Hodge thở dốc nhìn theo, tay nắm chặt lại rồi mở ra buông xuôi theo người. Tay trái lão đã đẫm thứ chất lỏng màu đen đặc ươn ướt chảy ra từ lồng ngực. Giờ trên gương mặt lão là sự trộn lẫn giữa hả hê và thù ghét chính bản thân lão.
“Hodge!” Clary đập tay vào bức tường vô hình giữa họ. Cơn đau chạy doc cánh tay, nhưng chẳng thấm vào đâu nếu đem so với cơn đau nhói trong ngực. Cô cảm thấy trái tim tự nó sắp sửa thoát ra khỏi lồng ngực. Jace, Jace, Jace – tên anh cứ vang lên trong đầu óc cô, chỉ chờ để bật lên thành tiếng hét. Cô kìm lại. “Hodge, thả tôi ra.”
Hodge quay lại, lắc đầu. ‘Ta không thể,” lão nói và dùng chiếc khăn tay gấp gọn sạch sẽ lau những ngón tay dính máu. Lão như như thực sự hối hận. “Cháu sẽ giết ta mất.”
“Không đâu,’ cô nói. “Cháu thề.’
“Nhưng cháu không được nuôi dạy như một Thợ Săn Bóng Tối,” lão nói, “và những lời hứa của cháu chẳng có ý nghĩa gì.” Giờ rìa khăn tay lão đang bốc khỏi, như thể lão vừa nhúng nó vào axit, còn tay lão chẳng bớt đen đi. Lão nhíu mày, từ bỏ công việc.
“Nhưng bác Hoge, “ cô tuyệt vọng nói, “ông không nghe hắn nói sao? Hắn sẽ giết Jace.”
“Hắn không nói vậy.” Hodge giờ đã tới bàn, kéo ngăn kéo và rút ra một tập giấy. Lão lấy bút từ túi ngực, gõ gõ vào cạnh bàn để mực chảy ra. Clary nhìn trừng trừng. lão đang viết thư ư?”
“Bác Hodge,” cô cẩn trọng nói. “Valentine nói Jace sẽ sớm về với bố. Bố của Jace đã chết. Vậy hắn có ám chỉ điều gì khác nữa đây?”
Hodge cứ cắm cúi viết mà không buồn ngước lên. “Chuyện phức tạp lắm. Cháu không muốn hiểu đâu.”
“Cháu hiểu đủ rồi.” Cô cảm thấy vị đắng bỏng rát nơi đầu lưỡi. “Cháu hiểu rằng Jace tin ông và ông đã bán đứng ông ấy cho một người ghét bố anh ấy và có lẽ ghét cả Jace nữa, chỉ vì ông quá hèn nhát không thể sống cùng lời nguyền ông đáng phải chịu.”
Hodge ngay lập tức ngẩng đầu . “Cháu nghĩ như vậy ư?”
“Đó là điều tôi biết.”
Lão đặt bút xuống, lắc đầu. Lão có vẻ mệt mỏi và quá già nua, già hơn nhiều so với Valentien, dù họ bằng tuổi. “Cháu chỉ biết những mảnh ghép nhỏ mà không biết cả một bức tranh lớn. Mà có thể có lẽ tốt hơn.” Lão gấp tờ giấy đã viết nãy giờ thành vuông vức và ném và lò sưởi, lò sưởi bùng lên ánh sáng xanh lá cây rực rỡ trước khi lụi tàn.
“Ông đang làm gì đấy?” Clary hỏi.
