Y nói vậy tôi mới nhận ra, trên đỉnh đồi trụi lủi có một cây cọc gỗ to đùng được dựng lên từ bao giờ. Cây cọc gỗ này rõ ràng đã được người ta đẽo gọt nhẵn nhụi, chỉ riêng phần trồi lên mặt đất đã cao tới ba mét. Tôi không hiểu tại sao những người Cramer này lại tốn công mất sức mang nó từ chân núi lên chôn ở đây, bèn hỏi Tần bốn mắt cái gì thế này. Tần bốn mắt ngẩng đầu lên nhìn cây cọc gỗ, nói: “Hình như nó được khắc hoa văn thì phải, hình thù ra sao thì tôi không nhìn thấy rõ lắm. Tuy nhiên, căn cứ vào gương mặt cuồng nhiệt của đám người này, có lẽ là một vật có liên quan đến việc cúng tế. Quản lý, tôi có dự cảm rất xấu, theo tình hình này có lẽ anh sẽ phải chịu cực hình.”
Tuyền béo đạp Tần bốn mắt một cú, mắng anh ta mồm thối nói gở. Tôi nói: “Tần bốn mắt nói đúng lắm, chuẩn bị tâm lý trước chẳng có gì là sai. Đầu Trọc đâu, sao lại không nhìn thấy lão đâu thế?”
Tôi vừa nhắc đến Đầu Trọc, tất cả mọi người lập tức trầm xuống. Một cảm giác xấu chợt nảy sinh, tôi vội hỏi Tần bốn mắt có chuyện gì xảy ra. Anh ta cúi đầu xuống, trả lời: “Sau khi anh đi, đám người rừng liên tục phát động bốn năm đợt tấn công dữ dội, chúng tôi đã bắn hết sạch đạn. Lúc ấy, Lưu Mãnh vừa tỉnh lại, lập tức lao vào chiến đấu với đám dũng sĩ lao xuống đầu tiên của bọn chúng, cuối cùng bị chúng đập vỡ đầu rồi ném ra ngoài hang. Sau khi bị bắt rồi đưa lên trên, chúng tôi cũng không nhìn thấy lão đâu cả. Chỉ sợ. . .”
“Phỉ phui cái mồm, “ Vương Thanh Chính ngửa đầu húc ngược Tần bốn mắt một cái, “Anh ngậm cái mồm thối lại cho cậu đây nhờ. Tôi nói cho anh biết, Lưu Mãnh chẳng bị làm sao hết cả, lát nữa biết đâu vác tiểu liên xông lên đây cũng chưa biết chừng.”
Nghe xong, Tần bốn mắt cũng dùng đầu húc phản công: “Thằng ranh nhà cậu có phải đã bị nhũn não rồi không hả. Cậu có thấy ai bị đánh vỡ sọ mà vẫn còn xông lên chiến đấu được không. . .”
Hai người không ai chịu ai, dùng đầu làm vũ khí tấn công nhau. Tôi thừa hiểu, lần này khả năng Đầu Trọc còn sống gần như bằng không, trong lòng bỗng chốc tràn ngập phẫn nộ lẫn hối hận. Dù bị trói cùng một chỗ với hai người kia, nhưng Tuyền béo không hề tham dự vào trận cãi lộn trẻ con đó, mà nói với tôi với thái độ là lạ: “Bạn biết rõ trong lòng cậu đang suy nghĩ gì. Lão Hồ, đau khổ và thương tiếc là việc của sau này, việc quan trọng nhất hiện nay của chúng ta chính là làm thế nào để sống sót. Nếu không, mối thù của Lưu đầu trọc sẽ do ai báo? Con ranh chết tiệt Lâm Phương sẽ do ai bắt?”
Tôi bị treo ngang trên cây gỗ trong thời gian quá lâu, máu đã bắt đầu dồn lên đầu, nhưng mi mắt chẳng biết tại sao lại hơi ươn ướt. Tôi đáp lại Tuyền béo: “Đám người kia nghĩ rằng tớ là thủ lĩnh, lát nữa nhất định sẽ khai đao với tớ trước tiên. Cậu cố gắng ẩn dấu, tìm cơ hội dẫn hai tên ranh con này bỏ chạy, không cần để ý đến tớ làm gì.”
