“Em đã bảo vẫn là một người mà.”
“Anh biết. Nhỏ bé quá, nhỉ? Jace bảo là cô ta đã giết một chết một con quỷ Ravener.”
“Phải. Lần đầu tiên gặp em còn tưởng cô gái này là yêu tinh. Nhưng lại không xinh bằng yêu tinh.”
“Ừ thì, chẳng ai xinh đẹp khi dính quỷ độc trong người cả. Bác Hodge sẽ cho gọi các Tu Huynh chứ?”
“Em mong là không. Họ làm em thấy ghê cả người. Bất cứ ai tự hành xác như họ...”
“Chúng ta cũng tự hành xác đó thôi.”
“Em biết mà, Alec, nhưng khi chúng ta làm vậy, đó không phải vĩnh viễn. Và không phải lúc nào cũng đau...”
“Nếu em đủ lớn. Mà nói về chuyện đó, Jace đâu rồi nhỉ? Jace cứu cô gái nhỏ, đúng không? Anh cứ tưởng cậu ta sẽ quan tâm đến sự hồi phục của cô này chứ.”
“Bác Hodge nói anh ấy không hề tới thăm từ khi mang cô này về đây. Em nghĩ anh ấy không quan tâm.”
“Đôi lúc anh tự hỏi liệu Jace có... Nhìn kìa! Cô ta cử động rồi!”
“Chắc vậy là rốt cuộc cô ta sống nổi rồi.” Một tiếng thở dài. “Em sẽ đi nói với bác Hodge.”
Mí mắt Clary có cảm giác như bị khâu chặt lại. Cô tưởng tượng mình có thể cảm nhận được da đang toạc ra khi cô từ từ mở mắt và chớp chớp lần đầu tiên trong ba ngày.
Cô thấy bầu trời trong xanh trên đầu, những đám mây trắng bồng bềnh và những thiên thần mũm mĩm trên cổ tay đeo ruy băng mạ vàng. Mình chết chưa vậy? Cô tự hỏi. Thiên đường thực sự trông như thế này sao? Cô nhắm chặt mắt và mở ra lần nữa: Lần này cô nhận ra mình đang nhìn lên một mái vòm gỗ, được vẽ theo phong cách Rococo với những đám mây và các tiểu thiên sứ.
Cô đau đớn cố ngồi dậy. Mỗi phần cơ thể cô đều đau nhức, đặc biệt là phần gáy, cô liếc nhìn quanh. Cô được đặt nằm trên chiếc giường trải ga vải lanh, một trong một dãy giường tương tự với đầu giường bằng kim loại. Giường cô có chiếc tủ đầu giường nho nhỏ đặt cạnh với bên trên là một chiếc cốc và bình nước. Những tấm rèm ren che kín những ô cửa sổ, chắn đi ánh sáng, dù cô vẫn nghe được những âm thanh văng vẳng, thường trực của dòng xe cộ đi lại trong thành phố New York từ bên ngoài.
“Thế cuối cùng cô cũng tỉnh dậy nhỉ,” một giọng nói khô khốc vang lên. “Bác Hodge sẽ rất vui. Bọn tôi đều nghĩ cô sẽ chết trong khi hôn mê mất thôi.”
Clary quay lại. Isabelle đang ngồi trên giường bên cạnh, suối tóc đen bện gọn gàng thành hai bím tóc dày thả xuống thắt lưng. Chiếc váy trắng đã được thay thế bằng chiếc quần bò và chiếc áo thun ôm sát cánh màu xanh, nhưng mặt dây chuyền đỏ vẫn nhấp nháy trên cổ. Những hình xăm xoắn ốc màu đen đã biến mất; chỉ trừ Ấn Ký Minh Mẫn màu đen trên mu bàn tay phải.
“Xin lỗi đã làm cô thất vọng vậy,” giọng Clary xô xảm như giấy nhám. “Đây là Học Viện sao?”
Isabelle đảo tròng mắt. “Có gì Jace không nói với cô không nhỉ?”
Clary ho. “Đây là Học Viện, đúng không?”
“Đúng. Cô đang ở trong bệnh xá, nhưng chắc cô cũng đoán ra rồi.”
Một cơn đau đột ngột nhói lên khiến Clary ôm chặt bụng. Cô thở dốc.
Isabelle hoảng hốt nhìn cô. “Cô ổn không đấy?”
Cơn đau đã dịu đi, nhưng Clary cảm nhận được dịch vị đang dâng lên trong cổ họng và một cơn váng vất là lạ. “Bụng tôi.”
“À, đúng rồi. Tôi suýt quên mất. Bác Hodge nói đưa cho cô cái này khi cô tỉnh dậy.” Isabelle vơ lấy cái bình sứ rồi rót thứ trong đấy vào chiếc cốc cùng bộ, sau đó đưa cho Clary. Cốc chứa đầy thứ chất lỏng trắng đục đang khẽ bốc khói. Có mùi thảo dược và thứ gì đấy khác, một thứ gì đấy đượm mùi và huyển hoặc. “Cô đã không ăn gì suốt ba ngày nay,” Isabelle nhận định. “Có thể vì thế mà cô mệt.”
Clary thận trọng nhấp một ngụm. Cũng khá ngon, đậm đà và dễ chịu, để lại dư vị như bơ. “Cái gì đây?”
Isabelle nhún vai. “Một trong những món thuốc nước của bác Hodge. Chúng luôn có tác dụng.” Cô nàng chuồi khỏi giường, lưng hơi cong như lưng mèo khi đặt chân xuống nền nhà. “Mà thôi, mình là Isabelle Lidghtwood. Mình sống ở đây.”
“Mình biết tên cậu. Mình là Clary. Clary Fray. Jace mang mình tới đây à?”
Isabelle gật đầu. “Chưa khi nào anh ấy dám. Cậu để lại vết máu và dịch vàng dây khắp thảm trải ở lối vào. Nếu anh ấy mang cậu về lúc bố mẹ mình có nhà, đảm bảo anh ấy sẽ bị cấm túc cho mà xem.” Cô nheo mắt nhìn Clary kỹ hơn. “Jace nói cậu đã tự mình giết chết con quỷ Ravener đó.”
Hình ảnh chớp nhoáng của thứ sinh vật giống bọ cạp với khuôn mặt kinh khủng xấu xí loáng qua óc Clary; cô rùng mình và nắm chặt cái cốc hơn. “Mình đoán là vậy,”
“Nhưng cậu là người thường mà.”
“Ngạc nhiên, đúng không?” Clary nói, thưởng thức vẻ mặt ngạc nhiên của Isabelle đang cố giấu mà không được. “Jace đâu rồi? Anh ấy có ở đây không?”
Isabelle nhún vai. “Ở đâu đó,” cô nàng nói. “Mình phải đi nói với mọi người là cậu đã tỉnh. Bác Hodge sẽ muốn nói chuyện với cậu.”
“Bác Hodge là gia sư của Jace, đúng không?”
“Bác Hodge là gia sư của tất cả bọn tớ.” Cô chỉ chỏ. “Phòng tắm ở đằng kia, và mình có treo ít quần áo cũ của mình trên mắc treo khăn nếu cậu muốn thay đồ.”
Clary uống thêm một ngụm nữa và thấy cốc đã trống không. Cô không còn cảm thấy đói hay choáng gì nữa, thật nhẹ cả người. Cô đặt cốc xuống và ôm chăn quanh mình. “Điều gì xảy ra cho quần áo của mình vậy?”
