Thiên Hạ 2

Chương 238: Q.8 - Chương 238: Gián điệp quân Đường






Đa-mát. tòa đô thành của vương triều ủy Mã Á này không vì vương triều ủy Mã Á mất đi mà bị phai tàn, Sau khi khói lửa chiến tranh đã tiêu tan, nó lại dần dần khôi phục sự phồn thịnh như ngày xưa, trước khi thành Baadad (Bát - Đa) được xây dựng. Đa-mát vẫn luôn là ngôi thành lớn thứ nhất của thế giới Ảrập.

Lúc mặt trời vừa mới mọc lên, người Đa-mát đã chen chúc đầy các con đường hẹp có mái che, bọn họ mặc quần thụng (phồng) và giày da đỏ đầu nhọn rất đặc sắc, đội khăn vấn đầu, dưới cơn nắng rừng rực mà bắt đầu một ngày làm việc kiếm miếng ăn.

những người bán hàng rong đang rao bán nước ép trái cây và kẹo, dùng tiếng rao cao nhất, ven phố rao hàng, dường như đang hét thi cùng với tiếng huyên náo của đàn lừa và đàn lạc đà đang vận chuyên các loại sản phẩm của sa mạc, nông sàn cùng người qua đường, trong không khí của thành thị, tràn ngập các loại mùi mà mũi có thể ngửi được.

Đa-mát cũng là một đô thị lớn có tính quốc tế, có những khuôn mặt rám nắng của người Bedouin (dân du mục aốc Àrập), bọn họ mặc chiếc áo khoác rộng thùng thình, đội khăn trùm đầu và dây quấn, đôi khi còn có thể bất gặp người Francia* mặc trang phục Âu Châu, có học giả, có người lữ hành, nhưng nhiều nhất vẫn là các lái buôn, còn có người Túc Đặc và người Đột Quyết đến từ phương đông, bọn họ dắt lạc đà.

trong các rương lớn trên lưng lạc đà đựng đầy tơ lụa và đồ sứ của Đường triều, bọn họ kỳ vọng có thế bán được giá cao tại Đa-mát.

* Francia hay Frankia. sau này được gọi là Đế quốc Frankigh (tiếng La tinh: imperium Francorum). Vương quốc Frankigh (tiếng La tinh: resnum Francorum. “Vương quốc của người Frank") là lãnh thổ người Frank sinh sống và thống trị từ thế kỷ thứ 3 tới thế kỷ thứ 10.

Dưới những chiến dịch không ngừng nghi của Charles MarteỊ Pepin Lùn và Charlemaang - lãnh thô của người Frank được mở rộng lớn nhất vào đấu thế kỷ thứ 9. Truyền thống về việc phân chia gia tài giữa những người anh em khiến cho lãnh địa của người Frank dù là một chính thé nhưng được chia nhó ra thành những resng(vương quốc, tiểu vương quốc).

Giới hạn địa lý và số lượng tiểu vương quốc thay đổi theo thời gian, nhưng từ Francia chi nhằm chi tới một reanum, đó là Austria(Áo)5 nằm ở trung tâm sông Rhing và sông se ở bắc Âu, đôi khi thuật ngừ này cũng dùng để bao hàm cả Ngustria phía bắc Loire và phía tây của Sging.

Cuối cùng, việc sử dụng số ít cái tên Francia được chi tới Paris. khu vực châu thố Sging xung quanh Paris, nơi ngày nay vẫn giữ cái tên ĩle-de-Frances cái tên nền tảng cho tên của Vương quốc Pháp.

Đầu ngẩng lên cao chính là những quý tộc Đa-mát bản địa giàu có, bọn họ đều là những người A Rập chiếm cử địa vị thống trị, bọn họ cưỡi trên lưng ngựa, mặc áo choàng màu trắng, dắt bảo kiếm hoặc tay cầm trường mậu.

trên đường cái phụ nữ cũng không nhiều, chi có một số ít phụ nữ qua đường cũng đều mang khăn che mặt. có một số phụ nữ ở trong nhà của mình, từ lồ nhỏ của ô cửa sổ nhìn lén những người ở chợ và tại quáng trường.

Nơi náo nhiệt nhất trên quảng trường rộng lớn chính là chợ nô lệ. trên mấy chục cái bục bằng gỗ cao đứng đầy các nô lệ từ đông tây phương các nơi dẫn đến, đầu đầy tóc quăn là người da đen ở phía nam Ai Cập, người Đột Quyết dáng người thấp bé khòe mạnh, người Tây Ban Nha da trắng tóc vàng mắt xanh.

còn có rất nhiều người Túc Đặc và người Thiên Trúc, thậm chí còn có một chút ít người phương đông đến từ nơi xa xôi. chủ yếu đến từ Tân La, nhưng người À Rập bình thường rất khó có thể phân biệt ra bọn họ, thống nhất gọi bọn họ là người Đường.