Tuyền béo thản nhiên nói: “Nếu đổi lại là tớ, cậu có thể bỏ tớ lại chạy một mình không? Khẳng định là không có phải không? Hành động nhát như thỏ đế đó ai muốn thì đi mà làm, còn cậu béo đây dù có đánh chết cũng sẽ tuyệt đối không đào ngũ.”
Tôi nhớ lại đủ mọi tình thế nguy hiểm mà mình đã từng phải đối mặt trước kia, đa phần là đấu với trời, đấu với đất và đấu với người. Nhưng chưa bao giờ phải đối mặt với cả một bộ tộc người nguyên thủy như lúc này. Trước kia, vào thời còn trong quân ngũ, chúng tôi đã từng trải qua huấn luyện bắt buộc. Hầu hết chương trình là dạy chúng tôi học tập theo các liệt sĩ cách mạng, dù chết cũng không thể cúi đầu, dù uất hận muốn chết cũng không thể hàng. Tốt nhất là có thể học theo Lưu Hồ Lan, trước khi bị xử bắn vẫn còn hô vang 'Mao Chủ Tịch vạn tuế'. Thế nhưng, lần này kẻ địch đâu có quan tâm mấy người chúng tôi có cung khai hay không, cũng chẳng quan tâm chúng tôi có làm phản hay không, mà dường như chỉ nghĩ cách làm sao để xử lý chúng tôi cho gọn gàng sạch sẽ.
Đến lúc này, sự phấn khích của lũ người nguyên thủy đã lên đến đỉnh điểm, chúng đốt lên một đống lửa trước cây cột. Tên tù trưởng Búa Đá đeo chiếc mặt nạ ba mắt bằng vàng lên, giống như bị ma nhập, lắc lư điên cuồng, sau đó phát ra một tràng tiếng thét chẳng hiểu có nghĩa gì. Vào thời kỳ tham gia đội sản xuất ở nông thôn trước kia, tôi thường xuyên nhìn thấy những hoạt động mang tính mê tín. Đám ông đồng bà cốt đó phần lớn là những kẻ bịp bợm lừa tiền kiếm miếng ăn, đốt vài lá bùa màu vàng, rắc một ít gạo muối rồi bắt đầu nói quàng nói xiên, bảo rằng mình là Ngọc Hoàng đại đế, Vương Mẫu nương nương hạ phàm,... Có một lần, đội xây dựng chúng tôi được lệnh bí mật xây dựng công sự ở gần vùng Tần Lĩnh của Thiểm Tây. Khi chúng tôi đi ngang qua một cái thôn có tên là Ngưu Vĩ thì người trong thôn đang tổ chức lễ hội rước thần. Lúc ấy, chỉ đạo viên của chúng ta dặn đi dặn lại, rước thần là hoạt động mang tính tín ngưỡng dân gian của dân địa phương. Đối với hoạt động này, thái độ của cả đội ngũ là không can thiệp không tham dự, chỉ coi như không biết gì. Tuy nhiên, những người lính xây dựng và sữa chữa chúng tôi khi ấy, phần lớn là những thanh niên mười bảy mười tám chưa ráo máu đầu, hàng ngày phải đối mặt với công tác đơn điệu nên khó tránh khỏi sinh lòng buồn chán. Vào khi ấy, trong đại đội của chúng tôi có một cậu liên lạc tên là Lý Mao Mao, cậu ta có một người họ hàng xa làm ở hợp tác xã buôn bán ngay trong huyện đó. Tôi bèn gạ gẫm cậu ta dẫn mình vào trong thôn tham gia chợ phiên để giải buồn. Lúc ấy tôi chỉ đơn thuần muốn đi chợ phiên chơi xả láng một lần. Không ngờ đến đêm ngày hôm đó, tôi đã được chứng kiến một cảnh tượng trái ngược với ý nghĩa của nó. Lễ rước thần của địa phương hoàn toàn không phải là hoạt động lễ hội mang tính tín ngưỡng như tôi đã nghĩ, mà một buổi cúng tế người sống tàn ác.