“Chúng dính toàn máu và nọc độc. Jace đốt hết rồi.”
“Thật sao?” Clary hỏi. “Nói cho mình nghe xem, anh ta luôn luôn thô lỗ như vậy, hay chỉ là với người thường mới thế?”
“Ồ, với ai anh ấy cũng thế,” Isabelle đáp tỉnh rụi. “Chính vì thế mới làm cho anh ấy quyến rũ vậy chứ. Vì thế, và vì anh ấy đã giết được nhiều quỷ hơn bất cứ ai bằng tuổi.”
Clary nhìn cô nàng mà bối rối. “Anh ta không phải anh trai cậu sao?”
Câu nói đó khiến Isabelle chú ý ngay. Cô ta cười lớn. “Jace? Anh trai mình? Không. Sao cậu nghĩ vậy?”
“Vì anh ấy sống ở đây cùng cậu,” Clary nhận định. “Không phải sao?”
Isabelle gật đầu. “Ừ, phải, nhưng...”
“Vì sao anh ấy không sống cùng bố mẹ ruột?”
Trong tích tắc Isabelle trông thoáng khó chịu. “Vì họ chết rồi.”
Miệng Clary há hốc vì ngạc nhiên. “Họ chết trong tai nạn à?”
“Không.” Isabelle bồn chồn, vén lọn tóc đen ra sau tai trái. “Mẹ anh ấy chết khi anh ấy vừa chào đời. Bố bị giết khi anh ấy lên mười. Jace chứng kiến tất cả.”
“Ôi,” Clary lí nhí nói. “Do... quỷ à?”
Isabelle đứng dậy. “Nghe này, mình nên đi báo cho mọi người biết là cậu đã dậy. Họ đã đợi cậu mở mắt suốt ba ngày nay rồi. À, trong phòng tắm có xà bông đấy,” cô nàng nói thêm. “Cậu nên tắm rửa qua qua đi. Người cậu bốc mùi rồi đấy.”
Clary trừng mắt nhìn cô nàng. “Cám ơn nhiều.”
“Không có chi.”
Quần áo Isabelle thật kỳ quặc. Clary phải xắn ống quần vài lần mới không dẫm phải, còn phần cỗ trễ nải trên chiếc áo sát cánh màu đỏ thì nhấn mạnh thêm sự thiếu hụt của Clary cái thứ mà hẳn Eric sẽ gọi là “điện đóm.”
Cô tắm rửa trong phòng tắm nhỏ, sử dụng miếng xà bông cứng ngắc mùi hoa oải hương. Phải lau khô người bằng chiếc khăn chùi tay màu trắng khiến cho mái tóc ướt nhẹp phải xổ tung thành từng nùi thơm ngằn ngặt quanh mặt. Cô nheo mắt nhìn mình trong gương. Trên má trái có một vết bầm khá rõ, còn đôi môi thì khô cong sưng vều.
Mình phải gọi cho chú Luke, cô nghĩ. Chắc chắn quanh đây phải có điện thoại. Có thể họ sẽ cho phép cô dùng sau khi nói chuyện với bác Hodge.
Cô tìm thấy đôi giày Skechers đặt gọn gàng dưới giường trong bệnh xá, chùm chìa khóa buộc chặt ở dây giày. Cô xỏ chân vào giày rồi hít một hơi sâu trước khi đi tìm Isabelle.
Hành lang bên ngoài bệnh xá chẳng có lấy một bóng người. Clary nhìn suốt hành lang, lòng hoang mang. Nơi đây trông giống kiểu hành lang cô thi thoảng thấy mình đang hớt hơ hớt hải chạy trong những cơn ác mộng, tối tăm và dài vô tận. Những bóng đèn thủy tinh hình hoa hồng treo cách khoảng trên tường, và không khí phảng phấtt mùi bụi và sáp nến.
Cô nghe loáng thoáng đâu đó một thứ âm thanh thật tinh tế, giống như tiếng các chuông gió lanh canh trong cơn giông. Cô chậm rãi đi xuống hành lang, lần tay dọc theo bức tường. Giấy dán tường phong cách Victoria giờ đã bạc màu theo thời gian, mang sắc màu đỏ tía và xám nhạt. Hai bên hành lang là hai dọc những cánh cửa đóng kín.
Âm thanh cô đang lần theo đấy càng lúc càng lớn. Giờ cô đã nhận ra âm thanh đó là tiếng đàn dương cầm được đánh lên bởi một người dù nghiệp dư nhưng có khiếu không thể chối cãi được, dù cô không thể nhận ra khúc nhạc này.
Quành qua góc tường, Clary bước tới cánh cửa đang mở rộng. Nhìn qua cô biết đó là phòng nhạc. Một chiếc dương cầm lớn đặt trong góc, những hàng ghế được xếp tựa vào bức tường đối diện. Một chiếc đàn hạc được phủ khăn đặt nơi giữa phòng.
Jace đang ngồi bên chiếc dương cầm, đôi bàn tay thon dài di chuyển nhanh nhẹn trên những phím đàn. Anh đi chân trần, mặc quần bò và áo phông xám, mái tóc nâu vàng có phần bù xù như thể anh vừa ngủ dậy. Quan sát những cử động nhanh gọn của bàn tay anh lướt trên phím đàn, Clary nhớ lại cái cảm giác khi được đôi bàn tay đó nâng lên, hai cánh tay đã giữ cô đứng vững và những vì sao bay xung quanh đầu cô như một cơn mưa kim tuyến bạc.
Chắc chắn cô đã gây ra tiếng động gì đó, vì anh quay mình trên ghế, chớp chớp mắt nhìn vào bóng tôi.”Alec à?” anh nói. “Cậu phải không?”
“Không phải Alec. Là tôi.” Cô bước thêm vài bước vào phòng. “Clary.”
Những phím đàn dương cầm kêu lên chói tai khi anh đứng dậy. “À, người đẹp ngủ trong rừng của chúng ta đây mà. Cuối cùng là ai đặt lên môi em nụ hôn để đánh thức em dậy vậy?”
“Chẳng ai cả. Tự tôi dậy thôi.”
“Có ai ở đó cùng em không?”
“Isabelle, nhưng cô ấy đi tìm ai đó – hình như tìm bác Hodge thì phải. Cô ấy bảo em đợi, nhưng...”
“Đáng ra anh nên bảo con bé trước là em không thích làm theo những gì được bảo.” Jace nheo mắt nhìn cô. “Quần áo Isabelle phải không? Em mặc trông buồn cười thật.”
“Đó là do anh đã đốt quần áo của tôi.”
“Chỉ là để đề phòng ấy mà.” Anh đóng nắp đàn màu đen bóng lại. “Nào, anh sẽ dẫn em đi gặp bác Hodge.”
Học Viện rất rộng với các lối đi quanh co tựa mê cung, không giống như được thiết kế vì cái sàn nhà phẳng mà có vẻ như nhờ tới sức nước bào mòn nhiều năm trời. Qua những cánh cửa khép hờ, Clary thoáng thấy vô số những căn phòng nhỏ giống hệt nhau, trong mỗi phòng đều bố trí một chiếc giường trải ra kẻ sọc, những chiếc tủ đầu giường, và một chiếc tủ gỗ lớn mở toang. Những mái vòm bằng đá trắng nhạt đỡ lấy trần nhà cao cao, một số trong đó có tạc khắc tinh vi những bức tượng nho nhỏ. cô nhận thấy một vài mô típ nhất định được lặp đi lặp lại: thiên thần và kiếm, mặt trời và hoa hồng.
