Thiên Hạ Kiêu Hùng

Chương 911: Chương 911: Chặn giết sứ giả Đột Quyết (1+2)




- Hắn có nói gì không?

- Hồi bẩm tổ phụ, hắn không nói gì, chỉ tỏ vẻ lo lắng. Ngay cả một câu cũng không nói với cháu.

Bùi Củ gật đầu. Tuy Dương Nguyên Khánh cao ngạo, nhưng rất thông mình. Hẳn là hắn đã thấy được thế cục ác liệt hiện tại, mà suy nghĩ cặn kẽ.

Lúc này, Bùi Diệu do dự một chút nói:

- Vì sao tổ phụ không nhắc tới việc quan viên Hà Đông điều tới Hà Bắc làm việc. Chuyện này có thể ảnh hưởng tới lợi ích của Bùi gia.

Việc Bùi Diệu đang hỏi, chính là đề nghị của Tô Uy nói cho Dương Nguyên Khánh, hoán đổi quan viên Hà Bắc và Hà Đông nhằm phá vỡ việc khống chế của quan lại sĩ tộc ở địa phương. Phương án này đã bắt đầu thực thị. Đã có một vị Thái Thú, một vị Trưởng sử và mười vị Huyện lệnh được điều đến Hà Bắc. Những người này đều là thế lực bên ngoài của Bùi gia.

Chuyện này Bùi Củ vẫn không tỏ thái độ gì. Nhưng Bùi Diệu và các tộc nhân khác của Bùi thị đều rất lo lắng, chỉ là tìm không được cơ hội để khuyên bảo. Hôm nay, rốt cuộc Bùi Diệu không kìm nổi, nhắc nhở tổ phụ.

Bùi Củ hung hăng trừng mắt nhìn cháu trai:

- Chuyện này chả nhẽ ta không biết chắc? Cần gì phải ngươi nhắc nhở!

Giọng điệu nghiêm khắc của gia chủ, khiến Bùi Diệu sợ tới run rẩy, vội vàng cúi đầu:

- Cháu không dám!

Y vội vàng lui ra, vừa đến cửa, Bùi Củ bỗng nhớ tới một chuyên, liền gọi y lại:

- Chờ một chút!

- Tổ phụ còn có chuyện gì sao?

Bùi diệu khoanh tay hỏi,

Bùi Củ cực kỳ không vui nói:

- Chính là việc của muội muội ngươi. Nữ nhân của Bùi gia sao có thể bán rượu. Nó không muốn tái giá, ta sẽ không miễn cưỡng. Nhưng nó quyết không thể làm một thương nhân hám lợi. Bùi gia không thể dễ dàng tha thứ việc này!

- Cháu đã rõ, cháu sẽ đi khuyên muội muội.

- Không cần khuyên!

Bùi Củ lên giọng:

- Cảnh cáo nó. Nếu nó không biết hối cải, thì đừng trách ta dùng gia pháp xử lý…

Xe ngựa chậm rãi đi trên đường, Dương Nguyên Khánh ngồi trong xe, hai mắt khép hờ. Trong đầu hắn vẫn đang suy nghĩ tới đề xuất của Bùi Củ. Hướng Đường triều tỏ vẻ yếu thế, trấn an ở Đường triều. Hắn không phủ nhận việc Bùi Củ suy đoán Đột Quyết Khả Hãn muốn tạo uy danh. Khả năng này thực sự là quá cao.

Nhưng sẽ là lúc nào. Bây giờ là giữa tháng mười, gió lạnh đã thổi tới Thái Nguyên. Như vậy, thảo nguyên càng lạnh thấu xương. Mùa đông đã sắp đến, tuyết lớn sẽ bao trùm cả thảo nguyên. Trước đây chưa từng có việc Đột Quyết tấn công phía nam vào mùa đông. Bởi vì do hậu cần của bọn họ không thể cung cấp đủ. Một khi không thể lập tức đánh hạ Trung Nguyên, ngựa chiến của bọn họ chắc chắn sẽ chết đói.