Trước khi vào thôn, tôi và Lý Mao Mao đã cởi bỏ quân trang, đổi thành áo sơ mi trắng quần đen mà người anh họ của cậu ta đã lén lút mượn tạm trong cửa hàng, ăn mặc giống như dân chúng bình thường để trà trộn vào đội ngũ rước thần. Lão đạo sĩ già dẫn đầu đội ngũ, giơ cao Thất Liên Tử Kính (kính màu tím có hình bảy bông hoa sen), bùa Bát Quái. Hai đạo sĩ trẻ lắc chuông lục lạc ở hai bên. Khi họ tới chỗ nào, hộ gia đình ở chỗ đó sẽ giơ cao gà, vịt, hoa quả rồi gia nhập vào đội ngũ diễu hành. Hai người chúng tôi không biết khi tham gia hội làng còn phải dâng cống phẩm, vậy là nhặt bừa mấy viên đá ở trong bụi cỏ ven đường, dùng vải rách gói kỹ, đội lên trên đầu cho đủ lễ số.
Đội ngũ diễu hành đi thẳng một mạch vào trong núi sâu. Tôi cảm thấy có phần quái lạ, trước giờ chưa bao giờ từng nghe nói qua có hội làng nào lại tổ chức ở trong rừng sâu núi thẳm cả, bèn hỏi Lý Mao Mao thế này là thế nào. Cậu ta đáp mình chỉ được người anh họ kể cho nghe, còn trước kia bản thân chưa từng tham gia lễ hội rước thần nào, cho nên cũng chẳng biết già trẻ trong thôn muốn đi tới chỗ nào để tổ chức hội làng cả. Chúng tôi đi sâu vào trong rừng tầm nửa giờ, đội ngũ diễu hành càng lúc càng đông đảo, trong đó không chỉ có người dân của thôn Ngưu Vĩ mà còn có rất nhiều dân chúng ở các thôn lân cận cũng tham gia vào. Mọi người giống như ong mật bị phấn hoa hấp dẫn, quên hết mệt mỏi bám theo sát lão đạo sĩ già đi một mạch tới một hẻm núi ở sâu trong rừng.
Hẻm núi đó âm u, ẩm ướt, bốn xung quanh là những hòn đá núi có hình thù quái dị dữ tợn. Ở chính giữa quảng trường là những bó đuốc đã được đốt từ trước, một sân khấu tầm năm sáu mét vuông được dựng sẵn. Trên sân khấu có một đàn thờ đã sắp sẵn đồ cúng tế lẫn đèn dầu nến trắng . Chúng tôi hòa vào giữa đám đông, ngồi bệt dưới đất. Tôi lôi Lý Mao Mao chen lấn lên để ngồi ở chỗ gần sân khấu nhất, bảo với cậu ta rằng có lẽ trước tiên người ta diễn một màn hí kịch đã, sau đó mới bắt đầu tiến hành những hoạt động lễ hội. Trong khi chúng tôi còn đang cực kỳ phấn kích, đoán xem buổi tối hôm nay sẽ trình diễn 'Sa gia banh' hay là 'Hồng Đăng Ký'(1), thì một người con gái còn trẻ, mặc quần áo lam lũ, bị trói giật cánh khuỷu đột nhiên bị người ta đẩy lên trên sân khấu.
(1) Hồng Đăng Ký: là một tác phẩm kinh kịch được viết vào thời Cách mạng văn hóa của Trung Quốc. Cũng giống như Sa Gia Banh, nó được liệt vào hàng ngũ những vở kịch mang màu sắc cách mạng kinh điển.