“Sao nơi này có nhiều phòng ngủ vậy?” Clary hỏi. “Tôi tưởng đây la viện nghiên cứu chứ.”
“Đây là phía chái nhà ở. Bọn anh nguyện cung cấp nơi trú ẩn lẫn sự an toàn cho bất cứ Thợ Săn Bóng Tối nào cần đến. Bọn anh có thể chứa được đến hai trăm người.”
“Nhưng hầu hết những căn phòng này đều trống không.”
“Người ta đến rồi đi. Không ai ở lại đâu. Thường thì chỉ có bọn anh – Alec, Isabelle, Max, bố mẹ họ - cùng anh và bác Hodge.”
“Max?”
“Em đã gặp Isabelle mỹ miều rồi chứ gì? Alec là anh trai. Max là em út, nhưng giờ thằng nhỏ ra nước ngoài cùng bố mẹ rồi.”
“Đi nghỉ ạ?”
“Không hẳn.” Jace lưỡng lự. “Em có thể coi họ như... các đại sứ ngoại giao, và nơi đây kiểu kiểu như đại sứ quán. Giờ họ đang tại quê nhà của Thợ Săn Bóng Tối, đang giải quyết một số hiệp định hòa bình khá nhạy cảm. Họ đưa Max đi cùng vì thằng bé ấy còn quá nhỏ.”
“Quê nhà của Thợ Săn Bóng Tối?” Clary thấy đầu quay mòng mòng. “Tên nó là gì?”
“Idris.”
“Tôi chưa nghe thấy bao giờ.”
“Làm sao em nghe được.” Sự trịch thượng đáng ghét đã quay lại trong giọng nói của Jace. “Người thường không bao giờ biết. Có những hệ thống canh giữ - những lời chú bảo vệ - giăng khắp vùng biên giới. Nếu em cố đột nhập vào Idris, em sẽ chỉ thấy mình đột nhiên bị chuyển từ biên giới này sang biên giới khác. Em không bao giờ biết chuyện gì đã xảy ra.”
“Vậy là nó không có trên bản đồ?”
“Không có trên bản đồ của người thường. Với bọn anh thì em có thể coi nơi đấy là một quốc gia nhỏ nằm giữa Đức và Pháp.”
“Nhưng chẳng có gì giữa Đức và Pháp hết. Trừ Thụy Sĩ.”
“Chính xác,” Jace nói.
“Thế theo tôi hiểu là anh đã từng ở đó. Ý tôi là Idris ấy.”
“Anh lớn lên ở đó.” Giọng Jace vẫn đều đều, nhưng có gì trong cách nói năng khiến cô biết sẽ không có thêm câu hỏi nào đào sau vào hướng nay được chào đón nữa. “Hầu hết bọn anh đều vậy. Tất nhiên, còn có những Thợ Săn Bóng Tối từ khắp nơi trên thế giời. Bọn anh phải ở mọi nơi, vì quỷ dữ hoạt động ở mọi chỗ. Nhưng đối với những Thợ Săn Bóng Tối, Idris luôn là ‘quê hương.’”
“Giống như Mecca hay Jerusalem,” Clary trầm ngâm. “Vậy là hầu hết các anh đều lớn lên ở đó, và khi các anh trưởng thành...”
“Bọn anh sẽ được đưa tới những nơi cần bọn anh,” Jace nói ngắn gọn. “Và cũng có vài người khác, như Isabelle và Alec, lớn lên ở xa quê hương vì bố mẹ họ sống ở đó. Với tất cả những trang thiết bị của Học Viện, dưới sự dạy dỗ của bác Hodge...” Anh ngừng lời. “Đây là thư viện.”
Họ đã tới trước khung cửa gỗ hình vòm. Một con mèo Ba Tư màu xanh xám với cặp mắt vàng đang nằm cuộn tròn phía trước. Nó ngẩng đầu khi thấy họ tới và ngáp. “Này, Church,” Jace vừa nói vừa lấy bàn chân trần vuốt ve lưng con mèo. Con mèo lim dim thỏa mãn.
“Đợi đã,” Clary nói. “Alec, Isabelle và Max – họ là những Thợ Săn Bóng Tối bằng tuổi duy nhất anh biết và chơi cùng à?”
Jace dừng vuốt ve con mèo. “Đúng.”
“Thế thì cô đơn lắm nhỉ?”
“Anh có mọi thứ anh cần.” Anh đẩy mở cửa. Sau một thoáng lưỡng lự, cô đi theo vào trong.
Thư viện được thiết kế dạng hình tròn, với mái nhà thon vút cao, như thể nó nằm trong một ngọn tháp vậy. Những bức tường chất đầy sách vở, những giá sách cao chót vót đến mức phải có những chiếc thang trên bánh xe dựng trong những khoảng trống giữa các kệ. Ở đây cũng không có những cuốn sách thông thường – chỉ có những cuốn sách bìa da và nhung, với những ổ khóa có vẻ chắc chắn có bản lề bằng đồng hoặc bạc. Những gáy sách được gắn những viên đá quý óng ánh đã xỉn màu và được sơn thếp chữ vàng. Những cuốn sách trông sờn mòn theo kiểu chắc chắn chúng không chỉ cũ mà còn được sử dụng thường xuyên, từng được rất yêu chuộng.
Sàn nhà bằng gỗ sáng bóng, khảm những mảnh thủy tinh, đá hoa cương và ít ngọc bản quý. Phần đá khảm tạo thành một kiểu họa tiết Clary không thể giải mã – có thể là dải thiên hà, hoặc thậm chí là bản đồ thế giới; cô ngờ rằng mình phải trèo lên tháp và nhìn xuống mới nhìn cho ra được.
Ở chính giữa phòng là một cái bàn cỡ đại. Bàn được đẽo ra từ nguyên một phiến gỗ sồi đẹp mắt, nặng trịch, óng lên vẻ sáng bóng hơi mờ đi vì năm tháng. Phiến gỗ ngự trên lưng hai thiên thần, tạc từ cùng loại gỗ, đôi cánh mạ vàng, khuôn mặt hằn vẻ khắc khổ như thể sức nặng của phiến gỗ đã đè gãy lưng họ. Một người đàn ông gầy gò với mái tóc điểm bạc và cái mũi diều hâu dài sọc đang ngồi sau bàn.
“Một kẻ yêu sách,” ông ta nói và mỉm cười với Clary. “Thế mà cháu không nói cho bác nghe, Jace.”
Jace cười khùng khục. Clary biết anh đã đi đến đứng ngay sau cô mà nhét tay vào túi quần, cười cười cái nụ cười toe toét khiến người ta điên tiết. “Bọn cháu không nói chuyện nhiều trong quãng thời gian quen biết ngắn ngủi,” anh ta nói. “Cháu e rằng thói quen đọc sách của chúng cháu đã không được nhắn đến.”
Clary quay phắt lại mà lườm.
“Sao ông biết?” cô hỏi người đàn ông ngồi sau bàn. “Cháu đang nói tới chuyện cháu thích sách ấy.”