“Gửi thư.’ Bác Hodge quay đi khỏi lò sưởi. Giờ lão đang đứng gần cô, chỉ bị ngăn cách bởi bức tường vô hình. Cô áp những ngón tay lên đó, ước có thể chọc mù mắt lão – dù dôi mắt đó u buồn như đôi mắt Valentine ánh lên tin nhìn giận dữ. “Cháu còn trẻ,” lão nói. “Quá khứ chẳng liên quan gì với cháu, chẳng dính dáng gì như một đất nước lạ đối với người già, hay một cơn ác mộng với kẻ có tôi. Hội Clave nguyền rủa ta vì ta đã giúp sức cho Valentien. Nhưng ta không phải thành viên duy nhất của Circle phục vụ hắn – chẳng nhẽ vợ chồng Lightwood không mang tội như ta sao? Nhà Wayland cũng không à? Ấy vậy mà chỉ có ta là người duy nhất bị nguyền rủa phải sống một cuộc đời không được thò tay ra ngoài cửa sổ, chứ đừng nói là đặt chân ra ngoài.”
“Đây không phải lỗi của tôi,” Clary nói. “Cũng chẳng phải lỗi của Jace. Vì sao phải trừng phạt anh ấy vì điều hội Clave đã làm? Tôi có thể hiểu về việc ông giao chiếc cốc cho Valentien, nhưng còn Jace? Hắn ta sẽ giết Jace, cũng giống như hắn đã giết bố Jace…”
“Valentien,” Hodge nói, “không giết chết bố Jace.”
Một tiếng nấc bật ra khỏi lòng ngực Clary. “Tôi không tin ông! Ông toàn nói dối mà thôi! Mọi thứ ông từng nói đều là dối trá hết!”
“À,” lão nói, “thuyết tuyệt đối ngốc nghếch của tuổi trẻ, không cho phép nhượng bộ. Cháu không nhận ra sao Clary, rằng đây là cách của riêng bác để trở thành một người tốt?”
Cô lắc đầu. “Mọi chuyện đâu theo chiều hướng đó đâu. Những điều tốt ông làm không thể xóa nhòa đi những tội lỗi ông từng phạm phải. Nhưng…” cô cắn môi. “Nếu ông nói cho tôi biết Valentien ở đâu…”
“Không.” lão thốt lên. “Truyền thuyết kể rằng Nephlim là con của loài người và thiên thần. Tất cả tài sản kế thừa từ thiên thần truyền lại cho chúng ta là một khoảng cách sa ngã xa hơn mà thôi.” Lão chạm lên bề mặt bức tường vô hình bằng đầu ngón tay. “Cháu không được nuôi dạy như một người trong bọn ta. Cháu không cần mang những vết sẹo và sống trong cảnh giết chóc. Cháu vẫn có thể thoát ra. Clary à, hãy rời Học Viện đi ngay khi cháu có thể. Đi đi, và đừng bao giờ trở lại.”
Cô lắc đầu. “Không thể,” cô nói. “Tôi không thể đi.”
“Vậy ta đành chia buồn cùng cháu,” lão nói và rời khỏi phòng.
Cánh cửa đóng lại sau lưng Hodge, bỏ Clary lại trong thinh lặng. Chỉ có hơi thở khò khẻ của cô và những đầu ngón tay cô điên cuồng cào lên rào chắn trong suốt không nhân nhượng chắn giữa cô và cánh cửa. Cô làm chính xác điều bản thân tự nhủ không được làm: cô lao vào bức tường đó hết lần này tới lần khác, tới khi kiệt sức và nửa người đâu ế ẩm. Rồi cô ngồi xuống sàn, cố không khóc.
Ở đâu đó bên ngoài rào chắn này Alec đang hấp hối, trong khi Isabelle đợi Hodge trở lại cứu anh. Ở nơi nào đó bên ngoài căn phòng này Jace đang bị Valentine thô bạo đánh thức. Ở nơi nào đó cơ hội sống sót của mẹ cô đang dần tan biến theo từng khoảnh khắc. Vậy mà cô lại bị mắc kẹt ở đây, vô dụng và tuyệt vọng như một đứa trẻ.
Rồi cô ngồi bật dậy, nhớ lại lúc ở nhà Quý Bà DorotheA, Jace đá nhét thanh stele vào tay cô. Cô đã trả lại cho anh chưa nhỉ? Nín thở, cô lần tay vào túi trái; không có gì. Từ từ cô cho tay vào túi phải, những ngón tay mướt mồ hôi vướng phải những sợi chỉ thừa và rồi chạm phải một vật cứng, thân trơn mượt và tròn lẳn – thanh stele.