Mùa xuân năm trước, Thủy Tất Khả Hãn đã tấn công Phong Châu, làm cho quân tâm bất ổn. Liệu Hiệt Lợi Khả Hãn sẽ giẫm lên vết xe đổ, đến mùa xuân thì tấn công phía nam sao? Có khả năng này, nhưng không lớn. Hắn Dương Nguyên Khánh không thể đưa ra những quyết sách trọng đại chỉ dựa vào một việc có xác suất xuất hiện nhỏ như vậy.

Mấu chốt là thời gian, chỉ cần có ba bốn tháng, hắn có thể dẫn Tây Đột Quyết tới, khơi mào cuộc chiến Đông Tây Đột Quyết. Như thế, hắn có thể tiêu trừ uy hiếp từ Đột Quyết phương bắc.

Tuy nhiên, vẫn phải trấn an Đường triều. Không thể vì tiền bạc phát hành mà bùng nổ chiến tranh. Ít nhất trong lúc loại bỏ nguy cơ từ Đột Quyết, phải trấn an Đường triều.

Dương Nguyên Khánh đang muốn hạ lệnh trở về Tử Vi Các bỗng nhiên, trong đầu hắn xuất hiện một ý niệm. Hắn nhớ tới vị công chúa Hiệt Dát Tư kia, lập tức cải biến chủ ý ra lệnh:

- Đi vòng về phủ…

A Tư Đóa từ sau khi đến Đại Tùy, vẫn thành thật sống ở trong phủ. Tâm tình của nàng không quá tốt, chủ yếu là vì dưới gối không con. Bất kể là nữ nhân nào, đều muốn có một đứa con để dựa sau này.

Nữ nhân tới một độ tuổi nhất định, đều khát vọng có thể có một đứa con của mình. A Tư Đóa cũng không ngoại lệ. Năm nay nàng đã hai mươi bốn tuổi, mong muốn có con khiến nàng lo lắng.

Bùi Mẫn Thu cũng lý giải tâm tình của nàng, nên thường xuyên khuyên trượng phụ để ý tới nàng. Nhưng trong bụng của A Tư Đóa vẫn không thấy động tĩnh khiến A Tư Đóa có chút tuyệt vọng. Nàng không muốn giống như Uất Trì, quy y Phật giáo, tìm sự yên lặng trong lòng mà muốn chuẩn bị tìm một đứa con nuôi.

A Tư Đóa có quan hệ rất tốt với Uất Trì và Giang Bội Hoa. Giữa trưa, nàng mới từ chỗ Uất Trì trở về. Vừa mới đi tới cửa sân, bỗng nhiên nghe thấy tiếng người gọi nàng:

- Đóa nhi!

Nàng có chút vui mừng bất ngờ. Người gọi nàng là Đóa nhi, chỉ có một người là Dương Nguyên Khánh. Nàng vừa quay đầu lại, quả nhiền là Dương Nguyên Khánh đang bước nhanh tới.

A Tư Đóa mừng rỡ, nhảy lên trước kéo tay của Dương Nguyên Khánh:

- Sao phu quân lại tới đây?

Mặt của nàng bỗng nhiên đỏ lên. Chẳng lẽ trượng phu muốn ban ngày làm chuyện đấy? Như vậy sao được.

Dương Nguyên Khánh nhưng không có suy nghĩ nhiều như vậy. Hắn kéo tay nàng qua một bên, thấp giọng hỏi:

- Ta nhớ tới nàng đã nói qua việc của công chúa Hiệt Dát Tư. Nàng nói lại cho ta một lần nữa.

- Phu quân hỏi cái này làm gì?

A Tư Đóa ghen tuông vểnh môi hỏi. Trong lòng nàng có chút thất vọng. Hóa ra là hắn chỉ quan tâm tới công chúa Hiệt Dát Tư, mà không phải mình, một công chúa Đột Quyết. Chẳng nhẽ hắn muốn cưới công chúa Hiệt Dát Tư sao?

- Sự tình rất quan trọng. Nàng mau nói cho ta biết!