“Thì dựa vào gương mặt cháu khi cháu bước vào,” ông ta nói, đứng dậy bước vòng qua bàn. “Chẳng biết vì sao nhưng ta không cho là cháu bị ta làm cho ấn tượng đến như thế.”
Clary cố nén thở khi ông ta đứng dậy. Cô tự nhiên có cảm giác ông ta bị dị tật sao sao đấy, vai trái gồ lên cao hơn vai phải. Khi ông ta tới gần, cô thấy cái cục gồ lên đó hóa ra là một chú chim đang đậu chắc trên vai – một sinh vật mang bộ lông vũ mượt mà và cặp mắt đen sáng.
“Đây là Hugo,” người đàn ông nói và chạm vào con chim đậu trên vai. “Hugo là một con quạ, và vì vậy, nó biết nhiều thứ. Còn ta, Hodge Starkweather, một giáo sư lịch sử, và vì thế, ta không biết nhiều lắm.”
Clary khẽ bật cười, dù lòng không muốn, rồi nắm bắt bàn tay ông đang chìa ra. “Clary Fray.”
“Rất vinh hạnh được biết cháu,” ông Hodge bảo. “Ta rất vinh hạnh được quen biết bất cứ ai tay không giết được một con quỷ Ravener.”
“Chẳng phải bằng tay không đâu ạ,” Vẫn thật quái quái làm sao khi mà được khen ngợi vì đã giết thứ gì đó. “Đó là đồ của Jace... ừm, cháu không nhớ đồ đó gọi là gì nữa, nhưng mà...”
“Cô ấy đang nói tới cái máy Cảm Ứng của cháu đấy,” Jace nói. “Cô ấy đã tộng nó thẳng vào họng con quỷ. Chắc những chữ rune trên đó đã làm nó chết nghẹn. Cháu nghĩ cháu cần cái khác rồi,” anh nói thêm, như chỉ là bâng quơ. “Đáng ra cháu phải nói rồi chứ nhỉ.”
“Trong phòng vũ khí còn có cả mớ thừa ra đấy,” Hodge nói. Khi ông cười với Clary, hàng ngàn nếp nhăn be bé tỏa ra quanh mắt ông, giống như những vết rạn trên những bức tranh cũ. “Hành động nhanh trí đấy. Điều gì khiến cháu nảy ra ý tưởng dùng máy Cảm Ứng làm vũ khí vậy?”
Trước khi cô kịp trả lời, một tiếng cười sắc lạnh đã vang khắp phòng. Clary nãy giờ mê mẩn đống sách vở rồi thêm bị Hodge làm cho xao lãng nên không nhận ra Alec đang nằm ườn trên chiếc ghế tựa nhồi quá tay cạnh lò sưởi nguội lạnh. “Cháu không tin nổi là bác lại tin câu chuyện ấy đấy bác Hodge,” anh ta nói.
Lúc đầu Clary thậm chí còn chẳng biết anh ta nói gì. Cô đang mải nhìn. Giống như rất nhiều những đứa con một khác, cô rất hứng thú với sự giống nhau giữa các anh chị em ruột, và giờ, dưới ánh sáng ban ngày lồ lộ, cô có thể thấy Alec giống hệt cô em gái đến mức nào. Họ cùng có mái tóc đen tuyền, cũng đường chân mày mảnh hơi vểnh ở đuôi, cùng nước da trắng sáng như nhau. Nhưng nếu Isabelle cực kỳ kiêu ngạo, Alec lại ngồi chìm lỉm xuống ghế như thể hy vọng là không ai để ý tới mình. Lông mi anh ta dài và đen như của Isabelle, nhưng nếu màu mắt của Isabelle là màu đen, thì mắt anh ta lại mang màu xanh sậm của chai thủy tinh. Đôi mắt ấy đang chiếu vào cô với sự thù địch nguyên chất và đậm đặc như acid.
“Ta không rõ cậu muốn nói gì đấy Alec.” Hodge nhướn mày. Clary tự hỏi ông này bao nhiêu tuổi rồi; có một vẻ không tuổi gì đấy ở ông ta, dù mái tóc đã ngả muối tiêu. Ông mặc một bộ com lê gọn gàng bằng vải tuýt màu xám, là phẳng phiu. Hẳn ông ta sẽ trông giống một giáo sư đại học hiền hậu nếu không có vết sẹo dày cui dọc bên má phải. Cô tự hỏi sao ông ta lại có vết sẹo đó. “Vậy cậu đang nói rằng cô gái đây không hề giết chết con quỷ à?”
“Tất nhiên là không rồi. Nhìn cô ta mà xem – là người thường đấy Hodge ạ, mà là một cô nhóc nữa chứ. Không đời nào cô này hạ gục một con quỷ Ravener được.”
“Tôii không phải cô nhóc,” Clary xen vào. “Tôi mười sáu rồi... à, tròn mười sáu vào Chủ Nhật này.”
“Bằng tuổi Isabelle,” Hodge nói. “Thế cậu có gọi em cậu là một đứa nhóc không?”
“Isabelle tới từ một trong những đế chế Thợ Săn Bóng Tối hùng mạnh nhất trong lịch sử,” Alec cộc cằn. “Ngược lại, con nhỏ này, tới từ New Jersey đấy.”
“Tôi là dân Brooklyn!” Clary giận dữ. “Và thế thì sao nào? Tôi vừa giết một con quỷ ngay tại nhà mình, còn anh cay cú về chuyện này vì tôi không phải là thứ cậu ấm cô chiêu nhà giàu được nuông chiều quá đỗi như anh với em gái anh à?”
Alec trông thất kinh. “Cô gọi tôi là gì?”
Jace cười lớn. “Cô ấy nói đúng đấy, Alec,” Jace bảo. “Cậu thực sự phải coi chừng mấy con quỷ nhà quê tỉnh lẻ...”
“Không buồn cười đâu nhé, Jace,” Alec ngắt lời và bắt đầu đứng dậy. “Cậu định cứ mặc cho con nhỏ kia đứng đấy sỉ nhục tớ hả?”
“Đúng,” Jace nhẹ nhàng nói. “Như thế sẽ giúp cậu nhiều đấy – cứ coi như đây là một kiểu huấn luyện khả năng chịu đựng đi.”
“Có thể chúng ta là cặp parabatai,” Alec nói qua kẽ răng. “Nhưng cái kiểu xấc láo của cậu đang làm tớ hết kiên nhẫn rồi đấy.”
“Và tính ngoan cố của cậu cũng đang làm tớ hết kiên nhẫn. Khi tớ tìm thấy cô gái này, cô ta đang nằm trên sàn, giữa vũng máu cùng một con quỷ đang hấp hối đè lên trên. Tớ nhìn theo nó biến mất. Nếu không phải cô ta đã giết nó, thì ai làm đây?”
“Bọn quỷ Ravener ngu lắm. Có thể tự nó đốt vào cổ nó. Chuyện đó từng xảy ra rồi...”
“Giờ cậu đang ý nói là con quỷ đó tự sát à?”
Miệng Alec mím lại. “Cô gái này ở lại đây là không ổn. Người thường không được phép vào Học Viện, và có nhiều lý do chính đáng cho chuyện đó. Nếu bất cứ ai biết chuyện này, họ có thể báo cáo lên Clave.”