Cô đứng bật dậy, trái tim đập thình thịch, và cảm nhận bức tường vô hình bằng bàn tay trái. Tìm được rồi, cô gồng người, dùng tay kia nhích sang thanh stele từng chút cho đến khi đầu mũi chạm vào bức tường không khí trơn đều, nhẵn thín. Một hình ảnh đã hiện ra trong đầu cô, giống như con cá nhoi lên từ vùng nước đục ngầu, một họa tiết hình vảy càng lúc càng rõ khi con cá tới gần mặt nước. Lúc đầu từ từ, sau đó tự tin hơn, cô dùng thanh stele vẽ lên tường, để lại những nét vẽ màu trắng xám cháy rực nhảy múa trước mặt.
Cô cảm nhận khi chữ rune viết xong và hạ tay mà thở dốc. Trong một thoáng, mọi thứ chìm vào yên tĩnh và bất động, còn chữ rune treo lơ lửng ở đó như một ngọn đèn huỳnh quang đang tỏa sáng chói tới đau mắt. Rồi một âm thanh như tiếng vỡ vụn lớn nhất mà cô từng nghe thấy vang lên, như thể cô đang đứng dưới một dòng thác đá cuội mà lắng nghe chúng đổ xuống mặt đất chung quanh. Chữ rune cô vẽ chuyển thành màu đen và bay đi như tro tàn; nền nhà rung lên dưới gót chân; rồi mọi chuyện chấm dứt, và cô biết, không hề nghi ngờ một chút nào, rằng mình đã được tự do.
Vẫn cầm thanh stele, cô chạy vội tới bên cửa sổ và kéo rèm sang bên. Nắng chiều chạng vạng đã nhạt màu và những con phố bên dưới tắm mình trong vầng dương màu huyết dụ. Cô nhìn rất rõ Hodge đi sang đường, mái đầu xám cao vượt trội khỏi đám đông.
Cô lao khỏi thư viện và xuống lầu, chi dừng lại để nhét thanh stele vào túi áo khoác. Cô chạy trên cầu thang và lao ra đường nhanh tới đau xốc cành hông. Những người đang dẫn chó đi dạo trong buổi trời chiều ảm ướt nhảy sang một bên khi cô chạy vội vã trên đường dành cho người đi bộ dọc theo dòng sông Đông. Cô thấy hình mình in trên ô cửa sổ tối đen của một căn chung cư khi quặt ở góc đường. Mái tóc ướt nhẹp mồ hôi dính bết lên trán còn mặt cô dính đầy máu khô.
Cô đã tới ngã tư cô vừa tìm thấy Hodge. Trong một thoáng cô nghĩ mình đã mất dấu lão. Cô lao qua đám đông gần lối vào ga tàu, đẩy mọi người, dùng đầu gối và khuỷu tay như vũ khí. Đẫm mồ hôi và bầm tím, Clary thoát khỏi đám đông đúng lúc thoáng thấy bộ véc vải tuýt biến mất ở góc rẽ vào một hẻm nhỏ hẹp giữa hai tòa nhà.
Cô lách qua một thùng rác và bước vào con hẻm. Cổ hng cô cảm giác như đang phải bỏng sau mỗi lần hít thở. Dù ánh trời chiều mới vể trên những con phố, nhưng trong hẻm tối om như tầm nửa đêm. Cô có thể thấy Hodge đứng ở đầu kia hẻm, nơi cuối hẻm dẫn ra cửa sau của một nhà hàng bán đồ ăn nhanh. Rác rưới của nhà hàng vứt đầy bên ngoài: từng chồng túi đựng thực phẩm, những chiếc đĩa giấy bẩn thỉu và dao dĩa nhựa phát ra những tiếng lạo xạo khó chịu dưới gót giày khi lão quay lại nhìn cô. Cô nhớ lại bài thơ đã đọc trong lớp Tiếng Anh: Tôi nghĩ chúng ta đã bước vào hẻm chuột/ nơi xác người đã mục tới tận xương.