A Tư Đóa nghe thấy là việc quan trọng, ghen tuông trong lòng liền biến mất, ngưng thần suy nghĩ một chút nói:

- Hiệt Dát Tư tổng cộng có ba vị công chúa. Hai vị trước đã xuất giá. Còn một vị tiểu công chúa gọi là Cống Lạp. Tướng mạo xinh đẹp như hoa, chỉ kém thiếp một tuổi. Thưở nhỏ nàng ta đã được hứa hôn cho Ba Vương Tử Mặc Kham Đa. Thiếp cảm thấy bọn họ hẳn là đã lập gia đình.

Dương Nguyên Khánh chính là muốn nghe tin tức này. Trong đầu hắn có một ý tưởng can đảm, khiến hắn hưng phấn không thôi. Hắn nhéo nhéo khuôn mặt của A Tư Đóa, cười nói:

- Buổi tổi ta sẽ khao nàng, ta đi trước đây.

Nói xong, Dương Nguyên Khánh xoay người bước nhanh rời đi. A Tư Đóa nhìn bóng lưng cao lớn của hắn dần đi xa. Nghĩ tới buổi tối hắn sẽ khao mình, xuân ý trong lòng lập tức dạt dào…

Ở biên giới dài dằng dặc giữa Đột Quyết và Trung Nguyên, gần như đại bộ phận đều là lãnh thổ của triều Tùy. Từ Liêu Đông tới Phong Châu, kéo dài mấy trăm dặm. Mà biên giới giữa Đường triều và Đột Quyết chỉ có vùng Hà Tây, dài mấy trăm dặm. Đại bộ phận ở đó là sa mạc, hầu như không có người sinh sống.

Chỉ có bắc đạo Trương Dịch là thương đạo duy nhất để Đường triều tiến vào Đột Quyết. Bắc đạo Trương Dịch còn tên gọi là thương đạo Cư Diên. Dọc theo Trương Dịch Hà Bắc đi lên mấy trăm dặm là đến Cư Diên Trạch. Cư Diên Trạch là biên giới phía bắc của Đường triều. Qua Cư Diên Trạch là tới địa giới của Đột Quyết. Mênh mông là thảo nguyên, không nhìn tới bến.

Thương đạo Cư Diên đã có lịch sử mấy trăm năm. Từ thời nhà Hán, các thương nhân vùng Tiểu Á đã bôn ba ngàn dặm đi tới Cư Diên Trạch. Lại theo Trương Dịch Hà Nam đi vào hành lang Hà Tây. Bọn họ thu mua tơ lụa và đồ sứ của Trung Nguyên ở quận Trương Dịch, sau đó lại vận chuyển về phương Tây xa xôi để thu những món tiền kếch sù.

Mà Đại Đường và Đột Quyết lui tới, cũng là đi bắc đạo Trương Dịch. Bởi vì quận Hội Ninh đã bị triều Tùy chiếm lĩnh, cho nên sứ giả Đột Quyết từ Trường An trở về Đột Quyết, cũng chỉ có thể đi quận Kim Thanh qua Hoàng Hà. Sau đó tiến vào hành lang Hà Tây, men theo bắc đạo Trương Dịch trở về thảo nguyên.

Quận Kim Thành chính là vùng Lan Châu sau này. Ở thời kỳ Tùy Đường, nơi đây có khí hậu ấm áp, lượng mưa đầy đủ, thảm thực vật tươi tốt, đất đai phì nhiêu, nhân khẩu dày đặc. Từ thời Hán tới nay, nơi đây đã là vùng đất giàu có và đông đúc. Nhưng nhân khẩu của quận Kim Thành tập trung chủ yếu ở đông Hoàng Hà. Mà ở tây Hoàng Hà, do núi non trập trùng, đất trồng trọt rất ít, phần lớn là sa mạc và cỏ. Nên ở đây tập trung chủ yếu là dân tộc du mục.