Bọn họ phần lớn là bởi vì chiến tranh mà bị cướp bắt tới nơi này, nhất là sự chinh phục của quân đội A Bạch Tư, từ các nơi trên thế giới mang đến một lượng lớn nô lệ.

Nuôi nô lệ là truyền thống của người À Rập, gần như mỗi một gia đình dân thường cũng đều có nô lệ của riêng mình, bất kỳ thân vương nào của vương triều ủy Mã Á có trên dưới một ngàn nam nô và nữ nô, đó là chuyện rất bình thường, ở trong chiến dịch Tuy Phân, một gã tiểu tốt trong quân Syria, thì đã có một đến mười nô lệ hầu hạ hắn.

Loại truyền thống này cũng không vì sự thay đồi vương triều mà biến đồi. việc buôn bán ở chợ nô lệ Đa-mát vẫn tấp nập như xưa.

Nô lệ phần lớn được bán theo nhóm, lúc này, một nhóm nô lệ da ngăm đen bị xua đây lên bục gỗ cao, mỗi người cũng đều trần trụi thân trên, bên trong có người trẻ lẫn người già yếu.

đây là lệ thường, nếu không nô lệ già yếu sẽ khó mà bán ra được, các nô lệ vừa lên bục gỗ cao, lái buôn nô lệ bèn vội rống to lên: “Bốn mươi đứa nô lệ da đen của Ai Cập, hai vạn năm nghìn Địch Lạp Mỗ!”

Ánh mắt khôn khéo của người mua liền tìm kiếm nô lệ trẻ khỏe trong số bốn mươi người đó, bọn họ cần chính là những người bắp thịt rắn chắc và loại ngực căng mông tròn hấp dẫn.

trong đầu nhanh chóng phán đoán giá cả hợp lý, thường nô lệ người da trắng rất đắt, người trẻ tuổi mỗi đứa đến một ngàn Địch Lạp Mỗ, còn người da đen ở phía nam Ai Cập do thân thể khoẻ mạnh, phải đến tám trăm Địch Lạp Mỗ, rẻ nhất chính là người Đột Quyết, chỉ cần sáu trăm Địch Lạp Mỗ là có thể mua được, mà nô lệ người Đường không nhiều lắm.

thông thường cũng sẽ không bán ở chợ nô lệ, ngẫu nhiên xuất hiện sẽ lập tức bị mua đi ngay, con gái Đường trẻ tuổi khoảng chừng trên dưới một ngàn năm trăm Địch Lạp Mỗ.

Trong đám nô lệ này phần nhiều là phụ nữ và trẻ con, bán hai vạn năm nghìn Địch Lạp Mỗ thì hơi bị mắc, người mua phần lớn không có hé răng, lái buôn nô lệ sẽ tự động hạ giá, cho đến khi có người mua đi.

“Hai vạn bốn ngàn Địch Lạp Mỗ, có người mua không?” Dưới bục vẫn yên lặng.

“Hai vạn ba nghìn!”

Dưới bục vẫn không ai hé răng, lúc này tên lái buôn nô lệ có chút sốt ruột rồi, đám nô lệ này hắn dùng hai vạn Địch Lạp Mỗ mua từ trong tay của quân đội.

cho bọn họ ăn uống, suốt đường vận chuyển đã chết mấy người, nếu hạ giá nữa thì hắn sẽ lỗ vốn thôi, đúng lúc này, một người mua cao giọng hô: “Đám nô lệ ta mua rồi!”

Tên buôn nô lệ bèn nhẹ nhõm cả người, cuối cùng cũng có người mua rồi, hắn vội vàng ra lệnh cho thủ hạ đi làm thủ tục sang tên cho chủ nô lệ, còn hắn thì tìm đến vị chủ mua này, người mua là một người già Túc Đặc.

bên cạnh đứng một chàng trai trẻ da rám nắng, trên đầu hắn quấn khãn trùm đầu, mặc một chiếc áo bào đen có viền chỉ vàng của người Đột Quyết, tươi cười thân thiết, xem bộ dạng hẳn là người Đột Quyết, nhưng nhìn kỹ lại thì hình như không giống, tên buôn nô lệ dựa vào ánh mắt chuyên nghiệp của hắn bèn nhìn một cái liền nhận ra ngay, người này không phải người Đột Quyết, mà là một người Đường.

ở Đa-mát mà có thể nhìn thấy người Đường tự do, đây mới là lần đầu tiên, tên buôn nô lệ không khỏi nhìn hắn kỹ hơn, gần đây nghe nói bên kia Hô La San không yên ổn lắm, đang đánh nhau với quân Đường, người Đường này xuất hiện tại đầu đường Đa-mát, hơi có chút bất thường.

“Chúng ta đi bên kia trả tiền!”

Người mua nô lệ là lái buôn Khang quốc nhiệt tình mời tên buôn nô lệ sang căn nhà nhỏ bên cạnh, tên buôn nô lệ lại quay đầu lại nhìn thoáng qua chàng trai trẻ người Đường này, đã không thấy hắn đâu nữa, hắn đã biến mất trong đám đông những người qua lại.