“Cháu đi theo ta,” lão nói. “Lẽ ra cháu không nên đi theo.”
“Tôi sẽ để ông yên nếu như ông cho tôi biết Valentine ở đâu.”
“Ta không thể,” lão nói. “Hắn sẽ biết là ta nói và sự tự do của ta sẽ ngắn ngủi hệt như cuộc đời của ta vậy.”
“Đằng nào cũng vậy thôi khi Clave biết rằng ông đã dâng chiếc Cốc Thánh cho Valentine,” Clary chỉ ra. “Sau khi lừa chúng tôi tìm nó giúp ông. Sao ông có thể sống với lương tâm mình trong khi biết hắn định làm gì với nó chứ?”
Lão ngắt lời cô bằng tiếng cười cộc lốc. “Ta sợ Valentine hơn hội Clave và cháu cũng sẽ vậy nếu cháu khôn ngoan ra,” lão nói. “Kiểu gì hắn cũng tìm ra chiếc Cốc, dù ta có giúp hay không.”
“Và ông không quan tâm rằng hắn sẽ dùng nó để giết trẻ em à?”
Cơn co giật hiện lên trên gương mặt lao khi lão tiến thêm một bước; cô thấy gì đó lóe sáng trên tay lão. “Chẳng nhẽ chuyện đó quan trọng với cháu thế sao?”
“Tôi đã nói với ông rồi,” cô nói. “Tôi không thể bỏ đi được.”
“Quá tệ,” lão nói và cô thấy lão giơ tay – và đột nhiên nhớ ra Jace có bảo rằng vũ khí của Hodge từng là chakhram, một loại đĩa bay. Cô cúi xuống ngay khi thấy vật hình tròn bằng kim loại sáng loáng xoay tròn lao vun vút tới; nó sượt qua, kêu rin rít, chỉ cách mặt cô vài inch và cắm phập vào lối thoát hiểm bằng kim loại ở bên trái.
Cô ngước mắt nhìn. Hodge đang nhìn cô, chiếc đĩa kim loại thứ hai đa nắm hờ trong tay phải. “Cháu vẫn có thể chạy,” lão nói.
Theo bản năng cô giơ tay, dù lý trí nói với cô rằng chakhram sẽ chẻ tay cô ra làm nhiều mảnh. “Hodge…”
Có gì đó ào ra trước mặt cô, một thứ lớn, màu xám đen, và còn sống. Cô nghe Hodge sợ hét lên. Vội vã lùi lại, Clary thấy thứ đó rõ hơn khi nó di chuyển giữa cô và Hodge. Một con sói dài khoảng sáu foot, lông đen tuyền với độc một sọc xám.
Hodge, nắm chặt chiếc đĩa sắt trên tay, trắng bệch như một khúc xương. “Cậu,” lão thở hổn hển, Clary nhận ra lão đang nói chuyện với con sói với chút kinh ngạc.” “Tôi tưởng cậu đã bỏ trốn…”
Con sói nhe răng, và cô thấy cái lưỡi đỏ thè ra ngoài của nó. Trong mắt nó chứa chất sự thù hận khi nhìn Hodge, một sự thù hận thuần túy và rất người.
“Cậu tới đây vì tôi hay vì cô bé kia?” Hodge nói. Mồ hôi chảy xuống từ thái dường, nhưng tay lão vẫn vững vàng.
Con sói tiến về phía lão, khẽ gầm gừ trong họng.
“Vẫn còn kịp đó,” Hodge nói. “Valentine sẽ chào đón cậu…”
Với một tiếng tru, con sói lao lên. Hodge lại hét, rồi một ánh bạc lóe lên kèm theo tiếng động nghe ghê tai khi chakhram cắm vào thân sói. Con sói lùi lại đứng trên chân sau và Clary nhận thấy vành đĩa thòi ra khỏi lớp lông sói, máu đang ứa ra, ngay lúc nó bổ sầm vào Hodge.