Tôi và Lý Mao Mao nhìn nhau, không hiểu rõ ràng cho lắm rốt cục là người ta định diễn màn kịch nào nữa. Lý Mao Mao tròn mắt khó hiểu hỏi: “Hả? Chẳng lẽ là một loại hí kịch mới?” Chẳng lâu sau, tôi đã nhận ra đó hoàn toàn không phải là một vở hí kịch nào hết, mà là tàn dư của sự mê tín còn rơi rớt lại từ thời phong kiến. Một ông già có vẻ là cán bộ thôn, đi lên sân khấu, đầu tiên phát biểu vài câu về tình hình trong và ngoài nước gần đây, sau đó chỉ vào cô gái đang quỳ bên cạnh đàn tế, nói: “Ả Triệu Thanh Hoa này đã bị yêu quái thành tinh nhập vào người, chính vì ả cho nên trẻ sơ sinh trong thôn mới liên tiếp bị chó hoang trên núi tha đi. Giờ chúng ta cho mời Kim La Đại Tiên lên đài để chém yêu cầu phúc cho thôn Ngưu Vĩ của chúng ta. Mọi người nhiệt liệt vỗ tay hoan nghênh!”
Cô gái bị gọi là yêu tinh, Triệu Thanh Hoa vừa gào khóc vừa bị hai đạo sĩ trói chặt vào cây cột trên sân khấu. Lão đạo sĩ già vừa giơ kính Bát Quái lên, vừa dùng kiếm gỗ gảy đống phù màu vàng trên đàn tế, miệng lẩm bẩm. Chỉ một lát sau, lão ta rung cái chuông đồng, nói: “Không tốt, yêu quái đã hợp nhất với ả cả về tinh thần lẫn thể xác. Để ta tế ra Tam Muội Chân Hỏa đốt ả hiện ra nguyên hình.”
Mấy người nông dân khiêng củi khô đã được chuẩn bị sẵn lên trên sân khấu, chất từng bó thành đống dưới chân Triệu Thanh Hoa. Đến lúc này tôi mới chính thức hiểu ra, người ta chẳng trình diễn một loại hí kịch mới nào hết, mà là náo kịch giết người công khai. Lý Mao Mao túm chặt lấy tay tôi: “Tiểu đội trưởng, họ thật sự định thiêu chết cô ấy sao?”
Tôi vội bịt miệng chặt cậu ta, nhìn chung quanh, rất may là tất cả mọi người đều đang dồn hết sự chú ý lên trên khán đài. Tôi nói: “Đây là hành động lạm dụng hình phạt. Chúng ta không thể đứng nhìn cô ấy bị chết cháy. Cậu gấp rút chạy về đại đội xin trợ giúp, còn tôi tìm biện pháp xông lên đó ngăn chặn họ lại.”
Đầu tóc đổ mồ hôi lộp độp, Lý Mao Mao khẽ gật đầu rồi lén lút chuồn ra khỏi đám đông. Trên đàn tế, lão đạo sĩ già vung cây kiếm gỗ, một chuỗi những ngọn lửa đột nhiên hiện ra, vừa bập bùng nhảy múa vừa xoay tròn quanh người lão ta. Những nông dân đứng xem dưới sân khấu đột nhiên cuồng nhiệt phát ra tiếng khấn vái. Thậm chí, còn có một bà cụ tóc bạc trắng còn quỳ xuống đất, không ngừng lẩm bẩm 'Bồ Tát phù hộ'. Tôi cười gằn, nếu như trên đàn tế đúng là Bồ Tát cứu khổ cứu nạn gì đó, tại sao lại tàn nhẫn hạ lệnh thiêu chết người dân vô tội trong thôn kia. Từ hẻm núi Ngưu Vĩ đến chỗ đại đội chúng tôi đóng quân, cả đi cả về mất tầm 30 phút. Thế nhưng, buổi lễ trừ tà ma rước thần đã đến lúc cao trào, lão đạo sĩ mặc áo vàng và ông lão có vẻ giống cán bộ thôn cùng nhau cầm đuốc lên rồi ném vào đống củi chất dưới chân cây cột. Đến lúc này, tôi đã không thể kìm chế được lửa giận được nữa, đứng bật dậy, sải chân lao vọt tới, chống tay lên khán đài rồi nhảy lên trên, vung hòn đá bọc trong giẻ rách giả làm cống phẩm, không thương tiếc ném thẳng vào hai kẻ lừa bịp coi mạng người như cỏ rác kia.