Ánh nắng giữa trưa ở Đa-mát rất chói mắt, Bùi Du không khỏi nheo mắt lại, ở Đại Thực du lịch đã mau nửa năm, hắn vẫn chưa thể thích ứng với ánh mắt chói lội ở nơi này, Bùi Du nửa năm trước phụng mệnh Lý Khánh An đến Đại Thực tìm hiểu phong tục tập quán của nơi này, chú ý đến thực lực của Đại Thực, nói thẳng một chút, thì hắn thật ra chính là một gián điệp cao cấp của quân Đường.

Bùi Du là theo một lái buôn người Túc Đặc đến Đại Thực, người lái buôn Túc Đặc này là bằng hữu của Lý Hồi Xuân ở Hán Đường hội, hắn lần này du lịch được sự hỗ trợ về mặt tiền bạc từ Hán Đường hội, Hán Đường hội khởi nghiệp từ mậu dịch ở khu vực của Đại Thực cũng có cửa tiệm, phân bồ ở Mộc Lộc, Khố Pháp và Đa-mát.

Bùi Du mới từ Ai Cập trở về, cuộc chiến chinh phục Ai Cập của A Bạch Tư đang đánh với khí thế hừng hực, làm cho khu vực đó trở nên không còn yên ổn nữa, hắn đã mấy lằn đều suýt chút nữa là bị bắt làm nô lệ, trái lại, lái buôn nô lệ thì lại là người tự do và rất được tôn trọng, chỉ cần là người dẫn theo một tốp lớn nô lệ, thì quân Đại Thực ngay cả hỏi cũng không hỏi tới, một đường thông suốt không gặp trở ngại gì.

Phát hiện được bí mật này, Bùi Du liền cùng lái buôn người Túc Đặc đi tới Đa-mát, mua một đám nô lệ, vừa rồi ánh mắt kinh ngạc của tên lái buôn nô lệ kia làm cho Bùi Du có chút cánh giác.

Cho dù hắn có thể nói được tiếng Đột Quyết mốt cách lưu loát, cũng biết một chút tiếng Ảrập, những nơi mà hắn đến, gần như người nào người nấy đều xem hắn như người Đột Quyết mà đối đãi.

nhưng cũng có ngoại lệ, tỷ như vừa rồi, tên lái buôn nô lệ kia hiển nhiên nhận ra thân phận đích thực của hắn, Đây là do hắn đã có chút sơ ý quá, đã quên rằng những tên lái buôn nô lệ này có ánh mắt sắc bén hơn người thường rất nhiều.

“Nỗ Tái Nhĩ, ngươi ở đâu thế?”

Tiếng gọi đã cắt ngang luồng suy nghĩ của Bùi Du, hắn lúc này mới kịp phản ứng lại, Nỗ Tái Nhĩ là tên Arập của hắn, hắn vội vàng quay đầu lại, chỉ thấy lái buôn người Túc Đặc tìm hắn khắp nơi.

“Mạc Mạc đại thúc, con ở đây này!”

Bùi Du nhanh bước đi tới, cười nói: “Đã giao dịch xong cả rồi à?”

“Giao dịch xong rồi, đợi lát nữa sẽ đem nô lệ đưa đến chỗ lử quán mà chúng ta trọ, Nỗ Tái Nhĩ, ta chính là dùng danh nghĩa của ngươi mà mua đấy, những nô lệ đó đều là của ngươi cả đấy, trong đó có mấy cô gái trẻ nhan sắc không tồi, ngươi có thể cưới các nàng làm thiếp, để giải tòa sự vất vả trên đường đi của ngươi.”

Khi nói lời này, trên mặt người lái buôn Túc Đặc già Mạc Mạc có một nụ cười rất tinh quái, thật không tương xứng với khuôn mặt già nua của lão

“Cảm ơn Mạc Mạc đại thúc, đại thúc về lử quán trước đi! Con còn có chút việc.”

Mạc Mạc dường như biết được hắn có chuyện gì, cũng không hỏi nhiều, liền cười nói: “Thôi được rồi! Ta đi về trước nhận nô lệ, ngươi phải cẩn thận một chút đấy.”

Mạc Mạc dẫn theo mấy viên tùy tùng dắt lạc đà đi rồi, Bùi Du cưỡi lên một con ngựa, từ từ rời khỏi quảng trường, nhắm hướng bắc thành Đa-mát mà đi.

Cũng như những thành thị khác, người Ả Rập ở Đa-mát theo quan hệ của bộ tộc, phân bố ở khắp nơi của Đa-mát.

Cửa lớn của các nhà của người Ả Rập đều hướng ra đường cái. từ cửa lớn đi vào, đầu tiên là một cái sân, ở chính giữa sân, có một cái ao nước lớn, từ đài phun nước phun ra hơi nước, tạo thành một rèm nước, bên cạnh cái ao, có trồng cây quýt hoặc cây cam.