“Không hoàn toàn đúng,” Hodge nói. “Luật có cho phép chúng ta cung cấp nơi trú náu cho người thường trong một số hoàn cảnh nhất định nào đó. Một con quỷ Ravener đã tấn công mẹ Clary – Clary đã rất có thể là mục tiêu kế tiếp.”
Tấn công. Clary không biết đó có phải là cách nói giảm nói tránh cho từ “giết hại” không hay không. Con quạ trên vai bác Hodge rúc lên khe khẽ.
“Quỷ Ravener là những cổ máy tìm-và-diệt,” Alec nói. “Chúng hành động theo lệnh của pháp sư hay một chúa quỷ quyền năng nào đó. Thế thì, một pháp sư hay chúa quỷ có hứng thú gì với một hộ gia đình người thường cơ chứ?” Mắt anh ta khi nhìn Clary sáng lên vẻ căm ghét. “Có nghĩ ra gì không?”
Clary đáp, “Chắc nhầm lẫn gì thôi.”
“Bọn quỷ không nhầm lẫn kiểu đó. Nếu chúng tấn công mẹ cô, chắc hẳn phải có lý do. Nếu mẹ cô vô tội...”
“‘Vô tội’ là sao?” giọng Clary rất bình tĩnh.
Alec có vẻ giật mình. “Tôi...”
“Ý cậu ấy,” Hodge nói, “là cực kỳ không bình thường khi một con quỷ hùng mạnh, loại quỷ có thể điều khiển một đạo quân quỷ yếu kém hơn, lại để mắt tới chuyện của một con người bình thường. Không một người thường nào có thể an toàn triệu hồi được quỷ - họ thiếu quyền uy đó – nhưng đã từng có vài kẻ, tuyệt vọng và điên rồ, nhờ pháp sư làm hộ chúng chuyện này.”
“Mẹ cháu không quen bất kỳ một pháp sư nào. Bà không tin vào phép thuật.” Clary chợt nảy ra một ý. “Quý Bà Dorothea – bà ấy sống ở tầng dưới – là phù thủy. Có thể lũ quỷ định tấn công bà ấy nhưng nhầm sang mẹ cháu chăng?”
Hàng lông mày của bác Hodge nhướn tít lên gần chân tóc. “Một phù thủy sống ở dưới nhà cháu?”
“Bà ấy là giống như đa số phù thủy – hàng rởm thôi,” Jace nói. “Cháu đã kiểm tra rồi. Không có lý do gì mà bất cứ pháp sư nào lại để mắt tới bà ta trừ khi hắn ta đang cần mấy quả cầu pha lê vô dụng.” Anh quay sang Clary. “Pháp sư là những kẻ sinh ra đã có khả năng sử dụng phép thuật. Còn phù thủy là con người đã tự học mót đâu đó một chút phép thuật. Nhưng rất ít kẻ xưng danh phù thủy thực sự là phù thủy.”
“Và chúng ta quay lại điểm xuất phát.” Hodge với tay lên gãi gãi con chim đậu trên vai. “Có vẻ đã đến lúc chúng ta nên thông báo cho Clave.”
“Không!” Jace thốt lên. “Chúng ta không thể...”
“Khi chúng ta còn chưa rõ Clary có thể phục hồi được hay không thì việc giữ bí mật cho sự hiện diện của cô ấy tại đây còn có lý,” Hodge nói. “Nhưng giờ cô gái đây đã khỏe, và lại là người thường đầu tiên bước vào cánh cửa Học Viện trong hơn một trăm năm nay. Cháu hiểu những luật lệ về việc người thường biết đến sự tồn tại của Thợ Săn Bóng Tối mà Jace. Hội Clave phải được thông báo.”
“Chắc chắn rồi,” Alec đồng tình. “Cháu có thể gửi thư cho bố...”
“Cô ấy không phải người thường,” Jace bình tĩnh nói.
Lông mày Hodge lại nảy dựng lên chân tóc rồi ở nguyên tại chỗ. Alec, bị ngắt giữa câu, nghẹn lại vì ngạc nhiên. Trong sự im lặng đột ngột Clary có thể nghe thấy tiếng đôi cánh con quạ Hugo sột soạt. “Nhưng tôi là người thường mà,” cô nói.
“Không,” Jace bảo. “Không phải.” Anh quay sang bác Hodge, và Clary thấy yết hầu anh khẽ nhúc nhích khi anh nuốt xuống. Cô thoáng thấy căng thẳng này của anh lại có sức trấn an đến kỳ lạ. “Đêm đó – có những con quỷ Du’sien, trong trang phục cảnh sát. Chúng cháu phải vượt qua chúng. Clary quá yếu không thể chạy nổi, và không còn thời gian để trốn nữa – cô ấy sẽ chết mất. Vì thế cháu đã dùng thanh stele – vẽ chứ medelin lên bên trong cánh tay cô ấy. Cháu nghĩ...”
“Cháu điên sao?” Hodge đập mạnh tay xuống bàn khiến Clary tưởng tấm gỗ sẽ nứt mất. “Cháu biết Luật nói gì về việc vẽ Ấn Ký lên người thường cơ mà! Cháu... cháu phải biết rõ hơn ai chứ!”
“Nhưng nó có tác dụng,” Jace nói. “Clary, cho họ nhìn tay em đi.”
Ngơ ngác liếc về phía Jace, Clary giơ cánh tay trần của mình ra. Cô nhớ vào cái đêm trong hẻm ấy mình đã nhìn xuống tay, đầu nghĩ sao tay mình dường như lại mong manh đến thế. Giờ đây, ngay dưới lằn da cổ tay, cô có thể thấy ba vòng tròn mờ mờ chồng lên nhau, những đường nét đã mờ đi như ký ức về một vết sẹo đã phai đi theo năm tháng. “Đấy, gần như biến mất rồi,” Jace nói. “Không tổn hại gì tới cô ấy hết.”
“Đó không phải vấn đề,” Hodge gần như không kiểm soát được cơn giận. “Cháu đã có thể biến cô gái đây thành Kẻ Lầm Đường.”
Hai điểm màu hồng rực lên trên má Alec. “Không thể tin nổi cậu đấy, Jace. Chỉ Thợ Săn Bóng Tối mới có thể nhận được những Ấn Ký từ Sách Xám – chúng sẽ giết chết người thường...”
“Cô ấy không phải người thường. Nãy giờ cậu không nghe sao? Điều này giải thích vì sao cô ấy có thể thấy chúng ta. Hẳn trong người cô ấy phải có dòng máu Clave.”
Clary hạ tay xuống, đột nhiên thấy lạnh. “Nhưng tôi nào có. Không thể nào.”
“Em phải có,” Jace nói mà không nhìn tới cô. “Nếu không, Ấn Ký anh vẽ lên tay em...”
“Đủ rồi, Jace,” Hodge cắt ngang, sự khó chịu hiện rõ trong giọng nói. “Đừng dọa cô gái này thêm nữa.”
“Nhưng cháu đã đúng, phải không? Việc này cũng giải thích cho chuyện xảy ra với mẹ cô ấy. Nếu bà ấy là Thợ Săn Bóng Tối lưu vong, hẳn bà ta phải có vài kẻ thù từ Thế Giới Ngầm.”
“Mẹ tôi không phải là Thợ Săn Bóng Tối.”
“Vậy thì là bố em,” Jace nói. “Ông ấy thì sao?”
Clary trừng trừng nhìn lại Jace. “Bố tôi mất rồi. Trước khi tôi ra đời.”