Hodge chỉ kịp hét lên một tiếng trước khi ngã xuống và hàm sói cắm phập vào vai lão. Máu bắn lên không trung như những vảy sơn bắn ra khỏi một thùng sơn bị vỡ, lốm đốm lên những bức tường xi măng. Con sói ngẩng đầu khỏi cái xác mềm oặt của lão gia sư và quay nhìn cô bằng đôi mắt màu xám, trong lúc máu vẫn nhiễu ra từ hàm răng.
Cô không hét. Trong phổi cô chẳng còn chút không khí nào để mà hét nữa; cô vội đứng dậy và chạy. chạy ra khỏi miệng hẻm và về phía ánh đèn đường quen thuộc, chạy để tìm kiếm sự an ổn từ thế giới thật. Cô nghe tiếng con sói tru sau lưng, cảm thấy hơi thở nóng của nó phả vào sau bắp đùi. Cô chạy hết tốc lực, lao về con đường…
Hàm sói cắn lấy chân cô, kéo cô trở lại. Chỉ trước khi đầu cô đập xuống vỉa hè cứng, nhấn chìm cô vào bóng tối, cô mới phát hiện ra rốt cuộc rằng mình vẫn còn đủ không khỉ để hét.
Tiếng nước tí tách nhỏ giọt đánh thức cô dậy. Từ từ, Clary hấp háy mở mắt. Chẳng có gì nhiều nhặn để mà nhìn. Cô nằm trên cái phản lớn đặt trên sàn một căn phòng nhỏ tường cáu bẩn. Có một chiếc bàn lung lay như răng ông lão xếp gọn ở một bên tường, trên bàn là giá nến bằng đồng trông có vẻ rẻ tiền có cắm cây nến đỏ lớn tỏa nguồn sáng duy nhất trong phòng, sự ẩm ướt thấm xuống qua những kẽ đá nứt. Clary lờ mờ nhận ra có gì đó thiêu thiếu trong căn phòng này, nhưng nỗi bận tâm này bị lấn át bởi mùi chó ướt nồng nặc.
Cô ngồi dậy và ngay lập tức ước mình không làm vậy, cơn đau bóng giẫy chạy trong đầu cô như một mũi giáo, nối tiếp là cảm giác buồn nôn. Nếu có gì đó trong dạ dày, hẳn cô đã nôn ra bằng hết.
Một chiếc gương treo ngay trên tấm phản, lủng lẳng trên chiếc đinh đóng giữa hai phiến đá. Cô nhìn vào gương mà tái cả mặt. Chả trách sao mà mặt cô đau – những vết xước chạy song song từ khóe mắt phải tới khóe miệng. Má phải cô dính đầy máu khô, và máu dính trên cổ và chảy đầy xuống trước áo sơ mi và áo khoác. Trong cơn hoảng loạn đột ngột cô chộp lấy túi rồi thấy thư giãn hơn. Thanh stele vẫn còn.
Tới lúc dó cô đã nhận ra điều kỳ lạ về căn phòng này. Một bức tường là những song sắt: nhưng chấn song to bự dài kéo từ sàn nhà lên tới trần. Cô đang trong một xà lim.
Lượng adrenaline tăng cao vùn vụt, Clary loạng choạng đứng dậy. Một luồng sóng choáng váng tràn qua cô, làm cô phải nắm lấy bàn tay để đứng vững. Mình không thể ngất được, cô ủ ê tự nhủ. Rồi cô nghe có tiếng bước chân.
Có ai đó đang đi đến qua hành lang ngoài nhà giam. Clary dựa lưng vào bàn.
Là một người đàn ông. Gã cầm cây đèn, ánh sáng đó sáng hơn ánh nến, và vì thế cô phải chớp mắt còn cô chỉ nhìn thấy gã là một cái bóng ngược sáng. Cô nhận thấy thân hình dong dỏng, đôi vai ngang và mái tóc bờm xờm; chỉ khi gã mở cử xà lim và bước vào, cô mới nhận ra người đó.