Các căn phòng xây xung quanh sân, ở số nhà giàu có người ta còn có xây hành lang khúc khuỷa, phía trong nữa chính là những căn nhà thâm sâu không lường được, bên trong nuôi một đàn thê thiếp và con cái vô số kể.

Bùi Du cười ngựa đi trên các con đường rộng lớn ở Đa-mát, tuy rằng tòa thành thị này là ngôi thành lớn nhất của Đại Thực, nhưng so với khí thế nguy nga của Trường An thành, thì nó vẫn kém còi rất nhiều.

Khu vực quý tộc ở thành bắc Đa-mát, hai bên bờ sông Hiệp Tề Đức Hà đầy rẫy những căn nhà lớn. nhừn tòa nhà này vốn dĩ đều là nhà của các quỷ tộc ủy Mã Á. nhưng hiện tại đã thay đối chủ nhân, quý tộc của vương triều A Bạch Tư đã vào ở trong những ngôi nhà lớn này.

Thủ đô của vương triều A Bạch Tư ở Khố Pháp, đây là định đô tạm thời khi A Bạch Tư còn chưa lật đô Khalifah Manvan II (đọc theo tiếng Hán là Mã Nhĩ Vượng đệ nhị), so với khí thế hùng vĩ của Đa-mát. thì Khố Pháp liền có vẻ chật chội và nhỏ mọn.

cho dù A Bạch Tư không thích Đa-mát lắm. nhưng phần lớn thời gian trong một năm của hắn, vẫn là ở trong hoàng cung của vương triều ủy Mã Á xưa kia, nơi này có hết thảy những điều mà hắn thích, mỹ nhân khuynh nước khuynh thành, rượu ngon nồng nàn và ngọt ngào, cung điện tinh xảo tuyệt luân và nên kinh tế phồn thịnh.

Bùi Du xa xa ngắm nhìn cung điện của Đại Thực, đó là một tòa kiến trúc có mái vòm hình tròn, vốn là màu trắng, nhưng hiện tại đã bị sơn thành màu đen, nó đứng sừng sững và nổi bật giữa không trung như vậy, làm cho người ta có một cảm giác của sự ghê rợn trong thế giới đen tối.

Chung quanh phân bố đầy các quân cận vệ khôi giáp sáng chói của Khalifah, canh phòng nghiêm ngặt, Bùi Du có một cái trực giác, Khalifah A Bạch Tư của hắc y Đại Thực không ở Khố Pháp, mà là ở ngay trong tòa cung điện màu đen này.

Lúc này, Bùi Du bỗng nhiên phát hiện một việc không ổn, chỗ đường cái hắn đứng đang tiến hành kiểm tra giấy tờ, con đường lớn này là đường chính nối thẳng tới cửa lớn của cung điện, canh phòng nghiêm ngặt nhất, bọn lính đang ở kiểm tra giấy tờ của mỗi một người qua đường.

cũng chính là giấy nộp thuế, chỉ có người dân hợp pháp của vương triều A Bạch Tư mới có loại giấy tờ này, nô lệ và người ngoại quốc là không có, bình thường khi vào thành mới kiểm tra, Bùi Du cũng có, nhưng đó không phải là giấy tờ của hắn, là giấy chửng nhận nộp thuế của một người Sử quốc.

Tuy rằng không có ảnh chụp nào, nhưng tiếng Túc Đặc hắn nói không tốt lắm, một khi đối phương dùng tiếng Túc Đặc hỏi hắn, hắn rất có thể sẽ lộ tẳy mất, trước đây đều là Mạc Mạc đại thúc ở bên cạnh, thay hắn che lấp đi, hôm nay là lần đầu tiên hắn phải một mình đối mặt.

Bùi Du lập tức toát cả mồ hôi lạnh, chung quanh hắn đều có binh lính đang kiểm tra, cũng may trên đường lớn người rất nhiều, nhất thời còn chưa có kiểm tra đến hắn, làm sao bây giờ? Nếu lui về nhất định sẽ bị phát hiện, một khi bị bắt lấy, tỷ mi kiểm tra đối chiếu thân phận của hắn, thân phận hắn là người đại Đường rất có thể sẽ bị phát hiện.

Mà nếu bị phát hiện không mang theo giấy tờ, nhất định cũng bị bắt đi, cách đó không xa. mấy người lái buôn ngoại quốc không có mang giấy chứng nhận đã bị bắt đi. bọn họ lớn tiếng biện bạch, nhận được sự trả lời là một trận quyền đấm cước đá.

“Ê! Ngươi!”

Rốt cục đến phiên hắn, một gã quan quân chỉ vào hắn la lớn: “Đem giấy xác nhận của ngươi lấy ra đi.”

Bùi Du bất đắc dĩ đành phải từ trong lòng lấy ra cuốn da dê, đây chính là chứng mình đã nộp thuế của hắn, đưa qua đó, chỉ mong tên quan quân này sẽ không biết nói tiếng Túc Đặc.