Jace nao núng, nhưng chỉ thoáng qua. Alec mới là người lên tiếng. “Có thể đấy,” anh ta không được quả quyết lắm. “Nếu bố cô ta là Thợ Săn Bóng Tối, còn mẹ là người thường – à, chúng ta đều biết kết hôn với người thường là trái Luật. Có lẽ họ đang chạy trốn.”
“Nếu là vậy hẳn mẹ tôi đã nói cho tôi biết rồi,” Clary nói, dù cô lại nghĩ đến việc ít có hình của bố, về cách mẹ bảo cô chẳng bao giờ nhắc tới ông, và cô biết mình đang nói dối.
“Không nhất thiết đâu,” Jace nói. “Chúng ta ai cũng có bí mật.”
“Chú Luke,” Clary nói. “Bạn của mẹ tôi. Chú ấy phải biết.” Vừa nghĩ tới chú Luke thì cảm giác tội lỗi lẫn kinh hoàng ập đến. “Đã ba ngày rồi – hẳn chú lo lắm. Tôi gọi cho chú ấy được không? Ở đây có điện thoại không ạ?” Cô quay sang Jace. “Làm ơn đi mà.”
Jace hơi lưỡng lự, nhìn qua Hodge, ông gật đầu và dịch ra khỏi bàn. Sau lưng ông là một quả địa cầu, làm từ đồng tán, nhưng không giống bất cứ quả địa cầu nào cô từng thấy; hình dạng các quốc gia và châu lục có gì đó khang khác. Bên cạnh khối cầu là một chiếc điện thoại đen lỗi thời với bàn xoay số màu bạc. Clary đưa ống nghe lên tai, tiếng điện thoại đang kết nối quen thuộc tràn qua cô như một đợt sóng an ủi.
Luke nhấc điện thoại sau hồi chuông thứ ba. “A lô?”
“Chú Luke!” Clary phủ phục xuống bàn. “Cháu đây. Clary đây.”
“Clary.” Cô nghe ra sự nhẹ nhõm trong giọng nói chú, cùng với vẻ gì đấy mà cô không thể nhận ra. “Cháu ổn không?”
“Cháu ổn,” cô nói. “Cháu xin lỗi đã không gọi cho chú từ trước. Chú Luke, mẹ cháu...”
“Chú biết. Cảnh sát đã tới đây.”
“Vậy là chú đã không nghe gì từ mẹ cháu rồi.” Chút hy vọng mong manh rằng mẹ mình đã thoát khỏi nhà và trốn ở đâu đó giờ đã bay biến. Không đời nào mà mẹ không liên lạc với chú Luke cả. “Cảnh sát nói gì ạ?”
“Chỉ nói rằng mẹ cháu mất tích thôi.” Clary nghĩ tới nữ cảnh sát với cánh tay toàn xương và rùng mình. “Cháu ở đâu?”
“Cháu ở trong thành phố,” Clary đáp. “Cháu không biết chính xác là đâu. Với vài người bạn. Nhưng cháu mất ví rồi. Nếu chú có tiền, cháu sẽ đi taxi tới chỗ chú...”
“Đừng,” Luke đáp cụt lủn.
Điện thoại trượt khỏi bàn tay ướt nhẹp mồ hôi của cô. Cô chụp lại. “Sao ạ?”
“Đừng. Nguy hiểm lắm. Cháu không thể tới đây.”
“Chúng ta có thể gọi...”
“Nghe này.” Chú hơi gắt lên. “Mẹ cháu có vướng vào chuyện gì đi nữa cũng chẳng liên quan tới chú. Tốt nhất cháu cứ ở nguyên đó đi.”
“Nhưng cháu không muốn ở đây.” Cô nghe thấy vẻ van nài trong giọng mình, hệt như giọng một đứa trẻ. “Cháu không biết những người này. Chú...”
“Chú không phải bố cháu, Clary. Chú đã nói với cháu rồi.”
Mắt cô cay cay. “Cháu xin lỗi. Chỉ là...”
“Đừng có gọi cho chú cầu xin gì nữa hết,” Luke nói. “Chú có vấn đề của riêng mình rồi và chú không muốn dính dáng thêm chuyện của cháu nữa,” Luke bảo rồi ngắt điện thoại.
Cô đứng đó, nhìn chằm chằm ống nghe, tiếng bíp bíp ong ong trong tai như tiếng đập cánh của con ong bắp cày to tướng xấu xí. Cô quay số của chú Luke thêm lần nữa và đợi. Lần này cuộc gọi được chuyển tới hộp thư thoại. Cô dập ống nghe xuống, hai tay run run.
Jace đang dựa người lên tay ghế Alec đang ngồi mà quan sát. “Anh đoán là ông ta không vui vẻ gì khi nghe tin em chứ gì?”
Clary có cảm giác trái tim mình đã teo lại bằng quả óc chó: một cái hột cứng ngắc, bé xíu trong lồng ngực. Mình sẽ không khóc, cô tự nhủ, Không phải trước mặt những người này.
“Ta nghĩ ta muốn nói chuyện với Clary,” bác Hodge bảo. “Một mình,” bác cương quyết thêm vào, khi nhìn thấy vẻ mặt Jace.
Alec đứng dậy. “Được thôi. Bọn cháu giao cho bác đấy.”
“Thế chẳng công bằng gì cả,” Jace phản đối. “Cháu là người đã tìm thấy cô ấy. Là người cứu mạng cô ấy. Em muốn anh ở lại, đúng không?” anh quay sang Clary khẩn khoản.
Clary quay đi, vì cô biết chỉ cần mở miệng là mình sẽ bật khóc. Cô nghe tiếng cười của Alec như từ xa vọng lại.
“Không phải lúc nào mọi người cũng muốn có cậu đâu, Jace,” anh ta nói.
“Đừng lố bịch chứ,” cô nghe thấy Jace đang nói, giọng lộ rõ thất vọng. “Được rồi. Chúng cháu sẽ ở trong kho vũ khí.”
Cánh cửa dứt khoác đóng cạch sau lưng họ. Mắt Clary cay xè vì kiềm nước mắt quá lâu. Bác Hodge đang đứng lừng lững trước mặt cô, một khói xám mờ mờ. “Ngồi xuống nào,” bác bảo. “Đây, trên ghế kia kìa.”
Cô mừng rỡ thả mình xuống những chiếc gối mềm mại. Hai má cô ươn ướt. Cô đưa tay lên lau nước mắt và chớp chớp. “Thường thì cháu không mấy khi khóc,” cô nghe mình đang nói. “Không sao đâu bác. Một phút nữa cháu sẽ ổn rồi.”
“Hầu hết mọi người không khóc khi buồn bực hay sợ hãi, họ chỉ khóc khi thất vọng. Sự thất vọng của cháu cũng chẳng có gì khó hiểu. Cháu vừa kinh qua quãng thời gian khó khăn nhất rồi mà.”
“Khó khăn ạ?” Clary lấy ống tay áo Isabelle lau nước mắt. “Bác nói thế cũng đúng.”
Bác Hodge kéo ghế từ đằng sau bàn, lôi ra ngồi đối diện với cô. Clary thấy mắt ông màu xám, giống như màu tóc và màu áo vải tuýt, nhưng trong đó chứa chất ánh nhìn nhân hậu. “Bác mang cho cháu chút gì nhé?” ông hỏi. “Đồ uống được không? Trà vậy?”