Gẫ vẫn vậy: quần bò đã sờn, áo sơ mi denim, đôi ủng làm việc, vẫn mái tóc không đều, vẫn cặp kính trễ xuống sống mũi. Những vết sẹo cô nhận thấy trên cổ họng gã lần cuối cô gặp giờ đã lành lặn thành từng mảng da bóng loáng.
Chú Luke.
Mọi chuyện thật quá sức chịu đựng của Clary. Kiệt sức, thiếu ngủ và đói, kinh hoàng và mất máu, tất cả những điều tệ hại đó đồng loạt ùa về với cô. Cô cảm thấy đàu gối nhũn ra mà ngã đổ nhào về phía trước.
Chỉ trong vài giây chú Luke đã sải bước qua phòng. Chú di chuyển quá nhanh, cô không kịp chạm đất thì chú đã đỡ được cô, ôm cô lên như ngày cô còn bé. Chú đặt cô xuống phản và lùi lại, ánh mắt lo lắng chăm chú nhìn Clary. “Clary?” chú nói và đưa tay tới. “Cháu ổn không?”
Cô tránh, giơ tay lên để gạt tay chú. “Đừng chạm vào cháu.”
Vẻ tổn thương sâu sắc thoáng qua mặt chú. Chú mệt mỏi quệt tay lên trán. “Chú nghĩ mình xứng đáng phải chịu điều này.”
“Vâng. Chú đáng lắm.”
Cái nhìn trên mặt chú trông lo âu. “Chú không mong cháu tin chú…”
“Tốt. Vì cháu không tin đâu.”
“Clary…” Chú bắt đầu đi lại dọc theo chiều dài xà lim. “Điều chú đã làm… chú không mong cháu hiểu. Chú biết cháu có cảm giác bị bỏ rơi…”
“Chú đã bỏ rơi cháu,” cô nói. “Chú bảo cháu đừng gọi cho chú nữa. chú chẳng quan tâm gì tới cháu. Chú không quan tâm gì tới mẹ chau. Chú nói dối về mọi chuyện.”
“Không,” chú nói, “không phải mọi chuyện đâu.”
“Vậy tên thật của chú là Luke Garroway?”
Chú buông xuông vai vẻ chịu đựng. “Không,” chú nói rồi cúi đầu nhìn xuống đất. Một vệt màu đỏ sậm chạy dài trên mặt trước chiếc áo sơ mi denim xanh.
Clary ngồi thẳng dậy. “Đó là máu sao?” cô hỏi. Cô quên mất vừa lúc trước thôi cô đang giận.
“Ừ,” chú Luke nói, tay ôm lấy lườn. “Vết thương chắc bị toác ra khi chú bế cháu.”
“Vết thương nào?” Clary không thể không hỏi.
Chú thận trọng trả lời. “Những chiếc đĩa của Hodge vẫn còn vô cùng sắc nhọn, dù hắn không ném mạnh như ngày xưa được nữa. Chú nghĩ hắn đã cắt được một dẻ sườn rồi.”
“Hodge?” Clary nói. “Lúc nào mà chú…?”
Chú nhìn cô, không nói gì, và cô đột nhiên nhớ tới con sói trong hẻm, con sói lông đen tuyền trừ một sọc xám chạy dọc thân, và cô nhớ cái đĩa đã đâm vào người nó, rồi cô nhận ra.
“Chú là người sói.”
Chú bỏ tay ra khỏi áo; những ngón tay chú thấm máu đỏ. “Ừ,” chú trả lời ngắn gọn. Chú tới bên tường và gõ mạnh: một lần, hai lần rồi ba lần. Sau đó chú quay lại. “Chú là người sói.”
“Chú giết Hodge,” cô nhớ lại.
“Không.” Chú lắc đầu. “Chú làm hắn bị thương khá nặng, nhưng khi chú trở lại tìm thi thể, trong hẻm chẳng còn gì. Hắn hẳn đã lê người trốn đi rồi.”
“Chú xé rách vai ông ta,” cô nói. “Cháu đã thấy.”