Quan quân tiếp nhận giấy chứng nhận, nhìn hắn một cái. hỏi: “Người Đột Quyết?”

Trong lòng Bùi Du nhẹ nhòm hẳn, đối phương nói là tiếng Đột Quyết, hắn lập tức dùng tiếng Đột Quyết nói: “Ta tên là Nỗ Tái Nhĩ, lớn lên ở Thiết Môn Quan, là một lái buôn, năm trước đã đi Tát Mã Nhĩ Hãn.”

Thiết Môn Quan là biên giới phía tây của Tây Đột Quyết Hẳn quốc trước đây, Mạc Mạc đại thúc nói. giọng của hắn giống của người vùng Thiết Môn Quan, vì thế, hắn còn đặc biệt đi qua một chuyến đến Thiết Môn Quan của Sử quốc, nơi đó là cửa ngõ quan trọng từ Tát Mã Nhĩ Hàn và Bố Cáp Lạp để đi đến Ba Lý Hắc. buôn bán phồn thịnh, chủng tộc rất đa dạng.

Hắn nói tiếng Đột Quyết rất lưu loát, không có một chút sơ hở nào, quan quân gật gật đầu, vừa định đem giấy chứng nhận trả lại cho hắn, đúng lúc này, bên kia đường lớn xảy ra một loạt sự hỗn loạn, một đại đội quân mã chạy sang bên này, người đi đường đều dạt ra hai bên mà tránh, chi nghe thấy có người hô to: “Mộc Tư Lâm tướng quân tới rồi, tất cả mọi người tránh ra mau!”

Quan quân không khỏi thầm mắng một câu, hắn dùng tiếng Đại Thực, cho dù tiếng Đại Thực của Bùi Dư không được tốt lắm, nhưng vẫn nghe hiểu được, hắn đang mắng: ‘Nơi này không phải là Hô La San của hắn, vênh váo cái gì?’

Bùi Du lập tức động lòng, hắn nghe ra khẩu khí của tên quan quân này cực kỳ bất mãn với Mộc Tư Lâm, từ lúc mấy tháng trước hắn đã nghe nói, bên trong nội bộ của người Đại Thực có rất nhiều phe phái, tranh quyền đoạt lợi rất dừ dội.,nhất là A Bố - Mộc Tư Lâm và Mạn Tô Nhĩ bằng mặt mà không bằng lòng với nhau, chăng lẽ Mộc Tư Lâm và A Bạch Tư cũng có mâu thuẫn sao?

Lúc này quan quân đem giấy chửng nhận đưa trả cho hắn: “Ngươi đi nhanh đi! Hô La San Tông đốc không có cảm tình với người Đột Quyết, bị hắn bắt gặp, sẽ bắt ngươi vào ngục giam đấy.”

Bùi Du tiếp nhận giấy chửng nhận vội vàng lẻn vào đám đông ven đường, len lén từ khe hở trên đầu của đám đông nhìn ra xung quanh, chỉ thấy từng đội từng đội kỵ binh Hô La San phóng qua, chừng hơn một ngàn người, ở giữa đám kỵ binh, một gã đàn ông trung niên dáng người hùng tráng đang cúi đầu không nói, có vẻ đang có nhiều tâm sự.

“Thì ra hắn chính là A Bố - Mộc Tư Lâm!” Bùi Du thầm nghĩ.

“Nghe nói Mộc Tư Lâm và Mạn Tô Nhĩ điện hạ tranh làm Ngải Mễ Nhĩ, kết quả Mạn Tô Nhĩ điện hạ thắng, ài! Mộc Tư Lâm tướng quân đắc tội với Mạn Tô Nhĩ điện hạ, sau này Mạn Tô Nhĩ điện hạ đãng cơ Khalifah, hắn sẽ khổ sờ lắm đây.”

“Không chỉ có Mạn Tô Nhĩ, hắn và A Li già quan hệ cũng rất xấu, hắn ở Hà Trung giết giáo đồ Thập Hiệp phái quá nhẫn tâm. A Li già hận hắn đến tận xương tủy.”

Mấy vị quý tộc của Ả Rập đang khe khẽ bàn tán. Bùi Du đem điều này ghi nhớ ở trong lòng. Mộc Tư Lâm và Mạn Tô Nhĩ cùng với A Li già quan hệ cũng rất tồi tệ.

Lúc này. đội kỵ binh của A Bố - Mộc Tư Lâm đi qua rồi, trên đường cái lại khôi phục bình thường trở lại, Bùi Du giục ngựa hướng một con đường lớn cách đó không xa đi đến. vẫn nhắm thẳng mà đi đến.

hắn ở trước một cửa tiệm lớn bố trí xa hoa thì xuống ngựa, loại cửa tiệm này chuyên môn kinh doanh tơ lụa, đồ sứ, trà đến từ Đường triều, cùng với các loại hàng hóa mang đầy chất phương đông, đều là các vật phẩm cao cấp, rất được các quý tộc ở Đa-mát yêu thích, nơi này chính là cửa hiệu buôn bán của Hán Đường hội ở Đa-mát.