“Cháu không muốn uống trà,” Clary cố gắng lắm mới nói lên lời. “Cháu muốn tìm mẹ cháu. Và sau đó cháu muốn tìm ra những kẻ đã bắt cóc mẹ cháu, và cháu muốn giết chết chúng.”
“Thật đáng tiếc là,” bác Hodge nói, “lúc này bọn ta đang hết sạch món báo thù đắng cay rồi, vậy nên cháu phải chọn trà hoặc không gì cả.”
Clary bỏ tay áo xuống – giờ loang lổ những vết nước ươn ướt – và nói, “Vậy cháu nên làm gì đây?”
“Cháu có thể bắt đầu bằng việc kể cho ta nghe chút đỉnh về chuyện đã xảy ra,” bác Hodge vừa bảo vừa lục lọi trong túi áo. Ông rút ra một chiếc khăn tay – được gấp vuông vắn – rồi đưa cho cô. Cô nhận lấy mà thầm kinh ngạc. Trước nay Clary chưa hề biết có ai lại mang theo khăn tay cả. “Con quỷ cháu thấy trong căn hộ nhà cháu – là thứ sinh vật đầu tiên như thế mà cháu từng thấy đấy à? Cháu không mảy may hay biết là những sinh vật như thế có tồn tại phải không?”
Clary lắc đầu, rồi ngừng lại. “Trước đó có một con, nhưng hồi đó cháu không nhận biết được nó là gì. Lần đầu tiên cháu trông thấy Jace...”
“À, đúng rồi, sao ta lẩn thẩn thế nhỉ.” Bác Hodge gật đầu. “Ở Xứ Quỷ. Đó là lần đầu tiên à?”
“Đúng ạ.”
“Và mẹ cháu chưa bao giờ nhắc tới chúng – hay có lẽ là không nhắc gì về một thế giới khác, cái thế giới mà hầu hết mọi người không nhìn thấy ấy? Mẹ cháu có đặc biệt hứng thú với truyện thần thoại, cổ tích, những truyền thuyết kỳ bí...”
“Không ạ. Mẹ cháu ghét những thứ đó. Bà thậm chí còn ghét cả phim Disney nữa. Mẹ không thích cháu đọc truyện manga. Bà bảo mấy thứ đó trẻ con quá.”
Bác Hodge gãi gãi đầu. Tóc ông không hề động đậy. “Kỳ lạ cực,” ông ta lầm bầm.
“Không hẳn ạ,” Clary nói. “Mẹ cháu không kỳ lạ. Mẹ cháu là người bình thường nhất trên thế giới này.”
“Những người bình thường nói chung sẽ không bị quỷ phá tan nhà,” bác Hodge nói, không phải với ác ý.
“Có thể có lầm lẫn gì không ạ?”
“Nếu mà là lầm,” bác Hodge đáp, “và nếu cháu là một cô gái bình thường, thì cháu đã không thể trông thấy con quỷ tấn công cháu – mà có nhìn thấy đi nữa, trí não cháu đã nhìn ra nó thành một thứ hoàn toàn khác: một con chó dữ, thậm chí là một người khác. Cái sự rằng cháu có thể nhìn thấy, rằng con quỷ đã với cháu...”
“Sao bác biết nó nói chuyện với cháu?”
“Jace báo cáo với bác là cháu có bảo ‘Nó nói.’”
“Nó rít.” Clary rùng mình khi nhớ lại. “Nó nói nó muốn ăn cháu, nhưng cháu nghĩ nó không được làm thế.”
“Quỷ Ravener thường chịu sự kiểm soát của con quỷ mạnh hơn. Tự thân thì bọn chúng không được thông minh hay có khả năng làm được gì,” bác Hodge giải thích. “Nó có nói chủ nhân của nó đang tìm cái gì không?”
Clary ngẫm nghĩ. “Nó nói gì đó về Valentine nào đấy, nhưng mà...”
Bác Hodge ngồi bật dậy, quá đột ngột đến nổi khiến cho con Hugo đang yên lành đậu trên vai ông ta phải phóng vụt lên trời mà kêu quang quác. “Valentine?”
“Vâng ạ,” Clary nói. “Cháu nghe thấy cũng cái tên đó từ cậu con trai trong quán Xứ Quỷ - à ý cháu là, từ con quỷ...”
“Đó là cái tên mà ai ai trong giới cũng đều biết,” bác Hodge nói ngắn gọn. Giọng ông thì bình tĩnh đấy, nhưng cô thấy tay ông ta hơi run. Hugo, đã xuống đậu lại trên vai ông, bồn chồn vỗ cánh.
“Một con quỷ ạ?”
“Không. Valentine là – từng là – Thợ Săn Bóng Tối.”
“Thợ Săn Bóng Tối? Sao lại nói từng là ạ?”
“Vì hắn ta đã chết,” bác Hodge nói mà giọng không biểu lộ cảm xúc. “Hắn đã chết mười lăm năm nay rồi.”
Clary ngồi xuống những tấm nệm ghế. Đầu cô giần giật. Có thể cô sẽ cần uống trà thật. “Có thể là người khác không ạ? Một người cùng tên ấy?”
Tràng cười của bác Hodge gằn lên không chút hài hước. “Không. Nhưng cũng có thể có người dùng tên hắn để gửi thông điệp.” Bác đứng dậy tới bên bàn, tay chắp sau lưng. “Và đây sẽ là lúc để làm thế.”
“Sao lại là lúc này?”
“Vì Hòa Ước.”
“Những đàm phán hòa bình phải không ạ? Jace đã nhắc tới chúng. Hòa bình với ai cơ?”
“Với Thế Giới Ngầm,” bác Hodge nói nhỏ. Ông nhìn xuống Clary. Miệng bác mím lại thành một đường chỉ. “Thứ lỗi cho ta,” ông nói. “Chuyện này có thể khiến cháu khó hiểu.”
“Vậy sao?”
Ông dựa người vào bàn, lơ đãng vuốt ve con Hugo. “Những giống nòi của Thế Giới Ngầm là những kẻ sống chung trong Thế giới Bóng Tối cùng chúng ta. Bọn ta lâu nay luôn phải sống trong mối hòa bình căng thẳng với chúng.”
“Giống như ma cà rồng, người sói, và...”
“Tiên Tộc,” bác Hodge nói. “Thần tiên. Còn những đứa con của Lilith, loài bán quỷ, là những pháp sư.”
“Thế còn Thợ Săn Bóng Tối bọn bác là gì?”
“Đôi lúc mọi người gọi chúng ta là Nephilim,” bác Hodge đáp. “Trong Kinh thánh, Nephilim là con của người và thiên thần. Truyền thuyết về nguồn gốc của Thợ Săn Bóng Tối kể rằng họ được sinh ra cách đây hơn một ngàn năm, khi con người bị lũ quỷ thuộc thế giới khác tàn sát. Thợ Săn Bóng Tối Jonathan, Nephilim đầu tiên, đã triệu gọi thiên thần Raziel, thiên thần đã hòa máu mình cùng máu một số người vào cốc, rồi cho những người đó uống. Những người uống máu Thiên Thần trở thành Thợ Săn Bóng Tối, cũng như con cháu của họ. Từ đó về sau chiếc cốc được biết đến như là Cốc Thánh. Mặc dầu truyền thuyết có thể không phải sự thực, giờ sự thật là bao năm qua, mỗi khi số lượng Thợ Săn Bóng Tối giảm sút, chúng ta từng luôn có thể sử dụng Cốc để tạo thêm nhiều Thợ Săn Bóng Tối hơn.”