“Đúng. Mặc dù cũng đáng phải nói là lúc đó hắn đang định giết cháu. Hắn còn làm ai bị thương nữa không?”
Clary cắn chặt môi. Cô nếm thấy vị máu, nhưng đó là vị của máu cũ từ lúc Hugo tấn công cô. “Jace,” cô thì thào. “Hodge đã đánh anh ấy bất tỉnh và giao anh ấy cho… cho Valentine.”
“Cho Valentine?” chú Luke có vẻ kinh ngạc. “Chú biết Hodge đã giao chiếc Cốc Thánh cho Valentien, nhưng chú không hề biết…”
“Sao chú biết?” Clary hỏi trước khi kịp nhớ ra. “Chú nghe cháu nói chuyện với Hodge lúc trong hẻm,” cô nói. “Trước khi chú nhảy xổ vào.”
“Chú nhảy xổ vào hắn, đúng vậy, vì hắn định xẻ đầu cháu,” chú Luke nói, rồi ngước nhìn khi cửa xà lim lại mở và một người đàn ông cao ráo khác bước vào, theo sau là một người phụ nữ nhỏ bé, chỉ cao bằng một đứa trẻ. Cả hai đều mặc bộ đồ bình thường, màu sắc đơn giản: áo phông và quần bò và tóc cả hai đều có vẻ lâu ngày không gội, đều rối bù nư nhau, dù người phụ nữ tóc vàng còn người đàn ông tóc đen với những sợi tóc muối tiêu. Cả hai có cùng một khuôn mặt không rõ già hay trẻ, không có một nếp nhăn nhưng mang đôi mắt mệt mỏi. “Clary,” chú Luke nói, “gặp sói hai và sói ba, Gretel và Alaric.”
Alaric nghiêng cái đầu to tướng cúi chào. “Chúng ta đã gặp.”
Clary nhìn, hoảng hốt, “Thật sao?”
“Trong khách sạn Dumort,”Alaric nói. “Cháu phi dao găm trúng ngực chú luôn.”
Cô dúm người vào tường. “Cháu, ờ… cháu xin lỗi.”
“Không sao,” chú ta nói. “Một cú ném tuyệt lắm.” Chú ta cho tay vào túi áo ngực và lôi con dao của Jace có đính viên ngọc rồng như đôi mắt đỏ đang hấp háy ra. Alaric chìa ra cho cô. “Chú nghĩ cái này của cháu?”
Clary nhìn. “Nhưng…”
“Đừng lo,” chú ta trấn an. “Chú đã lau sạch lưỡi dao rồi.”
Không nói lấy một lời, cô cầm lấy. Chú Luke kh khẽ chậc lưỡi. “Nhìn lại quá khứ,” chú nói, “có lẽ vụ đột kích Dumort không được lên kế hoạch ngon lành cho lắm. Chú đã phải một nhóm người sói theo dõi cháu và bảo vệ nếu cháu gặp nguy hiểm. Khi cháu vào Dumort…”
“Lẽ ra Jace và cháu có thể xử lý được.” Clary nhét con dao vào thắt lưng.
Gretel nở nụ cười nhân ái với cô. “Đây là lý do ngài cho gọi chúng tôi chăng?”
“Không,” chú Luke đáp. Chú sờ lên cạnh sườn. “Vết thương của tôi bị há miệng và Clary cũng bị thương và cần được chăm sóc. Nếu hai người không ngại mang ít đồ y tế…”
Gretel nghiêng đầu. “Tôi sẽ trở lại cùng hộp thuốc,” cô nói và rời đi, Alaric đi theo sao như một cái bóng quá khổ.
“Cô ấy gọi chú là “ngài” clary nói, ngay khi cánh cửa xà lim đóng lại. “Chú nói sói hai và sói ba là thế nào? Hai ba gì ạ?”
“Cấp chỉ huy,” chú Luke chậm rãi giải thích. “Chú là sói đầu đàn của bầy sói này. Vì thế Gretel gọi chú là “ngài”. Tin chú, chú mất nhiều công sức lắm mới làm cô ta bỏ thói quen gọi chú là ‘chủ nhân’ đấy.”