Trưa hôm nay, một đội ky binh gồm ba trăm người từ phương bắc đi tới. Đoàn người lao nhanh như điện. Nhưng vẫn có thể thấy rõ ràng là trang phục của kỵ binh Tùy. Mặc dù khôi giáp của bọn họ về cơ bản là giống với quân Đường, nhưng mũ giáp mà quân Tùy đội lại có màu đỏ của lửa. Đây là khác biệt lớn nhất giữa hai quân.

Sự khác biệt tiếp theo là hai cánh tay của quân Tùy có đeo vòng màu đỏ của lửa. Cuối cùng là chiến kỳ. Chiến kỳ của quân Tùy có thiêu một con xích ưng rất nổi bật, khác với màu cờ xen lẫn màu trắng hồng của quân Đường.

Tuy nhiên, đây là địa giới của Đường triều, nên đội quân Tùy này không có lộ ra chiến kỳ của bọn họ. Đoàn kỵ binh lao nhanh giữa thảo nguyên rộng lớn chạy về hướng nam. Dẫn đầu là một vị lão tướng tuổi gần bốn mươi. Ông ta là Á Tướng Mã Thiệu.

Mã Thiệu từ lúc hai mươi tuổi đã đi theo Dương Nguyên Khánh làm chức Hỏa Trưởng. Quê quán của ông ta chính là quận Trương Dịch. Trong dòng máu của ông ta, có một nửa là huyết thống người Hồ. Phụ thân của ông ta vốn là một võ sư người Hán. Vì nhỡ tay đánh bị thương một người, nên bỏ chạy tới quận Trương Dịch.

Về sau sinh sống ở quận Trương Dịch, cưới một vị nữ tử người Khương làm vợ, sinh ra Mã Thiệu. Mã Thiệu từ tám tuổi đã bắt đầu học võ. Mười hai tuổi liền đi theo phụ thân buôn ba ở hành lang Hà Tây, làm hộ vệ cho các thương nhân. Mười tám tuổi thì nhập ngũ. Năm Khai Hoàng thứ mười chín, Mã Thiệu đã hai mươi tuổi, đầu quân vào Dương Nguyên Khánh, trở thành nhóm thủ hạ đầu tiên của hắn.

Nhoáng cái đã gần hai mươi năm trôi qua. Mã Thiệu từ một tên tiểu binh dần dần đã trở thành Á Tướng, quan chức phong tới Hữu Đồn Vệ tướng quân, tước là huyện hầu Trương Dịch. Ông ta rất trung thành và tận tâm đối với Dương Nguyên Khánh.

Mã Thiệu vốn là phụ trách trị an của kinh thành. Nhưng sau triều Tùy chiếm được quận Hội Ninh, ông ta liền chuyển công tác thành tổng quản Hội Châu, dẫn theo năm nghìn quân đóng ở quận Hội Ninh, có nhiệm vụ là bảo vệ sự an toàn của mỏ bạc. Dương Nguyên Khánh vì tín nhiệm ông ta, mới giao phó trọng trách quan trọng như vậy.

Ước chừng vào mười ngày trước, Dương Nguyên Khánh ra lệnh cho Bùi Hành Nghiễm dẫn theo hai mươi nghìn quân tới tiếp viện cho quận Hội Ninh. Bởi vì Bùi Hành Nghiễm là tướng quân, bất kể là chức quan hay tước vị đều cao hơn Mã Thiệu một bậc, bởi vậy Mã Thiệu liền tạm thời trở thành phó tướng bắc quân. Lại vào ba ngày trước, Dương Nguyên Khánh phát tới mệnh lệnh, ra lệnh cho bọn họ chặn giết sứ giả Đột Quyết tới Đường triều. Mã Thiệu liền chủ động xin đi giết giặc, đảm đương nhiệm vụ lần này.

Võ nghệ của Mã Thiệu cũng không cao lắm, có thể cầm được một thanh Đại Khảm Đao nặng sáu mươi cân, nhưng đao pháp lại không tinh. Chủ yếu ông ta có kinh nghiệm phong phú, bản thân lại đã từng làm thám báo. Trải qua hai mươi năm kiếp sống quân lữ, kinh nghiệm của ông ta cực kỳ lão luyện.

