Dịch: Tuyệt Hàn
***
Tra Nghiêm Vân lấy tay sờ qua những đường cong được khắc trên vách giếng, nhắm mắt lại rồi dùng cảm nhận để tổ hợp chúng lại. Hắn cứ thể chuyển động thành vòng tròn, tiếp tục sờ vách giếng, khi hắn chuyển động được một vòng thì chạm tay vào một cái hốc nhỏ. Tra Nghiêm Vân chợt mở mắt, nhìn cái điểm đó, một vòng vừa rồi hắn phát hiện ra bốn hốc nhỏ, các hình khắc xung quanh bốn cái hốc này tạo thành một bức vẽ hoàn chỉnh, bức vẽ này cũng đã được hắn ghi lại trong đầu qua cảm giác.
Tra Nghiêm Vân suy ngẫm một hồi, đưa ra một kết luận: Hình khắc trên vách giếng này chính là mặt bằng của cả thôn. Cả bức đồ có hình như một con cá, toàn bộ thôn nằm trên thân con cá này. Bốn hốc nhỏ chính là bốn nghĩa trang do bốn con hung thú trấn giữ, giếng cổ thì nằm giữa trung tâm bốn điểm kia, những đường cong ngang dọc là đường đi lại trong thôn, những điểm nhỏ kia là nhà của người dân. Mà càng khiến hắn kinh ngạc con cá này chỉ là một nửa âm dương trong bát quái đồ, toàn thôn cũng chính là một nửa của trận pháp.
Bát quái đồ là do hai con cá chép âm dương, một đen một trắng tạo thành. Giếng cổ nơi Tra Nghiêm Vân đang xem xét nằm ở chính giữa mắt một con cá, mà từ vị trí của thôn và cách bài trí có thể đoán ra con cá này là cá trắng, đại diện cho dương giới, như vậy cái miệng giếng cổ này há chẳng phải là phần âm trong dương giới – thông tới Âm Phủ sao?
Bát quái đồ có hai con cá, cá trắng có một chấm đen, cá đen có một chấm trắng, chia ra đại biểu âm dương hai phía, thiên địa hai phần. Trắng đen cũng phân chia âm dương, thiên địa nhân. Trắng có điểm đen là trong dương có âm, đen có điểm trắng là trong âm có dương. Đạo sinh nhất chính là từ Vô Cực sinh Thái Cực; nhất sinh nhị chính là Thái Cực sinh Lưỡng Nghi; nhị sinh tam chính là âm dương giao cảm hóa hợp; tam sinh vạn vật chính là Thái Cực và cả hai thứ kia, bởi vì vạn vật do âm dương mà hóa sinh, trong vạn vật đều có một Thái Cực. Nói cách khác, Thái Cực không chỉ có bao hàm phương diện âm dương, còn bao hàm giới tuyến giữa hai thái cực và cả sự cân bằng ở trong.
Tra Nghiêm Vân phát hiện những thứ mình biết thật sự còn quá ít, đây tột cùng là nơi thế nào? Là người nào có thần thông lớn như vậy? Nơi này rốt cuộc có bao nhiêu trận pháp đang đợi hắn?
Tra Nghiêm Vân dừng lại giữa không trung cả nửa ngày không có phản ứng, cũng khiến hai người ở bên trên bối rối, Nghị Siêu hướng trong giếng hô to: “Nghiêm Vân ca, đã xảy ra chuyện gì sao?”
Tiếng kêu ở trên vọng xuống kéo Tra Nghiêm Vân về thực tại, hắn dùng sức chà xát tay, chuẩn bị tiếp tục hạ xuống.
Tra Nghiêm Vân nhìn những đường cong kia một lần nữa, hướng phía trên kêu một tiếng: “Không có sao, tiếp tục đi.”
Phía trên Nghị Siêu đáp lại một tiếng, hai người lại bắt đầu phối hợp như ban đầu, tốc độ thả dây cũng chậm. Theo độ sâu dần dần gia tăng, thân hình Tra Nghiêm Vân đã bắt đầu không nhìn rõ nữa, một lát sau, nếu nhìn xuống cũng chỉ thấy ánh sáng từ chiếc đèn chiếu mà thôi.
Lúc ban đầu, cứ mỗi năm thước Tra Nghiêm Vân lại ra dấu ngừng lại, Nghị Siêu liền dừng lại. Tra Nghiêm Vân dùng sức kéo sợi dây một cái nghĩa là an toàn, có thể tiếp tục thả dây, kéo hai cái nghĩa là dừng lại, kéo ba cái chính là gặp nguy hiểm cần nhanh chóng kéo lên, kéo bốn cái liên tiếp đồng nghĩa là đã tới nơi. Sợi dây càng ngày càng còn lại ít, tần suất Nghị Siêu phải dừng lại cũng càng ngày càng nhiều, dần dần biến thành cứ một thước thì Tra Nghiêm Vân phải dừng lại một lần.
Mà phía dưới có chuyện gì mà phải dừng lại nhiều như vậy?