Đám người trên đàn tế dù có tính toán kỹ càng đến thế nào cũng không tài nào ngờ tới có người đột nhiên xông lên phá rối, không kịp trở tay trước sự tấn công của tôi. Lão già đạo sĩ ăn trọn hòn đá vào đầu, tức thì vỡ đầu chảy máu, đuốc rời khỏi tay suýt nữa đã đốt áo bào của chính mình. Nhân cơ hội dân chúng dưới sân khấu trở nên hỗn loạn, tôi cắt đứt dây thừng, ôm Triệu Thanh Hoa cắm đầu cắm cổ chạy thẳng lên trên núi. Thẹn quá hoá giận, lão già đạo sĩ dẫn theo một đội quân dân chúng cuồng tín đuổi hai chúng tôi chạy khắp cả quả núi. Triệu Thanh Hoa sợ đến mức hồn vía lên mây, gần như ngất xỉu, may mà về sau chỉ đạo viên của chúng tôi kịp thời dẫn một trung đội chạy tới, dùng súng đạn trấn áp đám côn đồ đang có ý định đốt rừng phá núi đó lại.
Do sự kiện đó, tôi và Lý Mao Mao đều phải gánh trách nhiệm có liên quan. Đặc biệt là hành vi 'lạm dụng bạo lực' đối với cán bộ thôn của tôi bị lãnh đạo quân đội phán xét là tác phong quan liêu, thiếu chút nữa tôi đã bị quy vào phần tử phản cách mạng. May mà chỉ đạo viên và Triệu Thanh Hoa cùng đứng ra làm chứng, cuối cùng tôi chỉ bị phạt tượng trưng, cách đi chức vụ tiểu đội trưởng, sung quân đến Kanas ăn không ngồi rồi. Lúc ấy, tôi trẻ tuổi nóng máu, chỉ vì sự điều nhiệm đó mà đã tranh cãi nảy lửa với chỉ đạo viên. Sau này nghĩ lại, việc chuyển dời tôi đi nơi khác hoàn toàn xuất phát từ sự tín nhiệm và bảo hộ đối với tôi của tổ chức. Nguyên nhân là lo ngại những phần tử nguy hiểm sẽ âm mưu mượn cớ để kích động người dân trong thôn tiến hành trả đũa đối với tôi, làm nghiêm trọng hóa tình thế, tạo thành mâu thuẫn không thể điều hòa giữa quân và dân địa phương.
Không ngờ nhiều năm trôi qua, hôm nay tôi cũng bị người ta gác lên dàn thiêu. Nhìn đống lửa càng lúc càng cháy to dưới chân cột, tôi tự nhiên nảy sinh ra ý nghĩ, phải chăng giờ phút này cũng có một tên người rừng có tư tưởng tiến bộ nào đó đang lên kế hoạch giải cứu Hồ Bát Nhất.
Tên tù trưởng Mặt Nạ đã nhảy xong vũ điệu thần thánh mang tính lễ nghi, tháo cái mặt nạ ra. Tôi càng nhìn cái mặt nạ vàng ba mắt đó càng cảm thấy quen thuộc, có cảm giác đã từng nhìn thấy ở đâu đó. Lúc này, hai tên người rừng cơ bắp cuồn cuộn đi tới trước mặt tôi, mỗi người một đầu nhấc cây gỗ xiên qua dây trói tôi lên. Tôi giống như một con vật sắp bị đám người rừng phanh bụng, phó mặc cho bị hai kẻ đó khênh tới chỗ cây cột. Tên tù trưởng phấn khích giao cái mặt nạ cho một thiếu nữ Anh Điêng đứng ở bên cạnh, rồi nhận lấy một cái búa đao phủ tinh xảo từ tay thiếu nữ đó, tiến tới chỗ tôi.