Lần này mang theo ba trăm kỵ binh, đều là tinh nhuệ nhất trong hai mươi lăm nghìn quân. Mỗi người đều thành thạo việc bắn cung cưỡi ngựa, võ nghệ lại cao cường. Ngoại trừ chủ tướng Mã Thiệu, còn có hai vị thiên tướng tuổi còn trẻ. Một vị là Tiêu Diên Niên, mười bảy tuổi. Một vị là Tần Hoài Ngọc mười lăm tuổi.

Tiêu Diên Niên là con trai của Vũ Văn Thành Đô, đã được nói từ trước. Mà Tần Hoài Ngọc là đứa con cả của Tần Quỳnh. Trên thực tế, Tần Hoài Ngọc còn có hai vị huynh trưởng nhưng mười năm trước đã bị bệnh qua đời. Cho nên Tần Hoài Ngọc trở thành con cả. Y còn có hai vị tỷ tỷ, một vị đệ đệ. Hai tỷ tỷ đều đã xuất giá.

Dung mạo của Tần Hoài Ngọc rất giống Tần Quỳnh. Mắt hổ mũi cao, đôi tai rất lớn, nhưng lông mày lại thanh tú hơn Tần Quỳnh. Làn da của y rất trắng, cao tầm sáu thước hai tấc, vai rộng eo nhỏ, tư thế oai hùng.

Tần Hoài Ngọc là người văn võ song toàn. Năm tuổi luyện võ, mười tuổi đọc sách. Hai năm trước cũng vào cung cùng Dương Hựu đọc sách, đồng thời là thị vệ cho Dương Hựu. Ba tháng trước Tần Hoài Ngọc đủ mười lăm tuổi. Tần Quỳnh chính thức đồng ý y nhập ngũ, đi theo Bùi Hành Nghiễm xuất chinh quận Hội Ninh.

Tần Hoài Ngọc cũng sử dụng một cây mã giáo, phía sau là đoạt mệnh giản. Y đã học được chân truyền từ phụ thân Tần Quỳnh và sư phụ Bùi Hành Nghiễm, cho nên võ nghệ cực kỳ cao cường, được coi là người nổi bật trong số những vị tướng trẻ của Đại Tùy. Tuy Tần Hoài Ngọc chỉ có mười lăm tuổi nhưng tính cách đã rất trầm ổn, làm người chính trực, có phần bóng dáng của phụ thân.

Tiêu Diên Niên là đầu năm nhập ngũ. Y đã trải qua vài lần đại chiến, kinh nghiệm phong phú hơn nhiều lắm so với Tần Hoài Ngọc mới lần đầu xuất chinh. Bất quá y làm người khá kiêu ngạo, không nguyện ý hướng Tần Hoài Ngọc truyền thụ kinh nghiệm gì. Trên cơ bản, đều là do Mã Thiệu dạy Tần Hoài Ngọc một ít kinh nghiệm thám báo.

Mã Thiệu là người trầm mặc ít nói, nhưng tâm địa vô cùng tốt. Ông ta luôn ở mấu chốt chỉ điểm cho Tần Hoài Ngọc, để cho y tự mình suy nghĩ.

Mã Thiệu dùng ngón tay chỉ về hướng một rừng cây phía trước nói:

- Đến rừng cây kia nghỉ ngơi một chút.

Tiêu Diên Niên không nói một lời, nhưng Tần Hoài Ngọc lại tò mò hỏi:

- Mã thúc, vừa rồi chúng ta có đi qua một cánh rừng, hơn nữa lại dựa vào quan đạo, rất tiện cho việc tra xét tình huống. Vì sao không nghỉ ngơi ở bên kia?

- Những nơi dựa vào quan đạo rất dễ bị quân trinh sát của Đường phát hiện ra. Việc tra xét tình báo là chuyện của đội thám báo, chúng ta chỉ cần nghỉ ngơi thôi.