Hán Đường hội thông qua cửa hiệu này kiếm lấy rất nhiều lợi nhuận từ đó, đều chảy về phía Toái Hiệp, chống đỡ cho sự nghiệp của Ẩn Long bọn họ.

Bùi Du đi vào cửa tiệm, trong cửa tiệm rất rộng rãi, trên tường treo đầy các mẫu hàng tơ lụa, trên mấy cái giá cũng để đầy các loại đồ sứ, sứ trắng của Thục Châu Đại Áp, men sử xanh của Việt Châu.

Bùi Du xuất thân nhà giàu, hắn không khỏi có chút kinh ngạc, những thứ đồ sứ và tơ lụa này đều là hàng thượng đẳng, nhất là mấy bình men sử xanh dưới đất, thậm chí ở Trường An cũng không thấy được, chỉ là giá cả cực kì mắc, một sắp lụa Ngô thượng đẳng chào giá đến ba trăm đồng Địch Lạp Mỗ, dựa theo giá gạo mà so sánh, thì tương đương với ba mươi quan tiền, giá cả mắc gấp mười lần ở Trường An.

Đây là lần thứ hai hắn tới nơi này, lần trước hắn không có nhìn kỹ giá cả, hôm nay mới chú ý tới, lúc này, chủ tiệm đang chào khách ở một góc trong tiệm thấy hắn đến, lập tức nháy mắt với hắn, Bùi Du từ cửa hông đi vào bên trong nhà.

Chủ tiệm tên Sa Lỗ Mỗ, là một người Đột Quyết, khoảng chừng năm mươi tuổi, cũng là thành viên của Hán Đường hội, ở Đại Thực đã gần hai mươi năm, rất trung thành với Hán Đường hội.

Trong phòng, Bùi Du lấy ra một quyển tập thật dày, đây là những tình báo mà hai tháng nay hắn thu thập được từ các nơi của Đại Thực, hắn không vội đưa ngay cho Sa Lỗ Mỗ, mà là ở phía sau lại viết thêm mấy chữ: Mộc Tư Lâm và Mạn Tô Nhĩ cùng A Li giả quan hệ bất hòa.

Hắn đem quyển tập cẩn thận gói kỹ lại, đưa cho Sa Lỗ Mỗ cười nói: “Ba tháng này đã chạy không ít chỗ, việc còn lại bèn phiền toái đến người rồi.”

“Công tử yên tâm, ngày mai ta liền phái người đưa đi, đúng rồi! Toái Hiệp có một phong thư gửi cho công tử, là từ nửa tháng trước gửi đến, ta tìm Bùi Du tinh thần phấn chấn hẳn lên, vội vàng nói: “Thư ở đâu vây?”

“Công từ xin chờ một chút!”

Sa Lỗ Mỗ đi ra ngoài, lát sau, hắn cầm một cái hộp gỗ đi vào, đưa cho Bùi Du cười nói: “Hình như không chỉ có một phong thư, ta không có mở ra.”

Hộp gỗ được bịt kín, Bùi Du rút cây dao nhỏ ra, dọc theo khe hở từ từ cạy ra, bên trong có hai phong thư, trong đó trên phong thư thứ nhắt viết tên của hắn, hắn xé mở thư ra, bên trong chữ do Lý Khánh An tự tay viết, vừa mở đầu đã viết: ‘Quân có thể làm An Tây đặc sứ đến Congtantinopolis (tiếng Hán đọc là Quân Sĩ Thản Đinh Bảo), thuyết phục Byzantium (Thành phố thuộc địa của Hy Lạp cổ) cùng Đại Đường ở Y Đế Nhĩ (Edil) thành kiến lập khu mua bán...

Bùi Du ngây ngẩn cả người, hắn từ từ nhặt phong thư thứ hai lên, chỉ thấy trên tấm da dùng chữ Đột Quyết viết: Đại Đường An Tây tiết độ sứ, Đình quốc công, quán quân Đại tướng quân Lý Khánh An gửi hoàng đế bệ hạ Lợi Áo đệ tam (Leo III).

Ngay tại lúc Bùi Du nhận được sứ mệnh mới mà Lý Khánh An giao đó, ở trong hoàng cung Đa-mát lại đã xảy ra một cuộc tranh chấp khác.

ở trong cung điện vàng rực rỡ đó có bốn người, bọn họ đại biểu cho đế quốc thống trị tối cao của A Bạch Tư, ngoại trừ thúc thúc của A Bạch Tư là A Li giả đang chinh chiến ở Ai Cập ra, còn lại mấy người đều có mặt.