Nhìn hai món thủ công nghệ tinh xảo đẹp mắt này, trong đầu tôi đột nhiên nảy sinh nghi ngờ. Theo lý thuyết, kỹ thuật sản xuất của người Cramer lạc hậu, đến nay vẫn là quần thể theo chế độ công xã, toàn bộ vũ khí chỉ được làm bằng đá, trong bộ lạc không có trâu ngựa thuần dưỡng, đương nhiên không thể nào biết công nghệ tinh luyện kim loại. Chiếc mặt nạ ba mắt mà tên tù trưởng đeo cùng với cái búa đao phủ này được chế tác tinh xảo. Một mắt trên chiếc mặt nạ được khảm đá hồng ngọc, con mắt còn lại khảm đá ngọc lam, còn con mắt ở giữa trán cái mặt quỷ thì không khảm vật gì. Chiếc mặt nạ và cái búa đao phủ thống nhất về mặt kiểu dáng, thuộc về hệ đồ cổ của cùng một thời kỳ, mang đậm màu sắc văn minh Inca. Những tác phẩm nghệ thuật công nghệ cao như vậy không thể nào do bộ tộc người rừng lạc hậu làm ra được, mà có khả năng là vật phẩm còn sót lại từ một nền văn minh cổ đại, có thể có quan hệ với đền thờ linh thiêng của người Inca mà chúng tôi đang tìm kiếm.
Giữa lúc nguy hiểm, tôi dường như có linh tính mách bảo. Đáng tiếc, ngôn ngữ hai bên khác nhau, hiệu quả của mấy lần tiếp cận trước không được lý tưởng cho lắm. Đến lúc này, tôi và những người khác đã biến thành tù binh, việc thăm dò tin tức từ miệng tên tù trưởng Mặt Nạ chỉ là mơ ước hão huyền.
Hai tay và mặt của tên tù trưởng cùng hướng lên trời. Những tên người rừng còn lại ngồi thụp dưới đất, không dám nhìn thẳng vào hắn. Hắn đi tới trước mặt tôi, dùng cây búa vàng chặt đứt dây thừng trói trên tay chân tôi, sau đó kêu người trói giật hai tay ra sau lưng rồi treo tôi lên cây cột. Xem ra, Tần bốn mắt phán đoán không sai một chút nào, đám người Cramer này thật sự muốn thiêu sống tôi để tế trời.
Tên tù trưởng Mặt Nạ giơ cây búa vàng lên, tiến lại gần rồi miết hai cái vào ngực tôi. Lưỡi búa lạnh như băng ma sát với lớp vải áo, làm lòng tôi lạnh buốt từng cơn. Tôi nghĩ bụng, chẳng lẽ thiêu chết vẫn chưa đủ, anh bạn này còn định moi ruột gan tôi ra để nhắm rượu?
Giống như để xác minh phỏng đoán của tôi, hắn nhe răng cười, một tay giơ cây búa lên, tay kia giật áo tôi ra, để chuẩn bị chém vào ngực tôi. Thấy ánh vàng lóe lên, trong đầu tôi chợt hiện lên câu danh ngôn để đời “Một tấm lòng son thắm cờ đào, ra đi để lại gương dũng cảm ngời sáng qua hai cuộc cách mạng“.
Người Cramer tổ chức hoạt động cúng tế rầm rộ, định dùng tôi, một cái đinh trong mắt, làm củi đốt để tế trời. Thế nhưng, tên tù trưởng Mặt Nạ có oán thù từ trước với tôi, trước khi hành hình vẫn còn muốn mượn việc công để làm việc tư, định dùng cây búa vàng moi tim gan tôi ra cho hả giận.
Tôi nghĩ mình sẽ chết chắc, cho nên quyết định phải chết quang vinh và kiêu hãnh, giống như một trang hảo hán. Tôi mở mắt trừng trừng, dữ dằn nhìn thẳng vào tên tù trưởng Mặt Nạ. Không ngờ, cây búa đi được nửa đường thì chợt dừng phắt lại ngay sát ngực tôi, chưa kịp ăn sâu vào một ly nào. Tôi bật thốt lên quái lạ, nếu như không phải anh bạn Anh Điêng này đã đổi ý, vậy thì Hồ Bát Nhất tôi nhất định đã bất ngờ gặp vận may trời ban nào đó, vô tình luyện được mình đồng da sắt, cây búa vàng sắc bén như vậy mà không thể chém vào được một phân?