“Mẹ cháu có biết không?”
“Biết gì?”
“Biết chú là người sói.”
“Mẹ cháu biết từ đâu.”
“Tất nhiên, cả hai người đều không định cho cháu biết.”
“Chú đã định nói với cháu,” chú Luke nói. “Nhưng mẹ cháu cương quyết không muốn cháu biết về Thợ Săn Bóng Tối hay Thế giới Bóng Tối. Chú không thể giải thích rằng người sói là một mạng tai nạn hi hữu được, Clary ạ. Nó chỉ là một phần nhỏ của cái tổng thể mà mẹ cháu không muốn cháu thấy. chú không biết cháu đã khám phá ra những gì…”
“Rất nhiều,” Clary bình thản đáp. “Cháu biết mẹ cháu là thợ Săn Bóng Tối. Cháu biết mẹ cháu kết hôn cùng Valentien và mẹ đã trộm Cốc Thánh và chạy trốn. Cháu biết sau khi mẹ có cháu, mẹ đã đưa cháu tới gặp Magnus Bane hai năm một lần để xóa Tâm Nhãn. Cháu biết khi Valentine cố bắt chú nói chiếc Cốc ở đâu để đổi lấy mạng sống của mẹ cháu, chú nói mẹ cháu chẳng là gì với chú.”
Chú Luke chăm chú nhìn bức tường. “Chú không biết chiếc Cốc ở đâu,”chú nói. “Mẹ cháu không chịu nói.”
“Chú có thể mặc cả…”
“Valentine không mặc cả. Hắn không bao giờ. Nếu hắn không có lợi thế, hắn sẽ không thèm đàm phán. Hắn là người độc đoán và không có tình cảm, dù hắn đã từng có thời yêu mẹ cháu, nhưng hắn không ngần ngừ mà giết mẹ cháu đâu. Không, chú không định mặc cả với Valentine.”
“Vậy chú quyết định bỏ rơi mẹ cháu?” Clary tức giận hỏi. “Chú là sói đầu đàn mà chú quyết định rằng mẹ cháu không cần chú giúp? Chú biết không, cháu tưởng đã đủ tệ rồi khi nghĩ chú là một Thợ Săn Bóng Tối khác và chú đã quay lưng với mẹ cháu chỉ vì một lời thề ngớ ngẩn nào đó của Thợ Săn Bóng Tôi hay gì đấy, nhưng giờ cháu biết chú chỉ là một cư dân của Thế Giới Ngầm gian xảo, không thèm quan tâm rằng suốt bao nhiêu năm qua mẹ cháu luôn đối xử với chú như với một người bạn – như một đồng đẳng – và thế mà chú lại đối đãi với mẹ cháu thế đấy!”
“Nghe cháu nói kìa,” chú Luke lặng lẽ đáp. “Cháu nói như một người nhà Lightwood.”
Cô nheo mắt. “Đừng nói về Alec và Isabelle như thể chú biết họ.”
“Chú đang nói về bố mẹ chúng,” chú Luke nói. “Những người chú biết, rất rõ, khi còn cùng là Thợ Săn Bóng Tối.”
Clary thấy mình há miệng vì ngạc nhiên. “Cháu biết chú từng đứng trong hàng ngũ hội Circle, nhưng sao chú giấu được thân phận người sói chứ? Họ không biết sao?”
“Không,” chú Luke nói. “Vì chú không phải một người sói bẩm sinh. Chú bị biến thành người sói. Và chú đã thấy rằng nếu cháu chịu nghe bất cứ điều gì chú nói. Cháu sẽ phải nghe toàn bộ câu chuyện. Đó là một câu chuyện dài, nhưng chú nghĩ chúng ta có thời gian.”
Phần ba
NIỀM ĐAU THƯƠNG CỦA THẾ HỆ SAU
Thế hệ sau phải chịu khổ hệt như cha ông đi trước.
-William Carlos Williams, The Descent.