Người thứ nhất đương nhiên là Khalifah A Bạch Tư, người sáng lập vương triều A Bạch Tư, cái nắng khốc liệt ở Khố Pháp làm cho A Bạch Tư hoài niệm sự mát mẻ và tràn ngập một màu xanh mát ở Đa-mát, hắn từ giữa tháng năm liền đến Đa-mát qua mùa hè, sức khỏe hắn không được tốt lắm, ở trong chiến dịch sông Tigrơ (Tigre) hắn bị tiêu thương của loạn quân đâm trúng, thương thế mặc dù đã khỏi, nhưng đã bị thương nội phù, khiến cho hắn so với người thường càng khó chống đỡ sự xâm nhập của ốm đau.

Đây cũng là nguyên nhân vì sao hắn mới vừa đãng cơ liền quyết định cho huynh đệ Mạn Tô Nhĩ làm người thừa kế ngôi vị Khalifah, hắn rất lo lắng mình sẽ sớm qua đời, đứa con trai tuổi còn nhỏ không thể kế thừa sự nghiệp của hắn. nếu để cho đứa con trai còn nhỏ dại bị kẻ có dã tâm hại chết, không bằng ngay từ đầu liền chặt đứt cơ hội đăng cơ của hắn.

A Bạch Tư hiện tại gặp phải một sự lựa chọn, rốt cuộc có khai chiến cùng Đại Đường hay không? Theo bồn ý của hắn mà nói, vừa mới thành lập đế quốc, việc cấp bách là cũng cố chính quyền, mà không phải là nóng lòng gây thêm cường địch, hắn không phải thực tình muốn cùng Đại Đường đối địch.

cuộc chiến cùng Cao Tiên Chi chẳng qua chỉ là một cuộc phản kích với quy mô nhỏ, đánh xong hắn liền quyết định dừng tay, hơn nữa cuộc chiến ở Ai Cập còn chưa chấm dứt, đế quốc có thể chịu được hai tuyến áp lực tác chiến hay không?

Bởi vậy, hắn đối với việc A Bố - Mộc Tư Lâm đề nghị chính thức khai chiến với quân Đường vẫn chần chừ không phê chuẩn, trong nội tâm của A Bạch Tư rất mâu thuẫn, hắn vừa không muốn cùng quân Đường khai chiến, lại không muốn mất đi khu vực Hà Trung.

“Giả Pháp Nhĩ. ngươi cho rằng chúng ta có nhất thiết phải đánh trận này hay không?”

A Bạch Tư đem sự đắn đo giao cho đệ đệ Già Pháp Nhĩ, Già Pháp Nhĩ cũng chính là Mạn Tô Nhĩ. Mạn Tô Nhĩ là tôn hiệu của hắn. cũng như tôn hiệu của A Bạch Tư gọi là Tái Pháp Hách vậy, Tái Pháp Hách có nghĩa là người làm cho người khác đổ máu, mà Mạn Tô Nhĩ có nghĩa là kẻ chinh phục, nhưng ở trước mật huynh trường Khalifah. hắn vẫn là gọi là Giả Pháp Nhĩ.

Mạn Tô Nhĩ kiên quyết đồng ý cùng quân Đường tác chiến, vương triều ủy Mã Á mục nát cũng không có mất đi khu vực Hà Trung, thì vương triều mới A Bạch Tư làm sao lại có thể mất nó đi được? Chỉ là hắn không tán thành do Mộc Tư Lâm đi chiến đấu với quân Đường mà thôi, mà nên là do hẳn đi đánh trận này, hắn mới chính là trường quan quân sự tối cao của vương triều A Bạch Tư Ngải Mễ Nhĩ.

Mạn Tô Nhĩ hiểu được sự lo lắng của huynh trường. liền khuyên huynh trường nói: “Khalifah bệ hạ kính yêu, nếu như quân Đường chỉ là làng vàng ở khu vực sông Toái Hiệp, như vậy thì người thứ nhất phản đối cuộc chiến này chính là thần, nhưng quân Đường không có làm như vậy, bọn họ đem quân tây tiến, đã chiếm được Ta-xken (Taghkent), thậm chí còn cướp đi Đát La Tư thành của chúng ta.

Trên thực tế chiến dịch đã bắt đầu rồi, bọn họ đã đánh bại Hầu Mai Đức tướng quân anh dũng thiện chiến, thần có thể khẳng định, bước tiếp theo của bọn họ, chính là Tát Mã Nhĩ Hãn.

Điều này không phải là chúng ta có muốn cùng quân Đường tác chiến hay không, mà là chúng ta không thể không cùng quân Đường tác chiến, chẳng lẽ Khalifah bệ hạ chịu đem Hà Trung làm lễ vật hai tay dâng tặng cho quân Đường sao?”

A Bạch Tư thở dài một hơi, nói: “Nếu cũng giống năm trước chi cùng quân Đường đánh một trận, đệ sẽ không tiếc sinh mệnh của binh sĩ, điều đệ lo lắng chính là trận chiến này sẽ phải kéo dài dây dưa mãi, như vậy đối với vương triều mới của chúng ta sẽ rất bất lợi đấy!”