Những hình khắc ban đầu được Tra Nghiêm Vân phát hiện khiến hắn càng chú tâm tới vách giếng, càng chìm xuống dấu vết bị ăn mòn ngày càng nhiều, vách giếng từ màu xám trắng cũng dần ngả thành màu nâu vàng, rêu trên vách cũng dần dần giảm bớt. Nhưng khí áp càng hạ xuống càng mạnh, ước chừng đến khoảng năm mươi thước, sức gió đã có thể khiến cái túi bát quái trước ngực hắn chuyển động. Mà những luồng khí kia lại hết sức tươi mát, khi hít thở đầu lưỡi còn có cảm giác ngòn ngọt, khiến căng thẳng trong lòng Tra Nghiêm Vân thoáng có chút giảm bớt. Bản năng của con người luôn coi cay đắng chua hôi là tín hiệu của nguy hiểm, còn ngọt thơm là tín hiệu an toàn.
Nhưng có một thứ hắn không thay đổi chính là việc nhìn thẳng vào vách giếng, trên những mảng đá kia rõ ràng có dấu vết do con người để lại, nếu chăm chú phân tích có thể hiểu rõ hoàn cảnh khi đào giếng khó khăn thế nào. Cách mỗi chừng ba thước liền có một số hình khắc đơn giản tạo thành vô số những bức bích họa khác nhau. Nhiều nhất chính là một số hình cá, chim và cây, thỉnh thoảng có xuất hiện một số hình khắc người. Tra Nghiêm Vân ấn tượng sâu nhất là về một người mắt to tai lớn, bởi vì những hình thù này hết sức xù xì đơn giản, Tra Nghiêm Vân chỉ cần nhìn qua đã có thể nhớ kỹ.
Qua một trăm thước, Tra Nghiêm Vân đột nhiên phát hiện một cái bí mật, miệng giếng cổ này vốn là được dùng sức người mà tạo thành, dấu vết còn sót lại mặc dù trải qua năm tháng ăn mòn, nhưng vẫn có thể thấy rõ ràng. Sau một trăm thước thì phương thức đào giếng bắt đầu có sự thay đổi rõ rệt.
Ban đầu, phương hướng đào là hướng thẳng xuống dưới, tất cả dấu vết lưu lại trên đá là phía trên thô to, phía dưới nhỏ nhọn. Mà sau một trăm thước, Tra Nghiêm Vân phát hiện những thứ dấu vết biến thành phía trên nhỏ, phía dưới to, cơ hồ dấu vết khi đào được biến đổi hoàn toàn ngược lại, có thể sao?
Chẳng lẽ nói năm đó người chỉ đạo đào cái giếng này chia nhân công làm hai phần, một nhóm người từ mặt đất đào xuống, còn có một nhóm khác từ trong đất đào lên? Có không khí lưu động chứng tỏ chắc chắn cái giếng này thông với bên ngoài, thì có thể do bọn họ đã phát hiện ra mà đào lên; nhưng phải bảo đảm một cái giếng cổ được đào thẳng đứng như thế này thì chỉ có một cách là bắt đầu từ giữa, chia ra mà đào thì còn có thể. Còn đào thẳng một đường từ hai phía như thế này, sợ rằng ở thời hiện đại có máy móc tiên tiến cũng khó làm nổi.
Đạo lý rất đơn giản, khi một người che mắt đứng ở trên tầng lầu cao tới cả trăm mét thả một sợi dây xuống, lại để cho một người nữa ở dưới đất bịt mắt đưa một cây gậy lên mà chạm được vào sợi dây, làm sao có thể? Hơn nữa cả sợi dây và cây gậy đều phải vuông góc với mặt đất. Chỉ một ví dụ đơn giản như vậy có thể khẳng định nếu không có máy bắn góc ba chiều, thực hiện một công trình như thế này khác nào ngủ ngày nói mơ.
Tra Nghiêm Vân đang kinh ngạc về phát hiện này thì đồng thời cũng nhận ra hình khắc trên đá cũng dần thay đổi, hình chim cá cũng dần biến mất, thay vào đó là một hình mới xuất hiện: côn trùng. Những cái cây ở phía trên trơ trụi lá, bắt đầu có lá, giống như sự biến đổi của dấu vết khi đào, những hình vẽ này cũng dần thay đổi.
Mà hai người ở trên, Nghị Siêu cùng Trác Hùng đã không nhìn thấy được ánh sáng từ chiếc đèn chiếu nữa. Tra Nghiêm Vân càng ngày càng hạ xuống, ngoại trừ cảm nhận từ sợi dây ra, không có những tin tức khác. Cũng may cách mỗi một thước, phương thức liên lạc giữa bọn họ vẫn còn tồn tại, chẳng qua Nghị Siêu cảm giác chuyển động từ sợi dây truyền tới càng ngày càng yếu, còn Trác Hùng ở phía sau gần như không có cảm giác gì cả. Qua trăm thước thì lực kéo đã bị phân tán rất nhiều qua sợi dây rồi, đây là thứ mà cả ba người đã không hề nghĩ tới.
Nghị Siêu nhìn vệt khắc trên sợi dây, tính toán khoảng cách với Tra Nghiêm Vân lúc này đã khoảng chừng hai trăm thước. Bằng vào sự nhạy cảm thì cậu ta vẫn có thể nhận ra tín hiệu được truyền tới một cách yếu ớt, hai người cũng chỉ còn cách nắm chặt lấy sợi dây mà thôi. Giờ phút ai trong bọn họ cũng đều không phát hiện được, xung quanh đã bắt đầu có biến hóa.