“Từng là sao kia?”
“Cốc Thánh đã biến mất,” bác Hodge nói. “Bị Valentine tiêu hủy, ngay trước khi hắn chết. Hắn sử dụng lửa lớn để tự thiêu chết cùng gia đình, vợ và con. Vùng đất đó giờ đã trờ thành vùng đất chết. Tới giờ vẫn không ai dám xây nhà trên đó. Họ nói vùng đất đó bị nguyền rủa.”
“Thật không ạ?”
“Có thể. Hội đồng – là nhóm nòng cốt được dựng lên thông qua bầu cử của Clave, họ là những Thợ Săn Bóng Tối sẽ đưa ra những quyết định cuối cùng về vấn đề luật pháp và chính trị - đôi lúc sẽ ếm những lời nguyền như hình phạt cho những kẻ phạm luật. Valentine đã vi phạm điều Luật lớn nhất – hắn đã xây dựng đội quân chống lại những người anh em Thợ Săn Bóng Tối của hắn và giết hại họ. Hắn cùng bè lũ của hắn, hội Circle, đã giết chết hàng tá huynh đệ, cùng với hàng trăm người thuộc Thế Giới Ngầm trong Hòa Ước trước. Khó khăn lắm chúng ta mới đánh bại được họ.”
“Vì sao hắn ta lại phản bội những Thợ Săn Bóng Tối khác?”
“Hắn không đồng ý với Hiệp Định. Hắn thù ghét những giống nòi thuộc về Thế Giới Ngầm và cho rằng chúng phải bị tàn sát, tận diệt, để thế giới này được tinh khôi chỉ cho riêng con người. Dù những người thuộc Thế Giới Ngầm không phải quỷ dữ, không phải quân xâm lăng, nhưng hắn nghĩ về bản chất chúng là quỷ dữ và thế là đủ. Clave không đồng ý – họ cảm thấy sự trợ giúp từ Thế Giới Ngầm là cần thiết nếu chúng ta có khi nào phải đánh đuổi quỷ dữ cút khỏi thế giới này mãi mãi. Và thật tình thì, ai có thể tranh luận được rằng Tiên Tộc không thuộc về thế giới này, khi họ đã có mặt tại đây lâu hơn chúng ta?”
“Thế Hiệp Định có được ký kết không ạ?”
“Được chứ, đã ký rồi. Khi Thế Giới Ngầm nhận thấy hội đồng Clave quay lưng lại với Valentine và hội Circle, họ nhận ra rằng Thợ Săn Bóng Tối không phải kẻ thù của họ. Mỉa mai thay, chính sự nổi dậy của Valentine lại giúp Hiệp Định tiếp tục có hiệu lực.” Bác Hodge lại ngồi xuống ghế. “Ta xin lỗi, hẳn đây là một tiết học lịch sử nhàm chán với cháu. Valentine là vậy đấy. Một kẻ xách động, một tay mơ mộng hão huyền, một người có sức quyến rũ và khả năng thuyết phục đáng sợ. Và là một tên sát nhân. Và giờ ai đó đang viện đến tên hắn...”
“Nhưng là ai?” Clary hỏi. “Và mẹ cháu có liên quan gì chứ?”
Bác Hodge lại đứng dậy. “Ta không biết. Nhưng ta sẽ làm mọi điều để tìm hiểu cho rõ. Ta sẽ gửi thư cho hội đồng Clave và các Tu Huynh Câm. Có thể họ sẽ muốn nói chuyện với cháu.”
Clary không buồn hỏi các Tu Huynh Câm là ai. Cô đã quá mệt khi phải hỏi những câu hỏi mà câu trả lời còn làm cô rối trí hơn. Cô đứng dậy, “Cháu có thể về nhà được không ạ?”
Bác Hodge có vẻ lo lắng. “Không, ta... ta không cho đó là quyết định khôn ngoan đâu.”
“Ở đó có những thứ cháu cần, kể cả nếu cháu sống ở đây. Quần áo...”
“Chúng ta có thể đưa tiền cho cháu đi mua quần áo mới.”
“Làm ơn đi ạ,” Clary nói. “Cháu cần xem xem liệu... cháu phải biết ở đó còn lại gì.”
Bác Hodge lưỡng lự, rồi nhanh gọn hất đầu. “Nếu Jace đồng ý, cả hai cháu có thể đi.” Ông quay lại bàn, lục lọi đống giấy tờ. Ông liếc ra sau như thể nhận ra cô còn đứng đó. “Jace ở trong kho vũ khí ấy.”
“Cháu không biết chỗ đó là chỗ nào.”
Bác Hodge cười ranh mãnh. “Church sẽ đưa cháu đi.”
Clary liếc ra cửa, nơi con mèo Ba Tư xanh xám béo tròn đang nằm cuộn tròn như một chiếc ghế đệm nhỏ. Cu cậu đứng dậy khi cô tiến tới, lông bóng mượt dập dờn như nước. Với một tiếng meo hống hách, con mèo dẫn cô đi vào hành lang. Khi cô ngoái đầu, cô thấy bác Hodge đang hí hoáy gì đó lên một mảnh giấy. Chắc là thư gửi hội đồng Clave thần bí. Nghe có vẻ họ không phải những con người dễ mến gì cho cam. Cô tự hỏi không biết họ sẽ trả lời ra sau đây.
Mực đỏ trông như máu trên nền giấy trắng. Vừa nhíu mày, Hodge Starkweather vừa cuộn tờ giấy lại, một cách cẩn trọng và kỹ càng, thành cuộn hình ống và huýt sáo gọi Hugo. Con chim, kêu lên khe khẽ, đậu xuống cổ tay ông. Hodge nhăn mặt. Nhiều năm trước, trong cuộc Nổi Loạn, ông đã lãnh một vết thương trên vai, và thậm chí khi chịu một trọng lượng nhẹ như Hugo – hay khi chuyển mùa, thay đổi nhiệt độ hay độ ẩm, hoặc cánh tay đột ngột cử động – cũng làm sống dậy những cơn nhức nhối và những ký ức về nỗi đau đáng lẽ nên quên.
Thế nhưng, có những ký ức không bao giờ phai nhạt. Những hình ảnh chớp nhóa như ánh đèn nháy mỗi khi ông nhắm mắt. Máu me và xác chết, đất đai bị dày xéo, cái bục trắng vấy máu đỏ. Tiếng khóc la của người trong cơn hấp hối. Những cánh đồng xanh dập dờn trong gió và bầu trời xanh trải dài bất tận của Idris, bị những ngọn tháp của Thành Phố Pha Lê chọc thủng vươn thẳng lên trời. Nỗi đau về sự mất mát trào dâng trong lòng ông như đợt sóng; ông siết chặt nắm tay, và Hugo, cánh vẫy đập, giận dữ mổ những ngón tay ông, tóe máu. Hodge xòe tay ra, thả con chim, để nó xoay xoay đầu, bay thẳng lên giếng trời, rồi mất hút.
Lắc đầu xua đi dự cảm chẳng lành, Hodge lấy một tờ giấy khác, không để ý tới một giọt máu đỏ sẫm dây trên giấy khi ông khua bút.