Lúc này, A Bố - Mộc Tư Lâm khom người nói: “Khalifah bệ hạ. thần chính là vì điều này mà đến Đa-mát khuyên bệ hạ hạ quyết định, chỉ cần bệ hạ cho thần đủ lương thực và vũ khí. hạ thần có lòng tin với một trận chiến đánh bại đại Đường, đem bọn họ đuổi về Toái Hiệp, chấm dứt giấc mơ của người đại Đường đối với Hà Trung.”

Cũng như rất nhiều người đều biết như vậy, Mộc Tư Lâm và Mạn Tô Nhĩ bằng mặt mà không bằng lòng, sự mâu thuẫn của bọn họ bùng nổ là ở tháng trước tại Khố Pháp, Mạn Tô Nhĩ tìm được thợ trong số các tù binh quân Đường, phát hiện tình hình thực tế vốn không phải như Mộc Tư Lâm đã nói, có cái thợ gì biết chế tạo giấy, không có, các thợ của quân Đường này ai cũng không biết chế tạo giấy.

Mạn Tô Nhĩ phát hiện đã bị mắc mưu thẹn quá hóa giận, cùng Mộc Tư Lâm trở mặt chửi nhau một trận, chuyện này truyền khắp Khố Pháp.

Cho dù hai người bọn họ bất hòa, nhưng ở trên việc cùng quân Đường khai chiến này, hai người lập trường giống nhau, Mạn Tô Nhĩ thấy A Bạch Tư dao động rồi, liền nháy mắt với duy tề nhĩ Pháp Hách Đức.

Duy tề nhĩ là chức quan tương đương với Tể tướng của đại Đường, nắm giữ trong tay quyền lực hành chính tối cao nhất của vương triều A Bạch Tư, người làm Duy tề nhĩ đầu tiên đó là Pháp Hách Đức chấp quản tài vụ, tâm phúc của A Bạch Tư.

Pháp Hách Đức cười cười nói: “Khalifah bệ hạ không cần lo lắng, vương triều ủy Mã Á lúc toàn thịnh hàng năm có thế thu từ Ai Cập một ngàn năm trăm vạn Địch Lạp Mỗ, hiện tại chúng ta đã thu được 800 vạn đồng bạc Địch Lạp Mỗ, đến cuối năm thần cho rằng một ngàn hai trăm vạn không thành vấn đề.

Điều này cho thấy Ai Cập trên cơ bản đã bị chúng ta chinh phục, Syria và Á Mĩ Ni Á(Armenia) cũng bắt đầu nộp thuế bình thường rồi, chi có Hà Trung và Tín Đức, khu vực Punjab mức thuế giảm đi rất nhiều.

Điều này cho thấy trọng tâm của chúng ta nên nghiêng sang hướng đông, cùng quân Đường tác chiến là một điều tất yếu bắt buộc, còn mỏ bạc lớn của chúng ta cũng đều tập trung ở phía đông Hô La San, nếu chúng ta không thề củng cố sự thống trị đối với phương đông, sẽ tổn hại rất lớn đến nguồn thu nhập của vương triều chúng ta.”

Dưới sự khuyên gián của ba vị đại thần, A Bạch Tư rốt cục đưa ra quyết định khai chiến với quân Đường, hắn nói với Mộc Tư Lâm: “Tác chiến với vương triều Đường không phải chuyện tầm thường, chỉ dựa vào quân đội Hô La San thì không thể thủ thắng, ta mệnh lệnh cho ngươi làm tiền quân thống soái, Giả Pháp Nhĩ dẫn quân Syria làm hậu quân thống soái.”

Mộc Tư Lâm kinh hãi. điều hắn lo lắng nhất cũng đã xảy ra rồi. Mạn Tô Nhĩ sẽ nhủng tay vào chuyện của Hô La San. hắn vừa muốn nói, thì A Bạch Tư lại khoát tay chặn ngừng lại lời nói của hắn. dùng một giọng kiên định, không thể phản bác mà nói: “Đây là mệnh lệnh của ta, ngươi nếu một trận chiến không thề đánh bại quân Đường, thì sẽ do Giả Pháp Nhĩ đến đánh trận thứ hai!”

(Thật cáo lỗi, Duy tề nhĩ đầu tiên của vương triều A Bạch Tư là ai tôi không có tra được, Ha Li Đức - Ba Nhĩ Mã là Duy tề nhĩ nổi tiếng của thời đại Mạn Tô Nhĩ, đành phải tự mình biên một cái tên, mặt khác, bởi vì A Bạch Tư không thích Khố Pháp không phải sợ nóng, mà là bởi vì Khố Pháp là căn cử địa của Thập Hiệp phái Islam.

lão Cao viết những điều này là muốn cố gắng trung thực với sự thật lịch sử. viết loại truyện này thật sự rất khó, thậm chí giá cả của một nô lệ cũng đều phải căn cứ sự thật lịch sử mà viết ra. không thể giống truyện kỳ huyễn vậy có thể ba hoa văn vẻ mà biên, mong mọi người lý giải.)


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.