Mã Thiệu đơn giản giải thích, rồi phóng ngựa chạy tới khu rừng cách đó hai dặm. Tần Hoài Ngọc suy nghĩ một chút mới bừng tỉnh đại ngộ. Nếu bị trinh sát của quân Đường phát hiện, bọn họ sẽ thông báo cho sứ giả Đột Quyết. Vậy thì nhiệm vụ lần này của bọn họ coi như thất bại.

Lúc này, Tiêu Diên Niên phóng ngựa vượt qua y. Lòng tranh cường háo thắng lập tức khơi dậy trong lòng Tần Hoài Ngọc. Y cũng giục ngựa chạy nhanh. Ngựa chiến của y chính là do Dương Nguyên Khánh tặng. Đây là một con ngựa Đại Uyên, thể trạng cao lớn, tứ chi cường kiện. Rất nhanh đã vượt qua được Tiêu Diên Niên.

Tiêu Diên Niên cắn môi dưới, mãnh liệt quất ngựa chiến. Hai người đấu ngay ngắt, so tài chạy tới rừng cây, khiến cho bụi đất trên đường bay lên cuồn cuộn. Mã Thiệu nhìn bóng dáng của bọn hắn, không khỏi lắc đầu mỉm cười. Tuổi trẻ vẫn là tốt hơn!

Hai người gần như là đồng thời tới rừng cây. Bọn họ liếc nhau, hiểu ý mỉm cười. Lúc này ba trăm kỵ binh mới lục đục chạy tới. Mọi người vào rừng cây, đều tìm chỗ để nghỉ ngơi. Bọn họ lấy ra túi nước cho ngựa uống. Lại lấy ra hồ bánh gói trong lá sen, ăn rất ngon lành.

Mã Thiệu tìm tới một tảng đá lớn, mở ra bản đồ, cẩn thận quan sát đường đi ngõ tắt trên bản đồ. Ông ta rất tinh tường đối với địa thế vùng này. Ông ta biết sứ giả Đột Quyết muốn đi vào hành lang Hà Tây, tất nhiên sẽ đi qua con đường này.

Lúc đi nửa đường, bọn họ đã nhận được tin tức. Buổi sáng ngày hôm qua, sứ giả Đột Quyết đã đi qua Hoàng Hà. Như vậy trải qua một ngày một đêm liên tục chạy, hẳn là sắp tới vùng này rồi.

Mã Thiệu nhắm mắt trầm tư, lúc này Tiêu Diên Niên đi lên trước, ngồi xổm nhìn bản đồ hỏi:

- Sứ giả Đột Quyết có thể phái đội quân dò đường hay không?

Câu hỏi này hỏi đúng trọng tâm. Sứ giả Đột Quyết tổng cộng có mười tám người. Nhưng có hơn một trăm quân Đường hộ tống. Tới gần giữa trưa, khẳng định sẽ có đội quân đi phía trước dò đường. Mà nhiệm vụ của bọn họ chính là muốn tiêu diệt toàn bộ đám người, đồng thời hủy thây diệt tích. Cho nên đội quân dò đường không thể bỏ qua.

Mã Thiệu trầm ngâm một chút nhân tiện nói:

- Phía tây nam hai mươi dặm có một con sông nhỏ. Ở đó chắc có thể phát hiện ra tung tích của bọn hắn. Chúng ta sẽ chia làm hai đường, ta cho ngươi hai mươi người, phụ trách việc xử lý đội quân dò đường. Còn lại thì do ta phụ trách.

Tần Hoài Ngọc có lẽ còn có thể cò kè mặc cả, nhưng Tiêu Diên Niên sẽ không. Y biết đây là mệnh lệnh, y nhất định phải chấp hành. Tiêu Diên Niên lập tức đứng lên ôm quyền nói:

- Ty chức tuân mệnh!

Tiêu Diên Niên trở mình lên ngựa, dẫn theo hai mươi kỵ binh chạy như bay. Tần Hoài Ngọc khó hiểu, chạy lên trước hỏi:

- Mã thúc, Tiêu đại ca muốn đi nơi nào?