Dùng đầu gối mà nghĩ cũng biết, không thể nào là khả năng thứ hai. Nếu đúng là như thế, tôi còn làm Mô Kim Giáo Úy làm mẹ gì, chạy thẳng tới Trung Nam Hải làm bảo vệ được rồi. Nhưng nếu là khả năng trước, vậy thì tại sao cái tên tù trưởng mà trước đó một giây đồng hồ vẫn còn mong sao không gân lột da tôi ra, lại tức khắc đổi ý, không giết tôi nữa?
Tên tù trưởng Mặt Nạ nhìn chằm chằm vào ngực tôi một lúc lâu, cuối cùng hét lên một tiếng, quỳ đánh bịch xuống trước mặt tôi, miệng hô lớn “Olaben, Olaben”, đồng thời lạy lục như tế sao. Nghe thấy hắn hô lên như vậy, những tên người rừng khác lập tức học theo hắn, thành kính quỳ lạy tôi. Trong lòng vô cùng rối rắm, tôi cúi đầu nhìn xuống dưới ngực mình, thử xem có phải Mao Chủ Tịch đang âm thầm giúp đỡ mình, đã khắc lên đó một cái miễn tử kim bài nào đó hay không. Nhưng lồng ngực tôi vẫn thế, không có thêm một sợi lông cũng chẳng thiếu đi tí thịt nào, mà chỉ có cái bùa Mô Kim mà tôi đã lột của Tuyền béo rồi đeo vào cổ mình, đang đong đưa qua lại. Có lẽ nào những tên người rừng Amazon này lại có thể nhận ra cái bùa hộ thân của Mô Kim Giáo Úy chúng tôi hay sao? Chẳng lẽ chúng lại là con cháu của đám cương thi bánh tông?
Trước ngực tôi, ngoài bùa Mô Kim ra thì chẳng còn vật gì nữa, nếu bảo rằng chúng đột nhiên khuất phục trước khí khái thấy chết không sờn của tôi thì quả thật không hợp với lẽ thường cho lắm. Tên tù trưởng ngẩng đầu lên nhìn tôi, trong đôi mắt ngập tràn sợ hãi lẫn tôn kính. Mấy người Tuyền béo bị trói bên dưới táng đả ở phía bên kia cũng ngớ người, ngây ra như tượng trước biến cố đảo ngược bất thình lình vừa rồi. Tuyền béo vặn vẹo thân hình bị trói chặt như bánh tét, hét lên hỏi tôi: “Lão Hồ, bên cậu xảy ra chuyện gì vậy? Cái đám ngu xuẩn này quỳ rạp xuống la làng lên với cậu cái gì thế?”
Tôi cười méo xẹo, đáp: “Bạn đây cũng chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, chả hiểu bọn chúng đang làm cái trò khỉ gì nữa.”
“Vậy cậu cứ ra lệnh cho bọn chúng một câu, trước tiên thả chúng ta ra rồi nói sau.”
Giờ tôi mới kịp nhớ ra mình vẫn còn đang bị trói lơ lửng, vì vậy cố tỏ vẻ uy nghiêm, dùng ánh mắt sai khiến liếc nhìn tên tù trưởng đang quỳ trước mặt một cái. Gặp ánh mắt đó, tên tù trưởng lập tức sợ hãi, lom khom đứng dậy, cúi đầu cởi dây trói cho tôi. Chân vừa chạm đất, tôi lập tức đá thẳng vào mông hắn một cú như trời giáng, sau đó giằng lấy cây búa vàng trong tay hắn, chạy sang chỗ cái hốc dưới tảng đá, cắt dây trói cho Tuyền béo, Tần bốn mắt lẫn cậu ấm họ Vương. Đám thổ dân Cramer bám theo sát sau lưng tôi, uốn gối khom lưng, thái độ hết sức cung kính.