Mã Thiệu vỗ vỗ bờ vai của y, trầm giọng nói:

- Nếu là quân nhân, nên xưng ta là tướng qxưng y là Tiêu Giáo Úy. Nhớ kỹ đấy!

Mặt của Tần Hoài Ngọc trở nên đỏ, liền vội vàng khom người nói:

- Ty chức nhớ kỹ.

Mã Thiệu nhìn thoáng qua đám binh sĩ còn đang liều mạng uống nước ăn lương khô, liền thâm ý nói với Tần Hoài Ngọc:

- Ngươi nên học tập các huynh đệ, nắm chặt thời gian ăn cơm trưa. Một lát sau chúng ta sẽ xuất phát…

Ở quan đạo cách đó hai mươi dặm, năm người kỵ binh quân Đường đang chạy vội. Bọn họ chính là quân dò đường cho sứ giả Đột Quyết. Tới gần giữa trưa, bọn họ cần phải tìm một chỗ để cho đoàn sứ giả nghỉ ngơi. Vùng này vừa lúc kẹp giữa hai ngọn núi lớn, hai bên là rừng rậm. Bọn họ cần phải tìm một dòng sông nhỏ hoặc con suối.

Bọn họ lại chạy được ba dặm đường, đã nhìn thấy khe núi. Một tên binh lính chỉ phía trước hô to:

- Có một con sông nhỏ!

Phía trước quả nhiên có một con sông nhỏ. Bọn họ chạy lên trước. Chỉ thấy con sông rộng chừng bốn năm trượng. Lòng sông rất cạn, nước sông chỉ tới mắt cá chân. Dòng nước chảy xiết, từng bọt nước màu trắng bắn lên, lạnh lẽo mà trong suốt.

Bọn họ lại nhìn kỹ bốn phía. Chỉ thấy cách đó không xa là một rừng cây phong. Lá cây đỏ bừng, khiến cả khu rừng giống như bị lửa thiêu, xinh đẹp dị thường. Đây là nơi phù hợp để nghỉ ngơi.

Năm tên kỵ binh Đường mừng rỡ, liền quay đầu ngựa lại chạy về thông báo. Bọn họ vừa mới chạy tới thung lũng, đột nhiên, nghe thấy tiếng dây cung vang lên. Hai mươi mũi tên từ hai bên phóng tới. Bốn người quân Đường kêu thảm một tiếng, rơi xuống ngựa.

Còn một người thì sợ đến hồn phi phách tán, điều khiển ngựa chạy đi hướng khác để trốn. Nhưng mới trốn được hai mươi bước, một mũi tên đã vù vù phóng tới, bắn trúng gáy của y. Người kỵ binh Đường hai tay ôm cổ họng, trợn mắt rơi xuống ngựa. Tiêu Diên Niên để cung tên xuống, lạnh lùng lầm bầm nói:

- Ngươi sao có thể tránh nổi mũi tên của ta…

Đoàn sứ giả Đột Quyết tổng cộng có mười tám người. Người đứng đầu là phó tướng Mặc Diên Trác. Sau khi Dương Nguyên Khánh suy nghĩ cặn kẽ, hắn quyết định diệt trừ đoàn sứ giả này. Đây thật ra là một sự mạo hiểm chính trị rất lớn. Sớm muộn gì người Đột Quyết cũng sẽ biết là quân Tùy hạ thủ. Đây chính là cái cớ tối nhất để người Đột Quyết tấn công quân Tùy. Điểm này, trong lòng Dương Nguyên Khánh biết rõ.

Nhưng bất cứ chuyện gì, đều có cái lợi cái hại của nó. Mấu chốt là cái lợi lớn, hay cái hại lớn. Chỉ cần có 51% cái lợi, thì lợi đã lớn hơn hại, có thể xem xét chấp hành. Trừ khử đội sứ đoàn Đột Quyết, trong thời gian ngắn, là có lợi cho triều Tùy. Cùng lúc nó có thể tạo ra sự ngờ vực vô căn cứ giữa Đột Quyết và Đường triều. Phá hư sự kết minh cùng tấn công Tùy giữa hai nước.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.